Xem mẫu

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HCM   PGS. TS. LÊ THỊ HOÀI CHÂU TÍCH HỢP TRONG DẠY HỌC TOÁN (TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN) KIÊN GIANG - THÁNG 7 NĂM 2014
  2. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 3 I. ĐỔI MỚI NỀN GIÁO DỤC – ĐÒI HỎI CẤP THIẾT CỦA XÃ HỘI....................... 3 II. ĐỔI MỚI CÁI GÌ ? .................................................................................................... 3 III. DẠY HỌC TOÁN : NÂNG CAO NĂNG LỰC HIỂU BIẾT TOÁN...................... 5 III.1. Mục đích của DH toán ? .................................................................................... 5 III.2. Dạy học toán : đánh giá cái gì ? ........................................................................ 7 III.3. Hiểu biết toán là gì ? .......................................................................................... 8 CHƯƠNG 1 DẠY HỌC TÍCH HỢP................................................................................................ 10 I. QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP TRONG GIÁO DỤC ...................................................... 10 II. DẠY HỌC TÍCH HỢP : LÀ GÌ ? ............................................................................ 11 II. DẠY HỌC TÍCH HỢP : VÌ SAO ? ......................................................................... 12 III. CÁC PHƯƠNG THỨC TÍCH HỢP ....................................................................... 14 III.1. Tích hợp trong nội bộ môn học ....................................................................... 14 III.2. Tích hợp đa môn .............................................................................................. 14 III.3. Tích hợp liên môn............................................................................................ 15 III.4. Tích hợp xuyên môn ........................................................................................ 15 IV. TÍCH HỢP TRONG DẠY HỌC TOÁN ................................................................ 17 CHƯƠNG 2 TÍCH HỢP TRONG NỘI BỘ MÔN TOÁN ............................................................. 18 I. QUAN HỆ GIỮA ĐS - GT VÀ HÌNH HỌC TRONG LỊCH SỬ ............................ 18 I.1. Giải các bài toán ĐS bằng HH ........................................................................... 18 I.2. Giải các bài toán HH bằng ĐS ........................................................................... 19 II. QUAN HỆ GIỮA ĐS, GT VÀ HH NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN SƯ PHẠM .......... 20 III. NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG DH TOÁN Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG ............ 21 IV. THỰC HÀNH ......................................................................................................... 23 Tài liệu bồi dưỡng giáo viên. Kiên Giang. Tháng 7 năm 2014 1
  3. CHƯƠNG 3 MÔ HÌNH HÓA TRONG DẠY HỌC TOÁN............................................................ 24 I. VỀ KHÁI NIỆM MÔ HÌNH HÓA ........................................................................... 24 I.1. Mô hình hóa toán học : Toán học hóa các tình huống thực tế ........................... 25 I.2.Dạy học mô hình hóa và DH bằng mô hình hóa ................................................. 27 II. VÀI NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG : MÔ HÌNH HÓA VỚI DẠY HỌC TOÁN Ở PHỔ THÔNG................................................................................................ 28 II.1. Dạy học “hàm số” ............................................................................................. 28 II.2. Dạy học Thống kê ............................................................................................. 