Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 112 – 119
Part A: Social Sciences, Humanities and Education
TỈ LỆ THỪA CÂN BÉO PHÌ VÀ CÁC YẾU TỐ CÓ LIÊN QUAN Ở TRẺ 5 ĐẾN 6
TUỔI TẠI THÀNH PHỐ LONG XUYÊN TỈNH AN GIANG
Phan Thị Ngọc Nhanh1, Lê Ngọc Phượng1
1
ThS. Trường Đại học An Giang
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 25/03/15
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
24/04/15
Ngày chấp nhận đăng: 03/16
Title:
The prevalence of overweight
state and obesity among
children in Longxuyen within 5
and 6 years old
Từ khóa:
An Giang, Long Xuyên, thừa
cân béo phì, trẻ béo phì
Keywords:
An Giang, Long Xuyen,
overweight and obesity,
childhood obesity
ABSTRACT
The study was performed on 460 children from 5 to 6 years old in Long Xuyên
city, An Giang province in 2014 to determine the prevalence of overweight state
and obesity; while considering the relationship of risk factors for overweight
state and obesity in children. The research methodology employed was cross sectional survey. Results of the study showed that the prevalence of overweight
presence and obesity is 17.4%. Overweight and obese children are more likely
to regularly eat fast food than normal children. The risk of overweight state and
obesity for children eating at a faster rate and having dinner after 8 pm is
higher than other children. The study also showed that overweight children
often sleep later than normal children. The study carried out on the children in
Long Xuyen, An Giang indicated that the risk of overweight state and obesity
for children sleeping in a room with air conditioning is also higher.
TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện trên 460 trẻ từ 5 đến 6 tuổi trên địa bàn thành phố
Long Xuyên An Giang năm 2014 để xác định tỉ lệ thừa cân béo phì; đồng thời
xem xét mối liên quan của các yếu tố nguy cơ đối với tình trạng thừa cân béo
phì ở trẻ em. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là điều tra cắt ngang. Kết quả
nghiên cứu cho thấy trong nhóm trẻ nghiên cứu có khoảng 17,4% bị thừa cân
béo phì. Trẻ thừa cân béo phì thích ăn thức ăn nhanh và thường xuyên sử dụng
loại thức ăn này hơn trẻ bình thường. Trẻ có tốc độ ăn nhanh và ăn tối sau 20
giờ có nguy cơ thừa cân béo phì cao hơn những trẻ khác. Nghiên cứu bước đầu
cũng cho thấy trẻ thừa cân béo phì thường ngủ muộn hơn trẻ bình thường.
Trong nhóm trẻ được nghiên cứu, những trẻ ngủ trong phòng có sử dụng máy
điều hòa không khí có nguy cơ bị thừa cân béo phì cao hơn.
“mũm mĩm” chưa hẳn là khỏe đẹp mà đôi khi còn
ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ. Bởi vì một số
nghiên cứu đã chỉ ra rằng trẻ béo không chỉ vận
động chậm chạp hơn so với trẻ bình thường mà
còn cảm thấy thiếu tự tin do bị bạn bè trêu chọc
về ngoại hình của mình. Quan trọng hơn, trẻ béo
phì sẽ gặp phải nhiều nguy cơ bệnh lý tim mạch,
cao huyết áp, rối loạn khớp xương,...
1. GIỚI THIỆU
Thừa cân béo phì là một bệnh thường gặp ở mọi
lứa tuổi và đang gia tăng nhanh chóng trong
những năm gần đây. Theo kết quả điều tra năm
2010 của Viện Dinh dưỡng, tỉ lệ trẻ em dưới 5
tuổi bị thừa cân béo phì là 5,6% và có sự khác biệt
là 2,3% giữa thành thị và nông thôn. So với 10
năm trước thì tỉ lệ này đã tăng lên 6 lần. Trẻ em
112
Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 112 – 119
Part A: Social Sciences, Humanities and Education
Từ trước đến nay, đã có nhiều nghiên cứu tìm
hiểu về tỉ lệ thừa cân béo phì ở trẻ em. Các cuộc
điều tra đã ghi nhận tỉ lệ thừa cân béo phì trên học
sinh tiểu học vào năm 2000 tại Hà Nội là 10%,
Thành phố Hồ Chí Minh là 12%. Nghiên cứu của
Bùi Văn Bảo và cộng sự đã cho thấy tỉ lệ thừa cân
béo phì ở trẻ tiểu học tại thành phố Nha Trang
năm 2001 là 5,9%, tăng 3,2% so với năm 1997
(trích trong Phùng Đức Nhật, 2014, tr. 2). Theo
nghiên cứu mới đây, tỉ lệ trẻ mẫu giáo 5 tuổi thừa
cân béo phì trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
là 21,1% (Phùng Đức Nhật, 2008). Hầu hết các
nghiên cứu nhận định rằng trẻ em bị thừa cân béo
phì có liên quan đến chế độ dinh dưỡng và vận
động. Thừa cân béo phì thực sự đang là một vấn
đề dinh dưỡng khẩn cấp. Tuy nhiên tại thành phố
Long Xuyên, An Giang cũng chưa có nhiều
nghiên cứu đề cập đến tỉ lệ thừa cân béo phì, đặc
biệt là các yếu tố có liên quan nói chung và các
yếu tố nguy cơ trên trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi nói
riêng.
