- Trang Chủ
- Địa Lý
- Phân tích đặc điểm các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát sinh trượt lở đất ở tỉnh Quảng Nam
Xem mẫu
- HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1059.2018-0019
Natural Sciences 2018, Volume 63, Issue 3, pp. 176-185
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn
PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN SỰ PHÁT SINH TRƯỢT LỞ ĐẤT Ở TỈNH QUẢNG NAM
Nguyễn Thị Thu Hiền
Khoa Địa lí, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Trên cơ sở phân tích hệ thống các bản đồ cơ sở, chồng xếp bản đồ thành phần với
bản đồ hiện trạng trượt lở đất và phân tích thống kê, bài báo đã phân tích một cách tổng hợp
các yếu tố tự nhiên (vị trí địa lí, địa chất, địa hình - địa mạo, khí hậu, thủy văn, vỏ phong hóa,
lớp phủ thực vật) và các hoạt động kinh tế - công trình của con người (sản xuất nông - lâm
nghiệp, khai thác khoáng sản, phát triển thủy điện, xây dựng cơ sở hạ tầng) ảnh hưởng đến sự
phát sinh trượt lở đất ở tỉnh Quảng Nam.
Từ khóa: Nhân tố tự nhiên, hoạt động kinh tế - công trình, trượt lở đất, Quảng Nam.
1. Mở đầu
Quảng Nam là một tỉnh nằm ở trung tâm khu vực miền Trung, có vị trí rất quan trọng đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên.
Là vùng đất có hai di sản thế giới và giàu truyền thống cách mạng, có địa hình đa dạng từ đồng
bằng, trung du đến miền núi và khí hậu nhiệt đới ẩm, Quảng Nam có nhiều điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, địa hình với hơn 70% diện tích
là đồi núi, độ dốc lớn, độ phân cắt sâu mạnh và khí hậu phân hóa thành hai mùa mưa và mùa khô
sâu sắc rất dễ phát sinh, phát triển các tai biến tự nhiên, trong đó có trượt lở đất. Đặc biệt, trong
một vài thập kỉ gần đây, để đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, hệ thống cơ sở hạ tầng địa
phương đã có sự phát triển vượt bậc. Nhiều tuyến đường giao thông được làm mới, sửa chữa nâng
cấp; các dự án thủy điện được xây dựng và vận hành; nhiều mỏ khoáng sản được mở rộng khai
thác... Những hoạt động kinh tế - công trình của con người ngày càng gia tăng, làm cho môi
trường tự nhiên bị biến đổi mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát sinh, phát triển các quá trình sườn, gây
nguy cơ gia tăng trượt lở đất.
Thực tiễn cho thấy, trượt lở đất ở Quảng Nam diễn ra hàng năm với quy mô khác nhau, gây
thiệt hại lớn về người và tài sản. Trượt lở đã khiến cho hàng ngàn mét khối đất đá đổ xuống vùi
lấp ruộng vườn, phá hủy nhà cửa, công trình, vùi lấp và làm hư hỏng nặng nhiều đoạn đường, gây
ách tắc giao thông. Trượt lở đất cũng cướp đi sinh mạng của nhiều người.
Nghiên cứu trượt lở đất ở Quảng Nam đã được đề cập đến trong nhiều đề tài như: “Điều tra,
h o s t hiện tư ng trư t lở đất ở c c hu ện iền n i tỉnh Qu ng Nam và các gi i pháp phòng
tránh gi m nhẹ thiệt hại do ch ng gâ nên” của Nguyễn Trọng Yêm năm 2000; “Đ nh gi tai biến
Ngày nhận bài: 19/2/2017. Ngày sửa bài: 20/3/2017. Ngày nhận đăng: 27/3/2017.
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Thu Hiền. Địa chỉ e-mail: hienntt@hnue.edu.vn.