32 III. MỘT SỐ TÌNH HUỐNG THIẾT KẾ TỪ QUAN ĐIỂM TĂNG CƯỜNG MÔ HÌNH HÓA TRONG DẠY HỌC TOÁN .............................................. 32 III.1. Mô hình hóa trong dạy học hệ bất phương trình bậc nhất hai ẩn ở lớp 10 ..... 33 III.2. Mô hình hóa trong dạy học Hàm số và đồ thị ở trường phổ thông ................. 34 III.3. Mô hình hóa với vấn đề tích hợp trong dạy học thống kê ............................... 36 Tình huống 1: Số trung vị với nghĩa là giá trị làm tối tiểu độ lệch ................. 36 Tình huống 2 : Tình huống số trung bình với nghĩa vật lý .............................. 36 Tình huống 3 : Mẫu dữ liệu và chọn mẫu ........................................................ 38 IV. THỰC HÀNH : NGHIÊN CỨU MỘT SỐ TÌNH HUỐNG DẠY HỌC ............... 39 IV.1. Thực hành 1 : Nghiên cứu một số bài toán thực tiễn……..………………… 39 Bài toán con thỏ ............................................................................................... 40 Bài toán bàn cờ và số hạt gạo .......................................................................... 40 Bài toán lãi suất ngân hàng (đơn, kép) ............................................................ 40 Bài toán vị trí ................................................................................................... 41 Bài toán qua sông ............................................................................................. 41 IV.2. Thực hành 2 : Xây dựng tình huống dạy học .................................................. 41 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 42 2 Tích hợp trong dạy học Toán
  4. MỞ ĐẦU I. ĐỔI MỚI NỀN GIÁO DỤC – ĐÒI HỎI CẤP THIẾT CỦA XÃ HỘI Chúng ta đang sống trong thời đại của hai cuộc cách mạng lớn : cách mạng khoa học - công nghệ và cách mạng xã hội. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đang phát triển với một tốc độ nhanh chưa từng có trong lịch sử loài người và tác động đến mọi lĩnh vực của cuộc sống. Nó đòi hỏi nhà trường phải đào tạo ra những lớp người lao động sáng tạo, có năng lực hành động, có khả năng tự khẳng định mình, có tri thức khoa học - công nghệ tiên tiến, có những kỹ năng cần thiết và có đủ ý chí, bản lĩnh để giải quyết tốt các nhiệm vụ do thực tiễn đặt ra, thích ứng được với yêu cầu mới của thời đại. Cuộc cách mạng xã hội một mặt làm cho cộng đồng quốc tế ngày càng phải cùng nhau hợp tác đa phương để giải quyết những vấn đề có tính chất sống còn của toàn thể loài người, mặt khác lại đòi hỏi các dân tộc ngày càng phải nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, tự cường, biết phát huy bản sắc và truyền thống dân tộc, chống lại sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài. Hai cuộc cách mạng này đã thôi thúc các nước trên thế giới quan tâm đến việc đầu tư, xây dựng một nền giáo dục (GD) đáp ứng kịp thời các yêu cầu cấp thiết của chúng. Để phát triển GD, nhiều nước đã đề ra khẩu hiệu “hãy cứu lấy nền kinh tế bằng GD”. GD trở thành quốc sách hàng đầu của nhiều quốc gia trên thế giới. Nhu cầu đổi mới lại càng mạnh mẽ đối với nền GD phục vụ cho cơ chế kinh tế tập trung bao cấp đã lỗi thời ở Việt Nam. II. ĐỔI MỚI CÁI GÌ ?  Đổi mới mục tiêu GD : Mục tiêu đào tạo của một nền GD phụ thuộc vào nhu cầu của xã hội trong đó nền GD tồn tại và phát triển. Muốn đổi mới nền GD, trước hết là phải đổi mới mục tiêu GD. Bàn về mục tiêu GD, quan điểm được thừa nhận rộng rãi hiện nay là phải chuẩn bị cho người học khả năng áp dụng kiến thức một cách linh hoạt vào các bối cảnh và các vấn đề mới, hình thành thói quen tự học và học tập suốt đời. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên. Kiên Giang. Tháng 7 năm 2014 3
