Xem mẫu
- TỈNH QUẢNG BÌNH - TIỀM
NĂNG PHÁT TRIỂN
Cảng cá Nhật Lệ
Quảng Bình có bờ biển dài 116,04km với 5 cửa sông, trong đó có hai
cửa sông lớn là Gianh và Nhật Lệ. Bờ biển có nhiều thắng cảnh đẹp,
cùng với thềm lục Cảng cá Nhật Lệ địa rộng gấp 2,6 lần diện tích đất
liền tạo cho Quảng Bình có một ngư trường rộng lớn với trữ lượng
khoảng 10 vạn tấn và phong phú về loài (1650 loài), trong đó có
những loài quý hiếm như tôm hùm, tôm sú, mực ống, mực nang, sò
huyết, rắn biển...
- Phía Bắc Quảng Bình có bãi san hô trắng với diện tích hàng chục ha,
đó là nguồn nguyên liệu quý cho sản xuất hàng mỹ nghệ và tạo ra
vùng sinh thái của hệ san hô.
Quảng Bình có vùng mặt nước có khả năng nuôi trồng thủy sản khá
lớn với tổng diện tích 15.000ha. Độ mặn ở vùng mặt nước từ cửa
sông vào sâu khoảng 10-15km giao động từ 8-30%o và độ pH từ 6,5-
8 rất thuận lợi cho việc nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu. Chế độ bán
nhật triều vùng ven biển thuận lợi cho việc cấp thoát nước cho các
hồ nuôi tôm, cua.
Quảng Bình có hệ thống sông suối khá lớn, với mật độ tương đối dày,
trung bình 0,8 - 1,1 km/km2.với 5 sông chính là sông Roòn, sông
Gianh, sông Lý Hoà, sông Dinh và sông Nhật Lệ.
Quảng Bình có khoảng 160 hồ tự nhiên và nhân tạo với dung tích
ước tính 243,3 triệu m3.
2. Tài nguyên rừng:
Tổng diện tích rừng ở Quảng Bình là 486.688ha, trong đó rừng
tự nhiên 447.837ha, rừng trồng 38.851ha.
- Rừng tự nhiên có các loại gỗ quý hiếm như lim, gụ, huệng,
mây…với trữ lượng 31 triệu m3.
Rừng trồng có 5.526ha cao su, 27.000ha cây thông nhựa là
nguồn nguyên liệu lớn cho công nghiệp chế biến cao su và
Colophan.
3. Khoáng sản:
Quảng Bình có nhiều loại khoáng sản như vàng, sắt, titan, pyrit,
chì, kẽm... và một số khoáng sản phi kim loại như cao lanh, cát
thạch anh, đá vôi, đá granit... Trong đó, đá vôi và cao lanh có trữ
lượng lớn, đủ điều kiện để phát triển công nghiệp xi măng và
vật liệu xây dựng với quy mô lớn. Cát thạch anh có chất lượng
cao, có thể phát triển công nghiệp sản xuất kính cao cấp.
Trữ lượng vàng tại Quảng Bình có khả năng để phát triển công
nghiệp khai thác và chế tác vàng.
Quảng Bình có suối Bang là suối nước nóng nóng nhất ở Việt
Nam với nhiệt độ tại lỗ phun 105oC
4. Lao động:
Quảng Bình có nguồn lao động dồi dào với 415.950 người,
chiếm khoảng 49,15% dân số, đủ điều kiện đáp ứng nhu cầu về
lao động cho các nhà đầu tư .
5. Văn hoá và tiềm năng du lịch:
- Dải đất Quảng Bình như một bức tranh hoành tráng, có rừng,
có biển với nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp, thắng cảnh nổi
tiếng: đèo Ngang, đèo Lý Hoà, cửa biển Nhật Lệ. Đặc biệt có Di
sản thiên nhiên thế giới - Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng
là địa điểm hấp dẫn thu hút khách trong và ngoài nước đến
tham quan.
Cầu Nhật Lệ
Các nhà đầu tư đến Quảng Bình có thể giải trí sau những giờ
làm việc tại các khu du lịch của tỉnh như: Khu du lịch cao cấp
Sunsparesort, Biển Đá Nhảy, Biển Nhật Lệ, Di sản thiên nhiên
thế giới Phong Nha - Kẻ Bàng, khu du lịch nước nóng Suối
Bang...v.v, và có thể tới các tỉnh lân cận một cách thuận lợi như:
du lịch biển tại Cửa Lò và di tích Cố đô Huế...
Khu du lịch Phong Nha
Lịch sử biết đến dòng sông Gianh (Quảng Trạch - Quảng Bình) như là
một đường biên giới ở đồng bằng và là ranh giới chia cách đất nước
trong nhiều thế kỷ, từ thời hai quốc gia Đại Việt và Chiêm Thành giao
chiến, thời Trịnh - Nguyễn phân tranh...
- Mảnh đất ven sông Gianh còn có tầng văn hóa lâu đời, mà một trong
những biểu hiện của nó là các làng nghề truyền thống: làng nghề
mộc, nghề rèn, nghề chạm, nghề đan lát, làm nón, đan lưới...