176
- Phân tích đặc điể c c nhân tố nh hưởng đến sự ph t sinh trư t lở đất ở tỉnh Qu ng Nam
địa chất ở các tỉnh ven biển miền Trung từ Qu ng Bình đến Phú Yên - hiện trạng, nguyên nhân,
dự b o và đề xuất biện pháp phòng tránh, gi m thiểu hậu qu ” do Trần Tân Văn và nnk thực hiện
năm 2002; “Nghiên c u đ nh gi điều iện địa chất iến tạo và c c ếu tố liên quan đến tai biến
địa chất i trường dọc ột số đoạn trên tu ến đường hí Minh” năm 2005 do Trần Tân Văn
làm chủ nhiệm đề tài; "Sử dụng GIS để đ nh gi độ nhạy c m của trư t đất: Trường h p đoạn đi
qua tỉnh Qu ng Nam của đường H Chí Minh" (2007) của Đặng Vũ Khắc; "Đ nh gi hiện trạng,
khoanh vùng c nh báo chi tiết ngu cơ đề xuất các gi i pháp phòng tránh tai biến n t đất và
trư t lở đất là cơ sở khoa học cho quy hoạch phát triển bền vững kinh tế - xã hội tỉnh Qu ng
Nam” (năm 2010) của Phạm Văn Hùng. Trong đó phần lớn các đề tài tập trung nghiên cứu ở
phạm vi hẹp: đường Hồ chí Minh, khu vực đồi núi. Một số nghiên cứu đi sâu vào phân tích, đánh
giá các yếu tố địa chất, kiến tạo và chưa tính đến các yếu tố khác như khí tượng, thủy văn và đặc
biệt hầu hết các đề tài này đều không xem xét đến các hoạt động kinh tế - kĩ thuật của con người.
Dưới góc độ địa lí, nghiên cứu này phân tích một cách tổng hợp những yếu tố tự nhiên và các hoạt
động kinh tế công trình của con người ở Quảng Nam ảnh hưởng đến sự phát sinh trượt lở đất tạo
cơ sở cho việc xác định nhân tố gây trượt, đánh giá nguy cơ trượt lở cũng như đề xuất các giải
pháp giảm thiểu nguy cơ trượt lở đất ở tỉnh Quảng Nam.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Cơ sở dữ liệu và phương pháp
Các dữ liệu được dùng cho nghiên cứu này bao gồm hệ thống các bản đồ: bản đồ địa hình tỉ
lệ 1/50.000; bản đồ địa chất tỉ lệ 1/200.000; bản đồ thủy văn tỉ lệ 1/100.000; bản đồ hiện trạng sử
dụng đất năm 2015 tỉ lệ 1/100.000; bản đồ mạng lưới đường giao thông tỉ lệ 1/100.000. Hiện trạng
trượt lở đất tỉnh Quảng Nam được xây dựng dựa trên kết quả điều tra thực địa của tác giả và tham
khảo tài liệu [4].
Phân tích các bản đồ cơ sở cùng với sự hỗ trợ của công nghệ GIS, các bản đồ chuyên đề
thành phần được thành lập. Chồng xếp bản đồ thành phần với bản đồ hiện trạng trượt lở đất trong
GIS kết hợp với phương pháp phân tích thống kê là các phương pháp chủ yếu được sử dụng trong
nghiên cứu.
2.2. Kết quả và bàn luận
2.2.1. Các nhân tố tự nhiên ảnh hưởng đến sự phát sinh trượt lở đất ở tỉnh Quảng Nam
* Vị trí địa lí
Quảng Nam có diện tích 10.438,37 km2, nằm trong tọa độ địa lí từ 14057’10’’ đến 16003’50”
vĩ độ bắc, từ 107012’40” đến 108044’20” kinh độ đông. Với vị trí ở rìa đông nam của lục địa -
Âu, Việt Nam nói chung và uảng Nam nói riêng chịu tác động sâu sắc của chế độ gió mùa châu
. Nằm trên dải duyên hải miền Trung, uảng Nam chịu ảnh hưởng mạnh bởi hoạt động của bão
và áp thấp nhiệt đới trên biển Đông. Những tác động này khiến cho thời tiết, khí hậu của uảng
Nam mang nhiều nét đặc trưng riêng, trong đó đặc biệt là sự phân mùa của chế độ mưa.