  5.  Đổi mới nội dung dạy học : Nội dung dạy học (DH) cũng phải được thay đổi cho phù hợp với mục tiêu đào tạo. Nó cần được hiện đại hóa để giúp con người tiếp cận với những thành tựu mới của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đồng thời cũng phải được mềm hóa cho phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý học sinh (HS), điều kiện học tập, đảm bảo sự cân bằng hợp lý các yếu tố nhân loại và dân tộc, truyền thống và hiện đại, quốc tế và khu vực. Ở Việt nam, sự thay đổi nội dung DH theo định hướng này chính là một trong những mục đích của cuộc cải cách GD bắt đầu được thực hiện từ năm 1980 và những lần chỉnh lý chương trình, sách giáo khoa sau đó. Thế nhưng, đánh giá thực tế đổi mới nội dung DH nói chung, nội dung DH môn toán nói riêng trong mấy thập kỷ qua, có nhà nghiên cứu cho rằng : những thay đổi, dù thường xuyên, chỉ là đưa lên, đưa xuống, thêm chỗ này, bớt chỗ kia, còn trên căn bản thì cho đến đầu thế kỷ 21 này chúng ta vẫn dạy toán theo kiểu những năm 50 của thế kỷ trước. Mặc dầu các cuộc đổi mới chương trình, sách giáo khoa vừa qua đã có những tác dụng nhất định, phải thừa nhận rằng có hai điều cơ bản chúng ta chưa đạt được : - Chưa có một lý luận rạch ròi về hệ thống sách giáo khoa, chưa có sự thống nhất theo chiều ngang (giữa các nhà soạn thảo chương trình, các tác giả viết sách và các nhà lý luận DH) lẫn theo chiều dọc (từ dưới lên trên theo bậc học). Nhiều công trình nghiên cứu về những nội dung DH cụ thể chưa được sử dụng. - Kiến thức trình bày trong sách giáo khoa nói chung vẫn mang nặng tính hàn lâm, xa rời thực tế. Một sự thay đổi căn bản, đáp ứng được đòi hỏi của xã hội cần phải nằm trong một chiến lược chung của cuộc cách mạng học đường.  Đổi mới phương pháp DH : Song, dù có thay đổi nội dung DH như thế nào chăng nữa thì trường học, bất cứ là trường gì, cũng chỉ có thể cung cấp cho con người một khối lượng tri thức có giới hạn. Trong khi đó kho tàng văn hóa của nhân loại lại vô tận và không ngừng biến đổi, không ngừng tác động vào cuộc sống của con người. Thật là không tưởng nếu đòi hỏi nhà trường phải mang lại cho người học đủ tri thức để họ có thể sống và hoạt động suốt đời. Để có thể thích ứng được với những yêu cầu không ngừng biến đổi của xã hội, con người do nhà trường đào tạo ra chẳng những cần có trình độ học vấn cao ở điểm xuất phát của cuộc sống nghề nghiệp mà còn phải có khả năng tự học, tự tìm tòi, nghiên cứu, biết không ngừng làm biến đổi vốn tri thức của mình trong suốt cả cuộc đời. Như vậy, phương pháp DH trong nhà trường phải đem lại cho HS phương pháp học và sự ham mê học. 4 Tích hợp trong dạy học Toán
  6. Ấy là chưa nói đến quan hệ mật thiết giữa mục tiêu, nội dung và phương pháp – ba thành tố cơ bản của quá trình DH. Mục tiêu đào tạo thay đổi thì nội dung DH, rồi phương pháp DH không thể không thay đổi. Trong sự thay đổi này phải có sự hợp tác của thầy và trò, sự phối hợp hoạt động dạy với hoạt động học, bởi cách dạy luôn luôn chỉ đạo cách học. Muốn cho ra lò những con người tự chủ, năng động và sáng tạo thì phương pháp DH cũng phải hướng vào việc khơi dậy, rèn luyện và phát triển những khả năng này. Mục tiêu DH vì thế không phải chỉ ở những kết quả cụ thể của quá trình học tập, ở một số tri thức và kỹ năng, mà quan trọng hơn là ở bản thân việc học, ở cách học, ở khả năng đảm nhiệm, tổ chức và thực hiện những quá trình học tập một cách hiệu quả. Đổi mới phương pháp DH phải nhắm đến định hướng tạo điều kiện cho HS học tập một cách tích cực, chủ động, từ đó phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, dần dần hình thành và ổn định phương pháp tự học. Muốn thế, giáo viên (GV) phải hướng tới việc giúp người học phát triển năng lực giải quyết vấn đề (không chỉ đơn giản là tích lũy tri thức). Quan điểm này đang được thừa nhận hầu như trên toàn thế giới.  Đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá : Rõ ràng là việc kiểm tra, đánh giá (GV, HS) cũng phải phù hợp với mục tiêu GD. Mục tiêu là đào tạo những người lao động mới có khả năng giải quyết các vấn đề của thực tiễn, có năng lực tự học để thích nghi với sự biến đổi không ngừng của xã hội, nhưng đánh giá lại chỉ đặt vào việc ghi nhớ kiến thức và kỹ năng giải quyết một số vấn đề thường gặp trong sách giáo khoa thì khó mà nói đến đổi mới phương pháp DH.  Cuối cùng, để trả lời câu hỏi “đổi mới cái gì” mà chỉ nói đến mục tiêu, nội dung và phương pháp DH thì chưa đủ. Nói như thế tức là mới chỉ xem xét ở cấp độ vi mô (trong phạm vi quá trình DH). Ở cấp độ vĩ mô, còn phải kể đến những yếu tố như công tác quản lý GD, cách tổ chức quá trình đào tạo, v.v… Nói như vậy không có nghĩa là GV phải chờ người ta đổi mới chương trình, sách giáo khoa, công tác kiểm tra đánh giá, … rồi mới đổi mới phương pháp DH. Thực ra thì vẫn nội dung ấy, nhưng mỗi GV có thể đạt được những mục đích nhiều khi rất khác xa nhau. III. DẠY HỌC TOÁN : NÂNG CAO NĂNG LỰC HIỂU BIẾT TOÁN III.1. Mục đích của DH toán ? Để xác định mục đích DH toán, chúng ta hãy trả lời câu hỏi : nhà trường phổ thông dạy toán cho ai ? Rõ ràng là đại bộ phận HS phổ thông sau này là người sử dụng toán chứ không phải là người làm toán (nghiên cứu toán). Tài liệu bồi dưỡng giáo viên. Kiên Giang. Tháng 7 năm 2014 5
  7. “Người làm toán là người phát minh ra các thuật toán, các phương pháp, các định lý và chứng minh chúng bằng các suy luận logic toán học thuần túy, còn người sử dụng toán là người dùng tri thức toán học trong các hoạt động thực tiễn của mình. Trong khi đối tượng thứ hai chỉ cần cảm nhận cho được cái thần của một số nguyên lý cơ bản để vận dụng chúng vào thực tiễn thì đối tượng thứ nhất cần phải hiểu thấu các phương pháp và công cụ cho phép thiết lập nên các nguyên lý này). Như vậy, nội dung dạy toán cho những người sẽ làm toán và những người sẽ không làm toán là khác nhau rõ rệt.” (Phạm Huy Điển, 2006, tr. 19) Thế nhưng, trong một thời gian dài trước đây chúng ta đã xem việc DH toán cho người không làm toán cũng giống như cho người có thể sẽ làm toán, chú trọng đến tính chặt chẽ của toán học và rèn luyện các năng lực tư duy. Môn toán trở thành công cụ đánh đố những HS vô tội, sinh ra vốn không phải để làm toán. Xu hướng hiện nay của DH toán ở Việt Nam thì lại là trình bày qua loa khái niệm, rồi công nhận các định lý, công thức và dạy HS giải toán theo mẫu. Cũng như trước kia, cách dạy học này khiến học sinh khó nhìn thấy lợi ích thực tiễn của các tri thức toán học, cho rằng học toán chỉ để giải toán và đi thi. Thậm chí, so với hiệu quả của việc dạy học toán theo quan điểm trước đây thì dường như nền giáo dục toán học ở Việt Nam đã có một bước thụt lùi. Cách dạy này chẳng có ích lợi gì nhiều cho cả người sẽ làm toán lẫn người sẽ không làm toán, khiến toán học trở thành khô khan và vô bổ đối với họ. “Không thể phủ định vai trò của rèn luyện tư duy thông qua giải bài tập toán, nhưng chỉ lao vào làm bài tập thì cũng không khác gì chơi trò chơi điện tử liên miên. Tác hại của việc dùng thuốc quá liều (kể cả thuốc bổ) thì ai cũng biết, nhưng nhiều thầy giáo dạy toán không ý thức được rằng việc làm bài tập toán quá nhiều cũng gây hậu quả tương tự, đặc biệt là đối với những HS không trở thành người làm toán sau này. Rõ ràng đây là sự lãng phí lớn, nhất là khi HS đang khan hiếm thời gian cho việc học lý thuyết và trau dồi nhiều kiến thức khác mà cuộc sống hiện đại đòi hỏi ngày càng nhiều. Sẽ càng thấy phi lý hơn nếu như ta biết rằng các bài toán mà HS phải vật lộn với bao nhiêu công thức, phép biến đổi phức tạp lại có thể được giải quyết dễ dàng với sự trợ giúp của máy tính.” (Phạm Huy Điển, 2006, tr. 19). Tư duy toán học dùng trong cuộc sống không có được từ việc luyện giải bài tập toán triền miên, mà là từ việc học lý thuyết toán học. Tình trạng phổ biến hiện nay trong nhà trường là dành thời gian quá nhiều cho việc giải bài tập toán mà bỏ qua việc học lý thuyết. Đây là một quan niệm sai lầm, vì mục đích quan trọng nhất của việc học toán không phải là giải bài tập, mà là sử dụng kiến thức học được vào thực tiễn và vào việc học các khoa học khác. Muốn làm cho HS hiểu được nghĩa của tri thức toán, bồi dưỡng năng lực sử dụng toán cho các em, thì phải chú trọng đúng mức đến việc DH 6 Tích hợp trong dạy học Toán
  8. các khái niệm toán học. Khái niệm vừa là sản phẩm vừa là phương tiện của tư duy, và do đó là một yếu tố không thể thiếu trong hoạt động tư duy của con người. Khái niệm cũng vừa là cơ sở của toán học, vừa là động lực phát triển của toán học. Lịch sử toán học đã cho ta thấy là sự nẩy sinh một khái niệm toán học mới thường đánh dấu một mốc phát triển mới. “Trong việc DH toán, cũng như việc DH bất cứ một khoa học nào ở trường phổ thông, điều quan trọng bậc nhất là hình thành một cách vững chắc cho HS một hệ thống khái niệm. Đó là cơ sở của toàn bộ kiến thức toán học của HS, là tiền đề quan trọng để xây dựng cho họ khả năng vận dụng các kiến thức đã học. Quá trình hình thành các khái niệm có tác dụng lớn đến việc phát triển trí tuệ, đồng thời cũng GD thế giới quan cho HS (qua việc nhận thức đúng đắn quá trình phát sinh và phát triển của các khái niệm toán học.” (Hoàng Chúng, 1995, tr. 116) III.2. Dạy học toán : đánh giá cái gì ? Để phù hợp với bối cảnh phát triển mạnh mẽ của hai cuộc cách mạng khoa học công nghệ và xã hội, những cuộc cải cách GD thực hiện gần đây trên thế giới đã chuyển sang xu hướng làm cho toán học gần với cuộc sống hơn. Ngày nay, bàn về mục tiêu GD, quan điểm được thừa nhận rộng rãi là phải chuẩn bị cho người học khả năng áp dụng kiến thức một cách linh hoạt vào các bối cảnh và các vấn đề mới, hình thành thói quen tự học và học tập suốt đời. Quan điểm này đã dẫn người ta đến chỗ thay đổi hình thức và tiêu chuẩn đánh giá HS. Đã có những chương trình đánh giá HS quốc tế với mục đích chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu của hệ thống GD thuộc các quốc gia tham gia khảo sát để không ngừng cải thiện chất lượng đào tạo. PISA (Programme for International Student Assessment) do tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế - gọi tắt là OECD (Organization for Economic Cooperation and Development) tiến hành là một trong những chương trình đó. OEDC được thành lập năm 1997 nhằm đánh giá việc chuẩn bị cho HS tuổi mười lăm đáp ứng với những thách thức của xã hội ngày nay. Các chuyên gia từ những nước thành viên làm việc trong các nhóm công tác có chuyên môn giỏi và có kỹ thuật tốt trong lĩnh vực đánh giá so sánh quốc tế. Các công cụ đánh giá mà họ xây dựng đảm bảo là có giá trị quốc tế đồng thời có cân nhắc đến tình hình chương trình và văn hóa của các nước thành viên OECD. Người ta đánh giá cái gì ? Theo truyền thống, việc đánh giá HS chủ yếu dựa trên các bài kiểm tra, các kỳ thi. Nội dung đánh giá đa phần tập trung vào những yêu cầu về ghi nhớ hay áp dụng kiến thức, kĩ năng đã được rèn luyện và vận dụng các quy trình quen thuộc để giải quyết một số Tài liệu bồi dưỡng giáo viên. Kiên Giang. Tháng 7 năm 2014 7