Tỉ lệ thừa cân béo phì được nghiên cứu trên 460
trẻ lớp lá có độ tuổi từ 5 – 6 tuổi tại thành phố
Long Xuyên, An Giang.
Các yếu tố liên quan được nghiên cứu trên nhóm
bệnh chứng gồm 80 trẻ thừa cân béo phì và nhóm
đối chứng (trẻ bình thường) tương ứng thuộc
nhóm trẻ nghiên cứu.
3.2 Phương pháp nghiên cứu
a. Thu thập số liệu
Các số liệu được thu thập vào tháng 10 năm 2014.
Cân nặng của trẻ được xác định bằng cân bàn
TANITA có độ chính xác đến 100 g, chiều cao
được đo bằng thước hợp kim có độ chính xác đến
1 mm. Dữ liệu về các yếu tố nguy cơ được phỏng
vấn bằng bảng hỏi từ hai nguồn: nhà trường và gia
đình; cụ thể gồm 21 giáo viên chủ nhiệm và 160
phụ huynh (cha /mẹ) của nhóm trẻ được nghiên
cứu.
b. Tiêu chuẩn đánh giá
Chỉ số BMI theo tuổi được tra vào bảng Z – cores
của Tổ chức Y tế Thế giới dành cho trẻ dưới 9
tuổi để xác định thừa cân béo phì.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Xác định tỉ lệ thừa cân béo phì trên trẻ 5 đến 6
tuổi ở một số trường mẫu giáo tại thành phố Long
Xuyên, An Giang.
Xác định mối liên quan giữa thói quen ăn uống,
sở thích ăn uống, mức độ sử dụng thức ăn và hoạt
động ngủ của trẻ với tình trạng thừa cân béo phì
trên nhóm trẻ nghiên cứu.
3. ĐỐI TƯỢNG
NGHIÊN CỨU
VÀ
PHƯƠNG
Chỉ số BMI được phân loại theo bảng Z – cores
như sau:
PHÁP
3.1 Đối tượng nghiên cứu
BMI < - 3 SD
Suy dinh dưỡng độ 2
- 3 SD ≤ BMI < - 2 SD
Suy dinh dưỡng độ 1
- 2 SD ≤ BMI ≤ 2 SD
Bình thường
2 SD < BMI ≤ 3 SD
Thừa cân
BMI > 3 SD
Béo phì
113
Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 112 – 119
Part A: Social Sciences, Humanities and Education
dùng cho biến số trung bình, tỉ số chênh (OR)
được dùng trong thống kê phân tích.
c. Xử lý số liệu
Số liệu thu thập được xử lý thống kê bằng phần
mềm Microsoft Excel. Các thông số: tỉ lệ (%),
trung bình cộng và độ lệch chuẩn được sử dụng
trong thống kê mô tả. Kiểm định nhị phân được
áp dụng cho biến tỉ lệ, kiểm định T – test được
4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Tỉ lệ thừa cân béo phì ở nhóm trẻ nghiên
cứu
Bảng 1. Tỉ lệ thừa cân béo phì của trẻ dựa vào chỉ số BMI theo tuổi.
Phân loại
n
%
Suy dinh dưỡng độ 2
2
0,4
Suy dinh dưỡng độ 1
14
3,1
Bình thường
364
Thừa cân
47
10,2
Béo phì
33
7,2
n
%
16
3,5
79,1
80
Tổng
17,4
460
Biểu đồ 1. Tỉ lệ thừa cân béo phì (phân loại theo BMI)
Nghiên cứu cho thấy có 80 trẻ bị thừa cân béo phì
chiếm tỉ lệ 17,4%, trong đó có 10,2% trẻ thừa cân
và 7,2% trẻ béo phì; có 364 trẻ bình thường chiếm
tỉ lệ 79,1%; suy dinh dưỡng là 16 trẻ chiếm tỉ lệ
3,5%, trong đó có 3,1% trẻ suy dinh dưỡng độ 1
và 0,4% trẻ suy dinh dưỡng độ 2. Tỉ lệ thừa cân
béo phì trong nhóm trẻ nghiên cứu là khá cao, cao
hơn 6,4% so với tỉ lệ trẻ mẫu giáo thừa cân béo
phì ở Long Xuyên trong nghiên cứu của Trung
tâm chăm sóc sức khỏe tỉnh An Giang vào năm
2011 (17,4% so với 11%). So với tỉ lệ trẻ dưới 5
tuổi thừa cân béo phì cùng năm trên toàn quốc thì
tỉ lệ này cao gấp 2,7 lần (17,4% so với 6,5%) (Cục
Y tế dự phòng, 2014). Tuy nhiên, so sánh với tỉ lệ
thừa cân béo phì ở trẻ cùng tuổi tại Mỹ Tho –
Tiền Giang trong nghiên cứu của Trần Phương
114
Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 112 – 119
Part A: Social Sciences, Humanities and Education
Bình và Tạ Văn Trầm (2012) thì tỉ lệ trẻ thừa cân
béo phì trong nghiên cứu này thấp hơn 3,9%
(17,4% so với 21,3%); trong đó tỉ lệ thừa cân cao
hơn (10,2% so với 9,1%) còn tỉ lệ béo phì thì thấp
hơn nhiều (7,2% so với 12,2%).