* Địa chất
Lãnh thổ tỉnh Quảng Nam nằm trong vùng có cấu tạo địa chất khá phức tạp. Bản đồ địa chất
tỉ lệ 1/200.000 của Quảng Nam thể hiện 33 hệ tầng địa chất và phức hệ macgma với nhiều loại đá
khác nhau, từ đá trầm tích đến magma xâm nhập, phun trào và đá biến chất, có tuổi từ Protezozoi
đến Kainozoi [1, 2]. Trong đó đá biến chất chiếm 44,67% diện tích lãnh thổ với các hệ tầng như
Sông Re, Tắc Pỏ, Khâm Đức, phân hệ dưới của các hệ tầng Núi Vú và A Vương, phân hệ tầng
trên của hệ tầng A Vương. Thành phần thạch học bao gồm đá phiến, đá phiến thạch anh, cát kết
177
- Nguyễn Thị Thu Hiền
quarzit rất nhạy cảm với tai biến trượt lở đất [3, 4]. Đá magma với các đá xâm nhập và phun trào
thuộc các phức hệ Hiệp Đức, Núi Ngọc, Bến Giằng - Quế Sơn, Đại Lộc, Hải Vân, Bà Nà... chiếm
19,61% diện tích tự nhiên. Đây cũng là loại đá có mức độ nhạy cảm cao với trượt lở đất [3, 4].
Hệ thống đứt gãy Ở Quảng Nam khá phát triển với ba hệ thống chính: á vĩ tuyến, tây bắc -
đông nam và đông bắc - tây nam, bao gồm: đứt gãy Sông Bung - Trà Bồng, đứt gãy Sông Pô Cô,
đứt gãy Đông Bắc Hiên, đứt gãy Trà My - Núi Thành, đứt gãy Điện Bàn - Nam Giang, đứt gãy
Hội An - Phước Sơn, đứt gãy Hiệp Đức - Phước Sơn, đứt gãy Tam Kỳ - Hiệp Đức [5, 6]. Mật độ
đứt gãy 400 – 800 m/km2 chiếm 15,9% diện tích lãnh thổ. Hệ thống đứt gãy làm cho việc thâm
nhập của nước được dễ dàng, tạo nên các đới xung yếu trước các tác động của ngoại sinh và nhân
sinh. Đồng thời một số đứt gãy như Sông Bung-Trà Bồng, đứt gãy Pô Cô có khả năng phát sinh
động đất 5-7 độ Richter. Do đó những khu vực có hệ thống đứt gãy hoạt động mạnh, mật độ đứt
gãy lớn khả năng xảy ra trượt lở cao hơn [3, 4].
* Địa hình - Địa mạo
Địa hình uảng Nam khá đa dạng, phân hóa theo hướng thấp dần từ tây sang đông. Phía tây
là vùng núi thuộc phía đông của dãy Trường Sơn Nam, có độ cao trên 1000 m, trong đó có một số
đỉnh cao trên 1500 m như núi Lum-Heo (2045 m), núi Mang (1708 m), núi Căn Thước (1672 m),
núi Mang Lau (1887 m), núi Ngọc Linh (2598 m). Phía đông là dải đồng bằng hẹp ven biển, thấp,
bằng ph ng. Vùng chuyển tiếp giữa vùng núi ở phía tây và đồng bằng ở phía đông là vùng đồi cao
200 – 300 m. Khác với một số tỉnh ở miền Bắc, ở đây địa hình từ miền núi ở phía tây đột ngột đổ
xuống vùng đồi thấp và đồng bằng phía đông do đó dải đồi trung du rất hẹp. Đặc điểm này có ảnh
hưởng rất lớn đến d ng chảy mặt. Địa hình núi ở thượng lưu thì quá dốc, đồng bằng hạ lưu quá
thoải, còn dải đồi trung du lại rất hẹp, thậm chí nhiều nơi không có, nên đoạn trung lưu của các
dòng sông ngắn. Với cấu trúc địa hình như vậy, khu vực nghiên cứu thực sự ẩn chứa nhiều hiểm
hoạ của tai biến lũ lụt và trượt lở đất.