  9. dạng toán tiêu biểu thường gặp trong sách giáo khoa và lớp học. Thực tế đó hoàn toàn trái ngược với xu thế chung mà GD toán tiên tiến trên thế giới đã và đang hướng tới. Chẳng hạn, đối với chương trình PISA, người ta tập trung vào những việc mà HS 15 tuổi cần trong tương lai và tìm hiểu những gì các em có thể làm được trên cơ sở cái đã học được. Người ta không chỉ đánh giá kiến thức mà còn xem xét khả năng của HS trong việc áp dụng kiến thức và kinh nghiệm của mình vào những vấn đề thực tế (chứ không phải là vấn đề tiêu biểu thường gặp trong sách giáo khoa và lớp học). Cụ thể hơn, đánh giá PISA không nặng về mức độ nắm các nội dung có mặt trong chương trình giảng dạy, mà chú trọng vào khả năng sử dụng các kiến thức đã học vào thực tế và năng lực xử lý các tình huống mà các em có thể sẽ đối mặt trong cuộc sống sau khi rời ghế nhà trường. Liên hệ với mục tiêu DH toán, ta thấy quan điểm này hoàn toàn phù hợp với một thực tế là đại đa số HS mà chúng ta đào tạo sau này sẽ là người sử dụng toán chứ không phải là người làm toán (nghiên cứu toán). Đánh giá PISA được tổ chức thường xuyên ba năm một lần. Ba lĩnh vực được tập trung đánh giá là đọc hiểu, hiểu biết toán và hiểu biết khoa học. Việc xác định các lĩnh vực đánh giá như vậy chứng tỏ người ta gán cho DH toán trong nhà trường một vị trí quan trọng. III.3. Hiểu biết toán là gì ? PISA được tổ chức lần thứ hai vào năm 2003 với sự tham gia của 41 quốc gia, trong đó bao gồm nhiều quốc gia có nền GD tiên tiến trên thế giới như Nhật Bản, Phần Lan, Hoa Kì, Canada, Đan Mạch, Thụy Điển, Úc... Ở lần đánh giá đó PISA tập trung vào các bài toán thực tế, tiến xa hơn những loại tình huống và vấn đề thường gặp trong lớp học. Nói cách khác, trọng tâm là đánh giá năng lực hiểu biết toán của HS. Định nghĩa về hiểu biết toán của OECD/PISA là: “Hiểu biết toán là năng lực của một cá nhân, cho phép xác định và hiểu vai trò của toán học trong cuộc sống, đưa ra những phán xét có cơ sở, sử dụng và gắn kết với toán học theo những cách khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu cuộc sống của cá nhân đó với tư cách là một công dân có tính xây dựng, biết quan tâm và biết phản ánh.” Như vậy, thuật ngữ “hiểu biết toán” được dùng để nói về năng lực kết hợp một cách sáng tạo những kiến thức và kỹ năng toán học khác nhau vào các sự kiện, các vấn đề được đặt ra bởi tình huống đa dạng của thực tiễn. Những tình huống ấy có thể là quen thuộc hoặc không, có thể đơn giản hay phức tạp. Dĩ nhiên, để kết hợp được như vậy thì tiền đề là phải có những kiến thức và kỹ năng toán học nền tảng. Nhưng hiểu biết toán không chỉ là có các kiến thức và kỹ năng ấy. Định nghĩa về hiểu biết toán bao gồm việc sử dụng toán học trong thực tiễn cũng như sự chuẩn bị cho việc học xa hơn. 8 Tích hợp trong dạy học Toán
  10. Trong những tình huống thực tiễn (ngoài toán học), thoạt đầu ta không thấy có cấu trúc toán học nào hiện diện tường minh, mà nhiệm vụ của người giải quyết vấn đề là phải đưa ra một mô hình toán học cho phép tìm một câu trả lời có thể chấp nhận được - nói là chấp nhận được vì thực tiễn không phải bao giờ cũng chỉ có một câu trả lời và thường là các câu trả lời phù hợp với những hoàn cảnh khác nhau. Định nghĩa về hiểu biết toán của PISA phù hợp với quan điểm DH tích hợp mà người ta thường nói đến từ vài thập niên qua, theo đó, việc DH các môn khoa học phải xích lại gần nhau và gắn với thực tiễn. Những chương trình cũng như những kiểu DH thiên về kiến thức hàn lâm, xa rời thực tiễn đang dần dần bị loại bỏ. Tình huống Đèn đường dưới đây là một ví dụ đã được PISA sử dụng khi đánh giá năng lực hiểu biết toán của HS tuổi mười lăm. Hội đồng thành phố quyết định dựng một cây đèn đường trong một công viên nhỏ hình tam giác sao cho nó chiếu sáng toàn bộ công viên. Người ta nên đặt nó ở đâu ? Ở Việt Nam, thời gian gần đây người ta đã bắt đầu nói về đánh giá tập trung vào năng lực chứ không phải là vào kiến thức, kỹ năng. Với cách xác định mục tiêu tập trung vào năng lực như vậy, đương nhiên việc DH cũng phải có thể giúp nâng cao năng lực hiểu biết toán cho người học. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên. Kiên Giang. Tháng 7 năm 2014 9
