Xem mẫu

  1. BÁO CÁO KHOA HỌC HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA LẦN THỨ 1 SỬ DỤNG CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN Ở HỌC PHẦN GIẢI PHẪU SINH LÝ NGƯỜI THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHẠM VĂN ĐỒNG NGUYỄN THỊ TƯỜNG VY 1,* TRẦN VĂN GIANG 2, TRẦN QUỐC DUNG 1 1 Khoa Hóa - Sinh - Môi trường, Trường Đại học Phạm Văn Đồng * Email: tuongvynguyensphue@gmail.com 2 Khoa Sinh, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế Tóm tắt: Sinh học là một khoa học thực nghiệm, trong đó giải phẫu sinh lý người là một môn khoa học chuyên nghiên cứu về hình thái, cấu trúc và các quy luật hoạt động của các cơ quan trong cơ thể trong mối quan hệ thống nhất cũng như mối liên hệ giữa cơ thể với môi trường. Việc biên soạn câu hỏi trắc nghiệm môn Giải phẫu người nhằm phát triển năng lực cá nhân của sinh viên là cần thiết. Bài báo giới thiệu một số câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhằm hướng đến việc phát triển năng lực cá nhân sinh viên tại trường Đại học Phạm Văn Đồng. Từ khóa: Câu hỏi trắc nghiệm khách quan, giải phẫu sinh lý người, năng lực. 1. MỞ ĐẦU Trong cải cách giáo dục, ngoài đổi mới về mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học, việc đổi mới phương thức kiểm tra - đánh giá là một vấn đề hết sức cấp thiết nhằm tăng cường hiệu quả dạy và học. Theo Dương Thiệu Tống (1995) [11] trong giảng dạy và học tập ở bất kỳ cấp học nào đều có bốn vấn đề quan trọng cần phải quan tâm, đó là: mục tiêu giảng dạy, cấu trúc của nội dung kiến thức, phương pháp giảng dạy và học tập, cuối cùng là đánh giá giảng dạy và học tập. Kiểm tra - đánh giá có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với sinh viên và giảng viên, mà còn đối với cả những nhà quản lý giáo dục thuộc các cấp khác nhau. Đối với sinh viên, việc kiểm tra-đánh giá mang tính khoa học, có hệ thống và thường xuyên sẽ cung cấp thông tin phản hồi giúp sinh viên tự điều chỉnh hoạt động học. Đối với giảng viên, việc kiểm tra - đánh giá không những giúp giảng viên biết trình độ chung và riêng của cả lớp mà còn điều chỉnh hoạt động dạy của mình. Đối với nhà quản lý giáo dục, công tác kiểm tra - đánh giá nhằm cung cấp những thông tin cơ bản về thực trạng dạy và học trong một đơn vị giáo dục để kịp thời chỉ đạo, điều chỉnh các lệch lạc, khuyến khích hỗ trợ các sáng kiến nhằm đảm bảo thực hiện tốt các mục tiêu giáo dục đề ra. Sinh học là một khoa học thực nghiệm, trong đó giải phẫu sinh lý người là một môn khoa học chuyên nghiên cứu về hình thái, cấu trúc và các quy luật hoạt động của các cơ quan trong cơ thể trong mối quan hệ thống nhất cũng như mối liên hệ giữa cơ thể với môi trường. Việc biên soạn câu hỏi trắc nghiệm môn giải phẫu sinh lý người người phục vụ kiểm tra đánh giá chất lượng dạy và học của sinh viên cho giáo trình này là thiết thực. 2. NỘI DUNG 2.1. Đối tượng nghiên cứu Nội dung học phần Giải phẫu sinh lý người 2.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: nghiên cứu nội dung học phần Giải phẫu sinh lý người. 373