Vùng đồi núi chiếm gần 3/4 diện tích của tỉnh với độ dốc và độ phân cắt sâu lớn. Khu vực có
độ dốc trên 250 chiếm khoảng 28% diện tích lãnh thổ. Diện tích có độ phân cắt sâu từ 50 - 200 m/km2
và trên 200 m/km2chiếm khoảng 74,5%. Đặc điểm này tạo nên năng lượng địa hình lớn thúc đẩy
quá trình dịch chuyển của đất đá xảy ra mạnh hơn. Đây là những khu vực có mức độ nhạy cảm
trượt lở đất từ trung bình đến rất cao [3, 4, 7, 8].
Lãnh thổ có 39 dạng địa hình có nguồn gốc và tuổi khác nhau thuộc 7 nhóm nguồn gốc, bao
gồm: nhóm dạng địa hình nguồn gốc núi lửa; nhóm dạng địa hình do quá trình bóc mòn tổng hợp;
nhóm dạng địa hình do dòng chảy; nhóm dạng địa hình nguồn gốc hỗn hợp sông-biển; nhóm dạng
địa hình nguồn gốc biển, đầm phá - vũng vịnh; nhóm dạng địa hình do gió và địa hình nhân sinh [9].
Trong đó các dạng địa hình do quá trình bóc mòn tổng hợp chiếm diện tích lớn với các bề mặt san
bằng và bề mặt sườn, phân bố rộng khắp các khu vực đồi núi của tỉnh. Dạng địa hình này phát
triển trên khu vực có độ dốc từ 15 - 450, nhiều nơi quá trình phong hóa phát triển mạnh tạo nên
lớp vỏ phong hóa dày, do vậy rất dễ xảy ra trượt lở [3, 10].
* Khí hậu
- Chế độ nhiệt
Quảng Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng của biển, có nền nhiệt cao,
nắng nhiều và ít chịu ảnh hưởng của gió mùa mùa đông. Tổng giờ nắng trong năm là 2140 giờ ở
vùng đồng bằng phía đông và 1774 giờ ở vùng núi phía tây. Nhiệt độ trung bình năm từ 23 - 26 oC.
Ở vùng đồng bằng ven biển, nhiệt độ trung bình năm khoảng 26 oC, vùng núi cao khoảng 22 - 23 oC.
Tháng lạnh nhất là tháng 1, nhiệt độ trung bình khoảng 21 oC ở vùng đồng bằng và 18 - 20 oC ở
vùng núi. Tháng 6, 7, 8 là 3 tháng nóng nhất với nhiệt độ trung bình 27 - 29 0C, nhiệt độ tối cao
178
- Phân tích đặc điể c c nhân tố nh hưởng đến sự ph t sinh trư t lở đất ở tỉnh Qu ng Nam
trong ngày có thể tới 39 - 40 oC. Biên độ nhiệt ngày đêm cũng như năm khoảng 7 - 8 oC. Độ ẩm
tương đối ở mức cao 84 - 87% [11]. Như vậy Quảng Nam có khí hậu nhiệt đới, không có mùa
đông lạnh. Nền nhiệt cao cùng với độ ẩm lớn thúc đẩy các quá trình phong hóa đá gốc phát triển
mạnh, tạo tiền đề vật chất cho hoạt động trượt lở.