4.2 Đặc điểm dinh dưỡng của trẻ
Trong tổng số 160 bảng hỏi được phát ra, có 154
bảng hỏi được thu về và sử dụng trong thống kê,
trong đó nhóm trẻ thừa cân béo phì là 80 bảng hỏi
và nhóm trẻ không thừa cân là 74 bảng hỏi.
Bảng 2. Mối liên quan giữa thói quen ăn uống của trẻ với tình trạng thừa cân béo phì của trẻ
Không thừa cân
Thừa cân béo phì
N = 74
N = 80
Đặc tính
z
n
%
n
OR
2,001*
0,5
%
Ăn tối
Có
29
38,8
44
54,7
sau 20 giờ
Không
45
61,2
36
45,5
Thường xuyên
30
40,8
36
45,3
Thỉnh thoảng
39
53,1
38
47,2
Hiếm khi
5
6,1
6
7,5
Nhanh
9
12,2
30
37,7
Bình thường
62
83,7
45
56,6
Chậm
3
4,1
5
5,7
Mức độ
ăn vặt
Tốc độ ăn
(0,3 – 1,0)
0,558
3,835*
0,2
(0,1 – 0,5)
*Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
Kết quả trong Bảng 2 cho thấy trẻ thừa cân béo
phì có xu hướng ăn tối nhiều hơn trẻ bình thường
(54,7% so với 38,8%), sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê (z > 1,96). Trẻ ăn sau 8 giờ tối có nguy
cơ thừa cân béo phì cao gấp 0,5 lần trẻ không ăn
tối sau 8 giờ (khoảng tin cậy 95%: 0,3 – 1,0). Trẻ
thừa cân béo phì có khuynh hướng ăn nhanh hơn
trẻ bình thường (37,7% so với 12,2%), sự khác
biệt này có ý nghĩa thống kê (z > 1,96). Kết quả
này phù hợp với nghiên cứu của Phùng Đức Nhật
trên trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi với tỉ lệ tương ứng là
44,2% ở trẻ thừa cân béo phì và 21,7% ở trẻ bình
thường. Những trẻ ăn nhanh dưới 10 phút/bữa
cơm có nguy cơ thừa cân béo phì gấp 0,2 lần trẻ
ăn với tốc độ bình thường từ 10 – 30 phút/bữa
cơm (khoảng tin cậy 95%: 0,1 – 0,5). Trẻ thừa cân
béo phì ăn vặt thường xuyên hơn trẻ bình thường
(45,3% so với 40,8%) tuy nhiên sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê.
115
Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 112 – 119
Part A: Social Sciences, Humanities and Education
Bảng 3. Mối liên quan giữa sở thích ăn uống với tình trạng thừa cân béo phì của trẻ
Không thừa cân
Thừa cân béo phì
N = 74
N = 80
Đặc tính
z
n
9
11,3
Bình thường
42
57,2
48
60,4
20
26,5
23
28,3
18
24,5
24
30,2
Bình thường
32
42,9
39
49,1
24
32,6
17
20,7
Thích
39
53,1
50
62,2
Bình thường
35
46,9
27
34,0
Không thích
0
0
3
3,8
Thích
36
49,0
56
69,8
Bình thường
26
34,7
21
26,4
Không thích
12
16,3
3
3,8
Thích
32
42,8
42
52,8
Bình thường
21
28,6
29
35,9
Không thích
Nước ngọt
16,3
Không thích
Thức ăn
nhanh
12
Thích
Thức ăn
ngọt
%
Không thích
Thức ăn béo
n
Thích
Rau
%
21
28,6
9
OR
11,3
0,896
0,793
1,155
2,678*
0,5
(0,3 – 1,1)
1,240
*Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
Kết quả nghiên cứu cho thấy trẻ thừa cân béo phì
thường thích thức ăn nhanh hơn trẻ bình thường
(69,8% so với 49,0%), sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê (z > 1,96). Trẻ thích thức ăn nhanh có
nguy cơ thừa cân béo phì cao gấp 0,5 lần trẻ bình
thường (khoảng tin cậy 95%: 0,3 – 1,1). Tỉ lệ trẻ
thừa cân béo phì thích ăn rau thấp hơn so với trẻ
bình thường (11,3% so với 16,3%); ngược lại tỉ lệ
trẻ thừa cân béo phì không thích ăn rau cao hơn so
với trẻ bình thường (28,3% so với 26,5%), tuy
nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
Trẻ thừa cân béo phì thường thích thức ăn béo,
thức ăn ngọt và nước ngọt hơn trẻ bình thường
(30,2% so với 24,5%, 62,2% so với 53,1% và
52,8% so với 42,8%) tuy nhiên tất cả sự khác biệt
đều không có ý nghĩa thống kê.
116
nguon tai.lieu . vn