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ - Phương pháp chuyên gia: tham khảo các chuyên gia cách xây dựng bộ câu hỏi trắc nghiệm [1, 2]. 2.3. Nội dung nghiên cứu Trên cơ sở các loại hình của câu hỏi khác nhau của trắc nghiệm khách quan (TNKQ) chúng tôi bám sát vào quy trình xây dựng đề kiểm tra TNKQ [2], [10]. Thông thường quy trình bao gồm các bước: Xây dựng ma trận đề thi và bản đặc tả đề thi; soạn câu hỏi thô, rà soát, chọn lọc, biên tập, thẩm định câu hỏi; thử nghiệm, phân tích, đánh giá câu hỏi; chỉnh sửa câu hỏi sau thử nghiệm; xây dựng đề thi, thử nghiệm, phân tích đánh giá; rà soát lựa chọn đưa vào ngân hàng câu hỏi. Các phương pháp kiểm tra - đánh giá thường dùng trong dạy học đối với hình thức thi viết có hai dạng khác nhau: trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan. Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp đánh giá mới như sử dụng câu hỏi kết thúc mở, quan sát phỏng vấn, tự đánh giá, sử dụng tập sản phẩm hay đánh giá thể hiện, gần đây còn có một chương trình đánh giá học sinh quốc tế PISA6 [12]. Trắc nghiệm tự luận (essay tests): Trắc nghiệm tự luận cho phép sinh viên có một sự tự do nhất định nào đó để trả lời một vấn đề được đặt ra, nhưng cũng yêu cầu sinh viên phải nhớ lại hơn là nhận biết thông tin. Bằng cách này có thể đo được khả năng suy luận, sáng tạo của sinh viên [2], [10]. Trắc nghiệm khách quan (objective tests): Thông thường, một bài TNKQ có nhiều câu hỏi hơn là một bài trắc nghiệm tự luận và mỗi câu hỏi thường có thể được trả lời bằng một dấu hiệu đơn giản. Bài trắc nghiệm được gọi là khách quan chủ yếu bởi vì hệ thống chấm và cho điểm là khách quan chứ không phải chủ quan như đối với bài trắc nghiệm tự luận [2], [10]. Có bốn loại TNKQ ứng với các loại hình câu hỏi khác nhau được sử dụng trong khi viết một bài TNKQ, như sau: - Câu trắc nghiệm đúng - sai (true-false item): Đây là loại hình đặc biệt của câu MCQ (Multiple choise question) nhưng chỉ có hai sự lựa chọn, hoặc đúng hoặc sai. Ưu điểm của loại trắc nghiệm này thông dụng thích hợp với những loại kiến thức sự kiện, có thể kiểm tra nhiều kiến thức trong thời gian ngắn nhưng khó xác định điểm yếu của sinh viên và có 50% cơ may đoán mò câu trả lời đúng, độ tin cậy thấp, đề ra có khuynh hướng trích nguyên câu trong giáo trình, do đó khuyến khích sinh viên học thuộc lòng hơn là suy nghĩ tìm tòi. Ví dụ 1: Đúng/Sai: Mô xương và mô cơ tim có đặc điểm chung đều có những vân ngang. Trong trường hợp này nếu sinh viên đọc không kỹ đề sẽ chọn đúng vì nghĩ là mô xương (mô cơ xương: cơ vân), mô cơ xương và mô cơ tim giống nhau đều có vân, nhưng mô xương là một loại mô liên kết đặc biệt do chất căn bản nhiễm muối canxi nên có độ rắn vừa phải không có vân. Sinh viên suy nghĩ cẩn thận đọc kỹ đề sẽ chọn sai chính là phương án đúng. Ví dụ 2: Đúng/Sai: Dây thần kinh vận nhãn chi phối cho hoạt động của cơ nâng mi trên, cơ thẳng trên, cơ thẳng trong, cơ thẳng dưới và cơ chéo dưới. Sinh viên chọn ngay đáp án đúng vì có tất cả ba đôi dây thần kinh sọ chi phối cho cơ nhãn cầu trong đó thần kinh vận 6 Chương trình hợp tác của các quốc gia thành viên của tổ chức OECD nhằm đánh giá những học sinh ở độ tuổi 15 được chuẩn bị tốt như thế nào để đáp ứng những thách thức của xã hội ngày nay. Đánh giá được tiến hành ba năm một lần bắt đầu từ năm 2000. Có bốn lĩnh vực được đánh giá trong PISA đó là hiểu biết toán (trên cơ sở đặt ra những vấn đề về… cuộc sống…, …để sử dụng gắn kết với…, …cuộc sống của cá nhân đó…), đọc hiểu, hiểu biết khoa học và các kỹ năng giải quyết vấn đề. 374
  3. BÁO CÁO KHOA HỌC HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA LẦN THỨ 1 nhãn ngoài chi phối cho cơ thẳng bên, thần kinh ròng rọc chi phối cơ thẳng trên, thần kinh vận nhãn chi phối cho các cơ còn lại (sinh viên hiểu bài sẽ phân tích như vậy để chọn đáp án) nhưng nếu sinh viên không hiểu bài có thể sẽ chọn sai vì đây dụng ý của người ra đề là liệt kê, khi liệt kê thường không đầy đủ ý. - Câu trắc nghiệm điền khuyết (completion item): Là loại câu hỏi có để một vài chỗ trống yêu cầu sinh viên điền vào một hai từ hay cụm từ thích hợp. Mặc dù, sự chấm điểm có thể chủ quan phần nào đó khi phải xem xét phần trả lời của sinh viên có chính xác hoặc phù hợp không, nhưng thường được xếp vào loại TNKQ. Ví dụ: Lượng dịch ở mô tiết ra bất thường gọi là thường gặp ở khắp nơi trên cơ thể nhưng chủ yếu là (đáp án là phù nề, bàn chân và cổ chân. Tuy nhiên, sinh viên có thể đưa ra các phương án khác là: chân, tay do đó khi chấm giảng viên cần xem xét các khả năng trả lời khác của sinh viên xem có phù hợp không. - Câu trắc nghiệm ghép đôi (matching item): Đây là loại hình đặc biệt của loại câu MCQ, trong đó một dãy thông tin chứa các câu hỏi (cột A) và dãy kia là các phương án lựa chọn (cột B) được dùng để trả lời bằng cách kết nối sao cho thích hợp với mỗi một câu ở cột A. Ví dụ: 1. Tế bào kẽ a. nối từ buồng bìu đến phúc mạc 2. Ống bẹn b. tế bào gốc để sản sinh ra tinh trùng 3. Nội mạc tử cung c. vùng bìu chứa tinh hoàn bên trong 4. Cơ trơn ở bìu d. roi 5. Khoang bìu e. lớp trong cùng của thành tử cung 6. Tinh nguyên bào f. phần mở rộng của ống tử cung 7. Estradiol g. loại hormone quan trọng 8. Ampulla (bóng) h. có vai trò trong sản sinh androgen 9. Đuôi tinh trùng i. lớp nằm trong vùng hạ bì của bìu Trên cơ sở ghép đôi các câu hỏi như trên sinh viên sẽ tìm các câu ở mức độ biết ghép trước sau đó đến các câu hiểu và cuối cùng câu vận dụng sẽ ghép sau. - Câu trắc nghiệm nhiều lựa chọn (MCQ): Đây là loại câu trắc nghiệm thông dụng nhất, sau câu dẫn có 3-5 phương án trả lời cho sẵn chỉ có một phương án là đúng hoặc đúng nhất, các phương án còn lại hoặc sai hoặc chỉ đúng một phần, gọi là các câu nhiễu. Thông thường, trong TNKQ hay sử dụng là dạng câu hỏi MCQ, một câu hỏi MCQ gồm hai phần: câu dẫn hoặc câu hỏi và các phương án để thí sinh lựa chọn, trong đó chỉ có 1 phương án đúng hoặc đúng nhất, các phương án còn lại là phương án nhiễu. Trong đó câu dẫn là loại câu đặt ra câu hỏi, đưa ra yêu cầu, tình huống để sinh viên thực hiện. Do đó yêu cầu cơ bản nhất khi viết câu dẫn là làm sao sinh viên phải biết rõ câu hỏi đó cần phải trả lời cần phải thực hiện và vấn đề cần giải quyết. Với câu dẫn như trên các phương án lựa chọn nếu là phương án đúng (phương án tốt nhất) thể hiện sự hiểu biết của sinh viên và là sự lựa chọn chính xác nhất theo yêu cầu của câu dẫn. Phương án nhiễu là những phương án trả lời hợp lý nhưng không chính xác với câu hỏi hoặc vấn đề đặt ra trong câu dẫn. Phương án nhiễu chỉ hợp lý đối với sinh viên không nắm kiến thức hoặc không đọc tài liệu đầy đủ, không hợp lý đối với sinh viên có kiến thức. 375