- Mưa và chế độ ưa:
+ Lư ng ưa:
Lượng mưa trung bình năm ở Quảng Nam khá cao so với các tỉnh khác trong cả nước và có
xu hướng tăng dần từ đông sang tây (theo sự tăng dần của độ cao địa hình). Ở đồng bằng phía
đông lượng mưa trung bình năm khoảng 2200 mm, vùng đồi và trung du khoảng 2500 mm và
vùng núi phía tây trên 3000 mm, nhiều nơi ở phía tây và tây nam có thể đạt trên 4000 mm. Trung
bình một năm ở Quảng Nam có từ 120 - 160 ngày mưa. Tại trạm Khâm Đức, lượng mưa trung
bình năm là 3301,79 mm, với 136 ngày mưa, trong đó nhiều năm lượng mưa lớn hơn 4500 mm/năm
như 1981: 4616,4 mm; 2011: 4707 mm, 1999: 5310,6 mm và lớn nhất là năm 2007, đạt 5817,8 mm.
Vùng núi phía tây nam là nơi mưa nhiều nhất. Các số liệu quan trắc tại trạm Trà My cho thấy
lượng mưa trung bình năm đo được là 4126,87 mm với 194 ngày mưa, trong đó có nhiều năm
lượng mưa vượt quá 5000 mm/năm. Đặc biệt năm 1996, lượng mưa tại Trà My đạt mức kỉ lục,
7302,1 mm [3, 11]. Đây là một trong những tâm mưa lớn nhất cả nước.
+ Chế độ ưa
Mưa ở uảng Nam phân hóa theo mùa khá r rệt. Mùa khô từ tháng 2 đến tháng 8 với lượng
mưa thấp 500 – 800 mm, chiếm 20 - 30% lượng mưa cả năm. Mùa mưa kéo dài khoảng 5 tháng từ
tháng 9 đến tháng 1 năm sau, lượng mưa chiếm tới 70 - 80% lượng mưa cả năm. Mưa lớn thường
tập trung vào 3 tháng mùa thu (tháng 9, 10,11). Trong 3 tháng này, lượng mưa chiếm tới 55 - 70%
lượng mưa cả năm và 70 - 85% lượng mưa của mùa mưa; số ngày mưa lớn chiếm 70 - 80% và số
ngày mưa rất lớn chiếm tới 80 - 95% của cả năm (Hình 1 và 2). Sự phân hóa sâu sắc giữa hai mùa
mưa khô làm gia tăng tốc độ phong hóa, phá hủy đất đá, quá trình xâm thực, bóc m n do đó làm
giảm độ bền của đất đá.
Hình 1. Biểu đồ lượng mưa trung bình tháng tại một số trạm
179
- Nguyễn Thị Thu Hiền
Hình 2. Biểu đồ số ngày mưa rất lớn ( 100 mm) tại một số
Vào mùa Hình 2.6: Lượng mưa trung bình tháng tại Quảng Nam
trạmmưa ở Quảng Nam thường xảy ra mưa lớn. Theo số liệu thống kê từ năm 1981 tại đến
2015, lượng mưa ngày cực đại trung bình trên phạm vi toàn tỉnh đạt 190 – 300 mm/ngày, lượng
mưa cực đại tối cao của các trạm ở mức 400 –Quảng Nam trong đó cá biệt ở Khâm Đức, Tiên
650 mm/ngày
Phước, Trà My đã quan trắc thấy những lượng mưa kỉ lục: Trà My 503,50 mm/ngày (11/11/2007),
Khâm Đức 693,50 mm/ngày (11/1/1999), Hội An 666,6 mm/ngày (3/11/1999) [11].
Trung bình một năm ở Quảng Nam xảy ra từ 3 - 6 đợt mưa lớn, đặc biệt có những năm số đợt
mưa lớn nhiều hơn như năm 2000 có 9 đợt, năm 2007 có 8 đợt. Lượng mưa trong mỗi đợt này
thường từ 300 - 400 mm, thậm chí có thể đạt 600 - 700 mm trong thời gian 3 - 5 ngày. Mưa lớn ở
Quảng Nam là do sự kết hợp của địa hình và hoàn lưu gió mùa đông bắc hoặc hoạt động của áp
thấp nhiệt đới và bão trên biển Đông. Đặc biệt có thời kì xuất hiện cả hai hình thế gây mưa này đã
tạo nên những đợt mưa rất lớn với lượng mưa ở nhiều nơi có thể đạt 600 - 700mm, thậm chí > 900 mm
như đã thấy trong năm 2004, 2007, 2009.