  11. CHƯƠNG 1 DẠY HỌC TÍCH HỢP I. QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP TRONG GIÁO DỤC Tích hợp có nguồn gốc La tinh là “integration”, với nghĩa lồng ghép, sát nhập, hợp nhất, xác lập cái chung, cái toàn thể, cái thống nhất trên cơ sở những bộ phận riêng lẻ. Theo nghĩa này, tích hợp hướng tới việc xem xét mỗi đối tượng như là một thể thống nhất của những nét bản chất nhất trên các thành phần, chứ không phải là phép cộng giản đơn những thuộc tính của các thành phần ấy. Hiểu như vậy, tích hợp có hai tính chất cơ bản là liên kết và toàn vẹn. Liên kết phải tạo thành một thực thể toàn vẹn, không còn sự phân chia giữa các thành phần kết hợp. Tính toàn vẹn dựa trên sự thống nhất nội tại các thành phần liên kết, chứ không phải sự sắp xếp các thành phần bên cạnh nhau. Khái niệm tích hợp được sử dụng trong nhiều lĩnh vực. Trong khoa học GD, nó chỉ một quan niệm GD toàn diện con người qua sự kết hợp một cách hữu cơ, có hệ thống, ở các mức độ khác nhau, những kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học khác nhau hoặc những hợp phần của bộ môn thành một nội dung thống nhất. Sự kết hợp này dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong các môn học hoặc các hợp phần của một môn học. Tích hợp trong GD nhằm giúp HS nhận ra những điều then chốt và mối liên hệ hữu cơ giữa các thành tố trong hệ thống. Việc khai thác hợp lý, có ý nghĩa các mối liên hệ đó dẫn người học đến những phát kiến mới. Quan điểm này cho phép phát triển nhiều loại hình hoạt động ở người học, tạo môi trường áp dụng những điều họ lĩnh hội được vào thực tiễn. Nó còn cho phép tránh những trùng lắp gây lãng phí thời gian, tài chính và nhân lực. Vì những lẽ đó, tích hợp đã trở thành một quan điểm GD được thừa nhận rộng rãi trên thế giới hiện nay. Quan điểm tích hợp được thể hiện trước hết ở việc xây dựng chương trình và nội dung môn học. Theo quan điểm này, người ta có thể tổ hợp một số môn học hay lĩnh vực học tập khác nhau (theo cách hiểu truyền thống) thành một “môn học” mới, hoặc lồng ghép các nội dung cần thiết vào những nội dung vốn có của một môn học nào đó. Chẳng hạn, chương trình GD Việt Nam tương lai (áp dụng sau 2015) của các lớp 4, 5 dự kiến sẽ có môn mới là Tìm hiểu xã hội (trên cơ sở các môn Lịch sử, Địa lý trong chương trình hiện hành, cộng thêm một số vấn đề khác), đồng thời lồng ghép nội dung 10 Tích hợp trong dạy học Toán
  12. GD dân số, GD môi trường, GD an toàn giao thông trong các môn học Đạo đức, Tiếng Việt hay Tự nhiên và Xã hội. Đối với nhiều nước trên thế giới quan điểm tích hợp đã trở thành một xu thế GD có ảnh hưởng lớn đến việc xác định nội dung DH và xây dựng chương trình môn học ở trường phổ thông. Nhưng không phải là tích hợp chỉ tác động vào khâu xây dựng chương trình, mà hoạt động DH của GV cũng góp phần quan trọng vào việc thực hiện quan điểm này. II. DẠY HỌC TÍCH HỢP : LÀ GÌ ? Tích hợp trong GD được UNESCO định nghĩa là “một cách trình bày các khái niệm và nguyên lí khoa học cho phép diễn đạt sự thống nhất cơ bản của tư tưởng khoa học, tránh nhấn quá mạnh hoặc quá sớm sự sai khác giữa các lĩnh vực KH khác nhau” (Hội nghị phối hợp trong chương trình của UNESCO, Paris 1972). Định nghĩa này nhấn mạnh cách tiếp cận các khái niệm và nguyên lí khoa học chứ không phải là hợp nhất nội dung. Việc giảng dạy các môn học không thể chỉ xem là trang bị một số kiến thức mở đầu, chuẩn bị cho các cấp học trên, mà còn là kết thúc, chuẩn bị cho đời sống trưởng thành. DH tích hợp phải chỉ ra cách thức chuyển từ nghiên cứu sang ứng dụng, gắn học với hành. Vấn đề ở đây không chỉ là tìm tòi, phát hiện tri thức mới, đi từ cái đơn nhất