  4. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ Theo Bloom B. [2], các cấp độ của quá trình tư duy bao gồm 6 cấp độ: biết, hiểu, ứng dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá. Trên cơ sở đó chúng tôi tùy thuộc vào tình hình thực tế để soạn câu hỏi TNKQ loại MCQ. 1. Biết: Sinh viên nhớ lại tài liệu đã học trước đó như sự kiện, thuật ngữ, nguyên lý, quy trình… Ví dụ: Mỏm khuỷu được tìm thấy ở xương nào sau đây? a. xương cánh tay b. xương trụ c. xương quay d. xương đòn Để trả lời sinh viên chỉ cần biết cấu tạo của các xương nói trên, trong đó chỉ có xương trụ có mỏm khuỷu, sinh viên chỉ cần nhớ lại và chọn phương án trả lời. 2. Hiểu: Sinh viên phải có khả năng hiểu biết về các sự kiện và nguyên lý, giải thích tài liệu học tập, nhưng không nhất thiết phải liên hệ các tư liệu. Ví dụ: Cơ nào sau đây không gắn với xương cánh tay : a. cơ tròn lớn b. cơ trên gai c. cơ nhị đầu cánh tay d. cơ cánh tay Để trả lời câu hỏi này sinh viên phải hiểu được cơ nhị đầu cánh tay: mặc dÙ ở vị trí cánh tay nhưng cơ nhị đầu cánh tay có nguyên ủy ở mấu quạ của xương bả vai và bám tận ở lồi củ xương quay, do đó không gắn với xương cánh tay, các cơ còn lại gắn với xương cánh tay. 3. Áp dụng: sinh viên có khả năng vận dụng tài liệu đã học vào các tình huống mới và cụ thể. Ví dụ: Hormone nào sau đây kích thích sự bài tiết testosteron : a. FSH b. ACTH c. LH d. Relaxin (Sinh viên phải vận dụng để hiểu chức năng của từng loại hormone trong đó các loại hormone FSH, LH có chức năng kích thích nang trứng tăng trưởng, khi LH đạt mức độ tối đa kích thích chín và rụng trứng ở nữ giới. Relaxin lại có chức năng chính ở nữ làm giãn khớp mu, làm giãn và mềm cổ tử cung. Ngoài chức năng kích thích nang trứng thì LH lại có chức năng quan trọng kích thích tế bào Leydig ở tinh hoàn tiết testosterone). 4. Phân tích: Phân tích sự liên hệ giữa các thành phần của một cấu trúc có tính tổ chức sao cho có thể hiểu được, nhận biết được. Ví dụ: Túi thừa mạc nối có ở: a. Tá tràng b. Hồi tràng c. Kết tràng xích ma d. Dạ dày Sinh viên phải phân tích được sự khác biệt về cấu tạo của ruột non và ruột già. Ở ruột già có các sợi cơ tập trung thành ba dải cơ dọc, nằm giữa các dải cơ là các túi phình kết tràng cách nhau bởi những chỗ thắt ngang. Dọc theo chiều dài của ruột già có những túi phúc mạc nhỏ chứa mỡ gọi là túi thừa mạc nối. 5. Tổng hợp: Đặt các thành phần với nhau để tạo thành một tổng thể hay giải các bài toán bằng tư duy sáng tạo. Ví dụ: Để phẫu thuật mô phần dưới cùng của bàn chân, hãy sắp xếp trật tự của các lớp tế bào khi tiếp xúc với dụng cụ mổ: 1. Lớp bóng; 2. Lớp sừng; 3. Lớp mầm; 4. Lớp gai; 5. Lớp hạt a. 1, 2, 4,5, 3, b. 1,4,3, 2, 5, c. 2,1, 5,4,3 d. 3, 4, 5, 1, 2 376
  5. BÁO CÁO KHOA HỌC HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA LẦN THỨ 1 Sinh viên phải sắp xếp trật tự của biểu mô lát tầng sừng hóa khi đi từ trong ra ngoài hay đi từ ngoài vào trong. Ở đây vì phẫu thuật da nên phải đi từ ngoài vào trong và xếp thứ tự 5 lớp bắt đầu từ lớp sừng, lớp bóng, lớp hạt, lớp gai và lớp mầm. 6. Đánh giá: Khả năng phê phán, đánh giá thẩm định giá trị của tư liệu theo một mục đích nhất định. Ví dụ: Nhận định nào sau đây không đúng trong trường hợp gãy xương sườn: a. Xảy ra khi có lực ép mạnh vào ngực. b. Đầu các xương sườn gãy thường có khuynh hướng bật ra bên ngoài. c. Đầu của mảnh xương gãy có thể làm tổn thương phổi. d. Bó nẹp thành ngực là quá trình điều trị tối ưu. Sinh viên phải nhận định được