Lượng mưa lớn lại tập trung theo mùa với cường độ cao và kéo dài trong nhiều ngày gây ra
lụt lội ở vũng trũng, vùng đồng bằng và trượt lở đất ở vùng núi. Thực tế phân tích hiện trạng trượt
lở trên địa bàn tỉnh Quảng Nam cho thấy hoạt động trượt lở chủ yếu xảy ra vào mùa mưa, trong
hoặc sau các đợt mưa lớn và lượng mưa trong mùa mưa càng lớn thì khả năng xảy ra trượt lở
càng cao [3].
* Thủy văn
Quảng Nam có hệ thống sông ngòi khá phát triển với mật độ sông suối trong tỉnh đạt trên
1km/km2, tập trung trong 2 hệ thống sông chính là Thu Bồn - Vu Gia và sông Tam Kỳ. Hệ thống
sông Thu Bồn - Vu Gia có diện tích lưu vực là 10.350 km2, chiếm trên 80% diện tích toàn tỉnh
Quảng Nam và một phần tỉnh Kon Tum, Quảng Ngãi [12]. Đây là hệ thống sông lớn nhất khu vực
Trung Trung Bộ và là một trong 9 hệ thống sông lớn ở nước ta. Hệ thống sông Thu Bồn - Vu Gia
chảy qua khu vực có cấu trúc địa hình phức tạp gồm núi, đồi, đồng bằng và vùng ven biển, trong
đó địa hình đồi núi chiếm 90% diện tích lưu vực, chuyển tiếp nhanh xuống vùng đồng bằng hạ lưu.
Sông bắt nguồn từ các trung tâm mưa lớn và chảy qua khu vực có lượng mưa phong phú nên phát
triển với 19 phụ lưu cấp 1 - 3 cùng nhiều chi lưu có chiều dài trên 10 km và lượng dòng chảy dồi
dào. Ngoài hai hệ thống sông Thu Bồn - Vu Gia và sông Tam Kỳ, Quảng Nam còn có các sông
nhỏ: sông Vĩnh Điện, sông Trường Giang, sông Quảng Huế, sông Bà Rén, sông An Tân, Ly Ly....
và hệ thống khe suối phân bố ở khu vực miền núi.
Mạng lưới sông ngòi phát triển dày, mật độ sông suối từ trung bình đến lớn, chứa đựng lượng
dòng chảy mặt hàng năm khá lớn khoảng 21,5 tỉ mét khối. Nếu tính trung bình cho toàn tỉnh sẽ
được một lớp dòng chảy 2060 mm [12]. So với toàn lãnh thổ Việt Nam Quảng Nam là tỉnh có tiềm
năng nguồn nước mặt vào loại phong phú. Đây là tài nguyên cho phát triển kinh tế và phục vụ đời
180
- Phân tích đặc điể c c nhân tố nh hưởng đến sự ph t sinh trư t lở đất ở tỉnh Qu ng Nam
sống dân sinh nhưng đồng thời cũng là điều kiện thuận lợi thúc đẩy các tai biến ngoại sinh xảy ra
mạnh mẽ ở khu vực.
Kết quả nghiên cứu cho thấy các khu vực có mật độ sông suối 1,075-2 km/km2 có mức độ nhạy
cảm cao và rất cao đối với trượt lở đất. Khu vực này chiếm 36,1% diện tích lãnh thổ [3].
* Vỏ phong hóa
Quảng Nam nằm trong vùng có đặc điểm địa chất, kiến tạo phức tạp, địa hình đa dạng từ
đồng bằng đến vùng núi, khí hậu nhiệt đới nóng ẩm với hai mùa mưa khô r rệt. Những điều kiện
đó thúc đẩy quá trình phong hóa phát triển mạnh mẽ, hình thành các kiểu vỏ phong hóa khác nhau.