đến cái chung, mà còn là nhận định, lựa chọn giải pháp, đi từ nguyên tắc chung đến việc tìm ra cách thức giải quyết vấn đề cụ thể. Không thể gọi là tích hợp nếu các tri thức, kĩ năng chỉ được tiếp thu, tác động một cách riêng rẽ, không có sự liên kết, phối hợp với nhau trong lĩnh hội nội dung hay giải quyết một vấn đề, tình huống. GD nhà trường phải chuyển từ đơn thuần dạy kiến thức sang phát triển ở HS các năng lực hành động. Theo quan điểm này thì DH tích hợp nhắm đến những mục tiêu sau: - Làm cho quá trình học tập có ý nghĩa bằng cách gắn nó với cuộc sống hàng ngày, hoà nhập thế giới học đường với thế giới cuộc sống. - Hình thành những năng lực cơ bản, cần thiết cho việc vận dụng vào xử lí các tình huống của cuộc sống, và đặt cơ sở không thể thiếu cho quá trình học tập tiếp theo của HS. - Dạy sử dụng kiến thức trong tình huống cụ thể. Thay vì tham nhồi nhét cho HS nhiều kiến thức lí thuyết đủ loại, DH tích hợp chú trọng tập dượt cho HS vận dụng kiến thức, kĩ năng học được vào các tình huống thực tế, có ích cho cuộc sống sau này của một công dân có năng lực sống tự lập. - Xác lập mối liên hệ giữa các khái niệm đã học. Trong quá trình học tập, HS có thể Tài liệu bồi dưỡng giáo viên. Kiên Giang. Tháng 7 năm 2014 11
  13. lần lượt học những môn học khác nhau, những phần khác nhau trong mỗi môn học. Nhưng họ phải biết biểu đạt các khái niệm đã học trong những mối quan hệ hệ thống thuộc phạm vi từng môn học cũng như giữa các môn học khác nhau. Thực tiễn ở nhiều nước đã chứng tỏ rằng thực hiện quan điểm tích hợp trong GD và DH sẽ giúp HS phát triển các năng lực cần thiết cho việc giải quyết những vấn đề phức tạp. DH tích hợp làm cho việc học tập trở nên ý nghĩa hơn đối với HS so với việc thực hiện riêng rẽ các môn học, các mặt GD khác nhau. Nó cho phép con người nhận ra những điều then chốt và các mối liên hệ hữu cơ giữa các thành tố trong hệ thống và trong tiến trình hoạt động thuộc một lĩnh vực nào đó. Nó giúp nâng cao năng lực của người học trong việc giải quyết các vấn đề của cuộc sống hiện đại. Nó hoàn toàn phù hợp với những quan niệm tích cực về quá trình học tập. II. DẠY HỌC TÍCH HỢP : VÌ SAO ? Để trả lời câu hỏi này, ta hãy bắt đầu từ ba tình huống sau đây. Tình huống 1: Tính tích hợp trong một dự án Câu hỏi đặt ra là : có nên chuyển vùng đất sản xuất nông nghiệp của huyện A thành một khu công nghiệp hay không ? Câu trả lời cho những câu hỏi kiểu này phụ thuộc vào nhiều lĩnh vực : môi trường sinh thái, kinh tế (sự cần thiết và giá trị của những sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp khác nhau, ...), xã hội (tình trạng thị trường lao động hiện tại và tương lai, ...). Tình huống 2 : Tính tích hợp trong một khái niệm Khái niệm năng lượng có thể được nghiên cứu trong các môn học khác nhau như địa lý học, kinh tế học, vật lý học, sinh học, ... Nhưng các môn học cũng có thể kết hợp với nhau để làm nổi bật lên sự tác động qua lại giữa những lĩnh vực khác nhau của chúng. Cũng như thế, một đề tài như “chất thải” chẳng hạn có thể được nghiên cứu trong khoa học tự nhiên (thiên nhiên và tái chế), trong xã hội học (lối sống gây lãng phí), trong kinh tế học (sản xuất, tiêu thụ, tái sử dụng), trong địa lý (tài nguyên kim loại), ... Tình huống 3: Tính tích hợp trong các hoạt động thực tiễn Trong các hoạt động xã hội, chính trị, người ta luôn phải thỏa thuận với nhau nhằm đưa ra một quyết định cuối cùng được xem là thích hợp để hành động. Ở đây người ta phải đối chiếu các quan điểm khác nhau vốn không dựa trên cùng tiêu chí để đưa ra quyết định cuối cùng, và việc lựa chọn quyết định đó thì nhiều khi không dựa trên một kiến thức mà lại có thể là vì những lý do về đạo đức hay chính trị. 12 Tích hợp trong dạy học Toán
nguon tai.lieu . vn