Sông Gianh là một trong năm con sông lớn nhất ở Quảng Bình, dài
hơn 150 km, chảy vắt ngang từ Tây sang Đông, được hội tụ từ bốn
nguồn chính: nguồn Nậy, nguồn Trổ, nguồn Nan và nguồn Son. Thế
kỷ XV, đề cập đến đặc điểm thiên nhiên của vùng Thuận Hóa (sau
này là Bình Trị Thiên), Nguyễn Trãi nói đến Nam Hải và sông Linh
Giang (tên gọi sông Gianh lúc đó) như một vùng đất chiến lược, có
núi cao biển rộng, địa thế hiểm trở. Sông Gianh đã từng là biên giới
giữa Đại Việt và Chiêm Thành cho đến khi được sáp nhập vào Đại
Việt từ thế kỷ XI. Sau đó, nối tiếp nhau các vương triều phong kiến
Đại Việt thi hành chính sách di dân, đưa người Việt vào khai hoang
lập ấp, sinh sống ở đó.
Đến thời Trịnh Nguyễn phân tranh cũng chọn ngay sông Gianh làm
ranh giới về mặt hành chính, mặc dù trong thực tế chiến sự hầu như
- không diễn ra ở đó mà lùi mãi về phía kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ, là đầu mối của những mũi giao thông thủy bộ lợi hại: một
ngả qua sông Son lên phà Xuân Sơn tiếp xúc với đường Trường Sơn,
một ngả ra biển Đông theo con đường Hồ Chí Minh trên biển, một
ngả đường bộ vào Nam theo quốc lộ 1A... cảng sông Gianh trở thành
“tọa độ lửa” - trọng điểm địch tập trung bắn phá, còn với ta là nơi tập
kết lực lượng, hàng hóa trước khi ra chiến trường, cần được bảo vệ
bằng mọi giá.
Với lịch sử lâu đời, những làng xã ở lưu vực sông Gianh có nền văn
hóa đặc sắc, không chỉ nổi tiếng về truyền thống khoa cử với bốn
làng trong “bát danh hương” Quảng Bình: Sơn, Hà, Cảnh, Thổ (Lệ
Sơn, La Hà, Cảnh Dương, Thổ Ngọa), ngoài ra còn có những làng
nghề cổ truyền với sản phẩm đã trở nên quen thuộc với người dân
trong và ngoài tỉnh. Những làng nghề đó có từ rất lâu, mà đến hôm
nay lớp con cháu cũng không rõ nguồn gốc xuất xứ. Có những làng
được hình thành do nhu cầu sinh hoạt của người dân trong quá trình
khai khẩn đất đai, như nghề đan lát, làm nón, trồng bông dệt vải... Lại
có những làng nghề ra đời do điều kiện lịch sử như nghề mộc, nghề
rèn, nghề chạm. Ví như nghề rèn, đúc ở làng Hòa Ninh, xã Quảng Hòa
được hình thành từ thời chiến tranh Trịnh Nguyễn để cung cấp vũ
khí, đáp ứng yêu cầu chiến sự lúc đó. Sản phẩm truyền thống của các
làng nghề đã đi vào thơ ca, hò vè dân gian:
- Đồ đan Thọ Đơn
Hàng may Pháp Kệ
Hàng chiếu Thanh Sơn
Ngọa Cương làng gốm
Giấy bổn Diên Trường
Nón Kinh chợ Ngọa
Mắm cá Cảnh Dương
Hà Khương thao lụa
Thanh Lạng tre nứa
Dao búa Hòa Ninh
Bánh tráng Lộc Điền
Lệ Sơn ngô lạc
Hàng quạt Trung Thuần
Thuận Bài vải sợi
...
- Đến nay, có những nghề đã thất truyền, có những nghề còn tồn tại.
Không thể giới thiệu hết các làng nghề truyền thống ở ven sông
Gianh trong một bài viết ngắn ngủi, chúng tôi chỉ xin điểm qua vài
làng nghề nổi bật nhất còn tồn tại đến ngày nay và vẫn đảm bảo đem
lại thu nhập cho người dân, như làng Thọ Đơn với nghề đan lát,
Thuận Bài, Thổ Ngọa với nghề làm nón, Quảng Lộc với nghề đan
lưới…
Nghề đan lát ở Thọ Đơn ra đời trên cơ sở đáp ứng yêu cầu của một
nghề khác: nghề đánh bắt cá biển ở các làng Cảnh Dương, Lý Hòa…
Bởi thế, sản phẩm ở đây chủ yếu là nong, nia, rổ, rá, sàng, dần, với
những nguyên vật liệu tương đối đơn giản như mây, tre vốn có rất
nhiều ở các huyện lân cận như Tuyên Hóa, Minh Hóa, Bố Trạch.