rằng, các xương sườn có thể gãy ở bất cứ nơi nào khi có lực tác động mạnh và trực tiếp, điểm thường gãy nhất là góc sườn vì đó là điểm yếu của xương sườn. Các xương sườn bị gãy thường không dùng nẹp như các gãy xương thông thường khác (chi trên, chi dưới). Các mảnh sườn bị gãy có thể bị lồi ra bên ngoài, nếu có một lực tác động quá mạnh mảnh sườn có thể gãy và hướng vào bên trong gây tổn thương và xuất huyết phổi. Thực tế cho thấy rất khó để áp dụng hệ thống phân loại 6 mức nhận thức này của Bloom (1956) [1], một số nhà giáo dục đã giản lược thành 4 mức chung (Niemierko B. 2012) [8], [9]: biết, hiểu, vận dụng ở mức độ thấp, vận dụng ở mức độ cao; và 3 mức chung (Crooks, 1976) [3]: biết, kết hợp hiểu và áp dụng, giải quyết vấn đề hay bài toán. Từ những ví dụ cụ thể như trên nguyên tắc khi viết câu TNKQ là phải đảm bảo viết đúng yêu cầu trong ma trận chi tiết đề thi, không được sai sót về chuyên môn, câu hỏi chưa được sử dụng cho kiểm tra đánh giá khác, câu hỏi phải mới, câu hỏi cần phải khai thác vận dụng kiến thức để giải quyết tình huống thực tế trong cuộc sống, Để viết câu hỏi TNKQ MCQ chúng ta cần tuân thủ: một câu hỏi cần đo một kết quả học tập quan trọng, tập trung vào một vấn đề cụ thể, dùng từ nhất quán đối với nhóm đối tượng được kiểm tra, các câu phải độc lập với nhau tránh trường hợp câu này gợi ý cho câu kia, tránh những kiến thức quá riêng biệt hoặc theo ý kiến chủ quan của cá nhân, không nên sử dụng đúng nguyên văn các cụm từ trong giáo trình… Cần tránh sử dụng những cụm từ tất cả các phương án trên, không có phương án nào, không nên dùng các thuật ngữ mơ hồ thông thường, phần lớn,… hoặc các cụm từ hạn định như luôn luôn, tuyệt đối, duy nhất… Do đó để khắc phục những hiện tượng trên câu dẫn cần phải rõ ràng, từ ngữ toát lên được yêu cầu sinh viên phải làm gì, để nhấn mạnh câu dẫn cần để ở dạng câu hỏi thay vì diễn đạt dài dòng. Nếu câu dẫn là một câu hoàn chỉnh tránh để chỗ trống ở đầu hay giữa câu. Nên trình bày phần dẫn ở thể khẳng định, nếu thể phủ định thì gạch chân hay tô đậm cho nổi bật phần dẫn. Đối với các phương án lựa chọn phải khẳng định rằng chỉ có duy nhất một lựa chọn đúng, sắp xếp các phương án theo một trật tự nhất định, cân nhắc khi sử dụng các phương án trả lời nếu có nghĩa trái ngược nhau sinh viên dễ đoán, các phương án lựa chọn nên đồng nhất về mặt nội dung, hình thức, tránh lặp lại thuật ngữ nhiều lần, các phương án nhiễu nên viết ở thể khẳng định. Cần tránh những cụm từ tất cả các phương án trên, không có phương án nào, không nên dùng các thuật ngữ mơ hồ thông thường, phần lớn,… hoặc các cụm từ hạn định như luôn luôn, tuyệt đối… Đối với các phương án nhiễu không nên sai một cách rõ ràng, 377
  6. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ tránh dùng các cụm từ để sinh viên thiếu kiến thức tìm cách đoán mò, không dùng các cụm từ sai ngữ pháp. Bước cuối cùng là phân tích câu hỏi và lượng giá bài trắc nghiệm. Phân tích các câu trả lời trong bài trắc nghiệm là hết sức cần thiết vì giúp cho giảng viên biết được mức độ khó của câu trắc nghiệm, lựa chọn các câu có chỉ số phân biệt cao để có thể phân biệt được sinh viên giỏi và yếu đồng thời giảng viên cũng có thể hiểu được cần phải sửa đổi cho phù hợp hơn. 3. KẾT LUẬN Trên cơ sở các câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhằm đánh giá năng lực sinh viên, đồng thời góp phần phát hiện lệch lạc mà sinh viên gặp phải khi học môn học cần tiến hành phân tích độ khó của các câu hỏi trắc nghiệm giải phẫu sinh lý người. Thông qua quá trình này giảng viên có thể tìm ra những nguyên nhân để đề ra phương án giải quyết, điều chỉnh kế hoạch dạy và học (nội dung và phương pháp sao cho phù hợp) nhằm tháo gỡ những khó khăn định hướng cho sinh viên tiếp thu môn học một cách tốt nhất. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bloom, B.S. và cs (1956), Nguyên tắc Phân loại Mục tiêu Giáo dục (Lĩnh vực Nhận thức), Bản dịch của Đoàn Văn Điều. NXB Giáo dục – 1995. [2] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2016), Tài liệu tập huấn cán bộ quản lý và giáo viên Trung học phổ thông về kỹ thuật xây dựng ma trận đề và biên soạn câu hỏi kiểm tra đánh giá. [3] Cooks T.J., Cane M.T., Gillmore G.M (1976), Student evaluations of teaching: the generalizability of class means, Jem. 13 (3), 171-183. [4] Haldyna, T. M. (1996), Writing Test Items to Evaluate Higher Order Thinking, Routledge, New York. [5] Nguyễn Phụng Hoàng, Võ Ngọc Lan (1996), Phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra và đánh giá thành quả học tập, NXB Giáo Dục. [6] Vũ Đình Luận (2002), Sử dụng câu hỏi trắc nghiệm nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn di truyền học ở trường CĐSP, Tạp chí Giáo dục (35), tr.37-38. [7] Mehrans, W.A. and Lehmann, I.J. (1991). Measurement and Evaluation in Education and Psychology. (4rd ed.) Holt, Rinehart & Winston, New York. [8] Niemierko B. (2012), Educational diagnostics for contemporary school systems. Measuring and assessing growth of student human capital. Part I: Main concepts and the scope, Colloquium”. [9] Niemierko B. (2012), Educational diagnostics for contemporary school systems. Measuring and assessing growth of student human capital. Part II: Methodology and rules, “Colloquium”. [10] Nguyễn Văn Thuận, Phan Đức Duy, Hoàng Trọng Phán (2006), Thiết kế bài dạy học và Trắc nghiệm khách quan Sinh học Trung học phổ thông, NXB Giáo Dục. [11] Dương Thiệu Tống (1995). Trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập. Trường ĐHTH TP Hồ Chí Minh. [12] Trần Vui, Nguyễn Đăng Minh Phúc (2013), Đánh giá trong giáo dục toán, NXB Lao động. 378
  7. BÁO CÁO KHOA HỌC HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA LẦN THỨ 1 Title: USING THE OBJECTIVE TESTS IN THE MODULE HUMAN ANATOMY AND PHYSIOLOGY ON THE WAY OF THE ABILITY DEVELOPMENT AT PHAM VAN DONG UNIVERSITY Abstract: Biology is an experimental science among them human anatomy and physiology is a science that studies about the morphology, structure, and rule of organs in the body. In addition, human anatomy and physiology also studies the unified relationship as well as the connection of the body and the environment. The complicated questionnaire of the human anatomy and physiology to examine and evaluate the quality in teaching and learning of students is necessary. This article introduces the process to build some objectives test questions and focus developing the individual competency of students at Pham Van Dong University. Keywords: Multiple objective test questions, physiological anatomy, capacity. 379
nguon tai.lieu . vn