Người ta chọn mua tre già vào các tháng rét để tránh mọt, mối. Sau
đó là cả một quy trình làm sản phẩm hầu như không có mấy thay đổi
so với thời ông cha: chẻ tre, vót nan, đem phơi, lại mang đi xông khói
để chống mọt và cũng để cho nan tre lên nước vàng bóng như đánh
vecni. Tiếp đến, người ta đem đan tấm, kéo (lận) thành sản phẩm
theo ý muốn, cuối cùng là nức vành cho sản phẩm. Đồ đan Thọ Đơn
được tiêu thụ nhiều không chỉ trong nội tỉnh mà còn ở các vùng lân
cận như Hà Tĩnh, Quảng Trị... Những bậc cao niên trong nghề tự hào
nói rằng ít nhất so với những vùng đan lát khác, nguồn tre ở đây rất
đảm bảo chất lượng để tạo ra độ bền sản phẩm, cộng với sự khéo léo
- của người thợ để tạo ra những hoa văn đẹp đẽ, độc đáo riêng có ở
làng, nên sản phẩm đồ đan Thọ Đơn vẫn tồn tại cho đến ngày nay và
vẫn đem lại thu nhập đáng kể cho người dân, bên cạnh thu nhập từ
nghề nông. Ở Thọ Đơn, nghề đan được làm theo vụ khớp với mùa cá,
tức là khoảng tháng 3-4 âm lịch. Do đó, nó vẫn được xem là nghề phụ
làm lúc mùa màng rảnh rỗi, tận dụng được nhiều lao động từ trẻ đến
già. Vào đúng vụ, cả làng rộn rã tiếng vót nan, đan lát, có những
nhóm tập trung con trai con gái từ 8-10 người làm chung, vừa làm
vừa trò chuyện, hát hò vui vẻ, đó cũng là một hình thức sinh hoạt
văn hóa tinh thần cộng đồng lành mạnh được gìn giữ tự bao đời vậy.
Nói đến nghề làm nón ở ven sông Gianh, có thể kể ra nhiều làng nghề
như Thổ Ngọa, Thuận Bài, Minh Lợi... Cũng như nghề đan lát, nguyên
liệu làm nón chủ yếu là lá nón, nứa, tre sẵn có trên rừng. Chiếc nón
tuy đơn giản, ít khó nhọc, dễ làm nhưng người làm lại không chủ
động được về nguyên vật liệu. Đầu tiên người ta vót vành nón làm
bằng thân cây lồ ô, sau đó lên vành. Lá nón là thứ lá tơi non ở rừng
hoặc là lá dừa, được ủi cẩn thận sao cho phẳng mà vẫn giữ được độ
trắng sáng, tiếp đến lại được cắt, xâu lại rồi đem dàn đều lên khuôn.
Sợi may nón ngày xưa là sợi cây đoác, còn gọi là móc. Đoác giống cây
dừa, thân có bẹ, cuối bẹ là những tấm móc đan bọc quanh thân. Ngày
nay, người thợ may nón đã dùng sợi tơ, sợi cước để may nón. Chiếc
nón do đó cũng đẹp hơn, bền hơn. Giá thành chiếc nón phụ thuộc
- vào giá những nguyên vật liệu ấy. Nghề làm nón cũng được xem là
nghề phụ, nhưng nhiều người, đặc biệt là phụ nữ làm vì kỹ thuật
không phức tạp, đến trẻ nhỏ 10-13 tuổi cũng đã làm được. Chiếc nón
lá mộc mạc của người dân ven sông Gianh lại đặc biệt phù hợp với
thời tiết khắc nghiệt miền Trung, điều mà chiếc nón bài thơ dịu dàng
của các cô gái Huế không làm được, vì thế nó được bà con nông ngư
dân xem chuộng. Gộp lại, tổng thu nhập nghề làm nón đem lại cho
người dân cũng khá lớn.
Cũng đáp ứng nhu cầu nghề đánh cá, cũng hình thành ở đây nhưng
làng nghề đan lưới, đóng thuyền ở xã Quảng Lộc, Thanh Trạch... Nói
chung, những làng nghề truyền thống ven sông Gianh ra đời trước
hết để phục vụ những nhu cầu tự thân của bà con nông ngư dân. Dù
thế, ẩn sâu trong đó vẫn có những nét đẹp văn hóa, lịch sử lưu
truyền từ đời này sang đời khác, như hình thức sinh hoạt cộng đồng
ở làng Thọ Đơn đã nói chẳng hạn, thông qua đó mà củng cố thêm
tình làng nghĩa xóm, tình đoàn kết giữa người dân không chỉ trong
một làng, mà còn cả một xã, một huyện, một vùng... Lối sống tốt đẹp
đó cho đến nay vẫn còn được những người nông dân mộc mạc trân
trọng gìn giữ. Tuy nhiên, cũng phải nói thêm rằng một thực trạng
hiện nay là các nghề truyền thống ở đây đang dần bị thất truyền, do
sự cạnh tranh của những đồ gia dụng hiện đại. Sự phát triển tất yếu
khách quan đó yêu cầu bản thân các làng nghề phải có sự thay đổi cả
- về kỹ thuật, nguyên liệu, cách thức làm sản phẩm... để có thể tồn tại
được.
nguon tai.lieu . vn