Dựa trên những tài liệu nghiên cứu về vỏ phong hóa Việt Nam và khu vực lãnh thổ Quảng Nam
có 4 kiểu vỏ phong hoá: ferosialit, silicit, sialferit, feralit và các trầm tích Đệ tứ hỗn hợp bở rời [4, 13].
Trong đó đáng chú ý là kiểu vỏ phong hóa Ferosialit (FeSiAl), chiếm 54,6% diện tích, phân bố
rộng khắp từ vùng đồi thấp đến vùng núi phía tây, trong đó tập trung thành những vùng lớn ở
Đông Giang, Tây Giang, Nam Giang, Phước Sơn và Nam Trà My. Vỏ phong hóa Ferosialit phát
triển trên nhiều loại đá: đá trầm tích lục nguyên, đá biến chất, đá magma axít, đá magma mafic và
siêu mafic. Kiểu vỏ phong hoá ferosialit với đặc trưng tổ hợp khoáng vật kaolinit - gơtit -
monmoriolit, linh động, độ dính kết kém do vậy khả năng chống trượt rất kém, mức độ nhạy cảm
trượt lở đất rất cao [3, 4].
Kiểu vỏ phong hóa Sialferit (SiAlFe) phát triển khá phổ biến trên các đá granit, ryolit, đá
phiến, lục nguyên xen phun trào axít, đá phiến kết tinh thạch anh felspat. Kiểu vỏ này chiếm
25,2% diện tích của tỉnh, phân bố thành các dải theo phương á vĩ tuyến: từ phía bắc huyện Đại
Lộc qua Đông Giang đến Tây Giang; từ Nam Giang qua Nông Sơn đến phía tây các huyện Quế
Sơn, Duy Xuyên, Thăng Bình và phần phía nam huyện Núi Thành và Bắc Trà My. Tổ hợp khoáng
vật đặc trưng là thạch anh - kaolinit - hydromica - goethit, khả năng chống trượt kém nên mức độ
nhạy cảm trượt lở cao [3, 4].
* Lớp phủ thực vật
Lớp phủ thực vật ở Quảng Nam rất phong phú và đa dạng. Theo kết quả công bố hiện trạng
rừng năm 2015 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, toàn tỉnh hiện có 719.813 ha đất lâm
nghiệp, chiếm 68,9% diện tích tự nhiên, trong đó diện tích đất có rừng là 552.147 ha, tỉ lệ che phủ
rừng đạt 51,5%. Trong tổng diện tích đất có rừng, diện tích rừng tự nhiên là 409.840 ha, chiếm
74,2%, rừng trồng là 142.307 ha, chiếm 25,8% [3]. Rừng Quảng Nam thuộc loại rừng nhiệt đới lá
rụng thường xanh quanh năm, rất phong phú, đa dạng về cấu trúc, tổ thành loài với nhiều loài thực
vật qúy hiếm: kiền kiền, lim xanh, g , sao đen, ch đen, táu…; nhiều loài dược liệu quý: sâm
Ngọc Linh, sa nhân, ba kích, ngũ gia bì.... và các loại lâm sản khác: song, mây, đót, sặt.... Rừng
giàu ở Quảng Nam hiện còn khoảng hơn 10 nghìn ha, phân bố ở các khu vực núi cao, diện tích
rừng còn lại chủ yếu là rừng nghèo, rừng trung bình và rừng tái sinh, có trữ lượng gỗ khoảng 69
m3/ha. Bên cạnh diện tích rừng với độ che phủ lớn, quá trình canh tác của người dân đã tạo ra hàng
loạt các kiểu thảm thứ sinh như rừng tre nứa, trảng cây bụi thứ sinh, trảng cỏ thứ sinh và thảm thực
vật trồng như lúa, các loại rừng trồng, hoa màu, nương rẫy, cây công nghiệp, các cây trồng trong các
khu dân cư.
Tuy nhiên do bị tàn phá trong chiến tranh, do bị khai thác quá mức để lấy gỗ, lấy đất trồng cây
lương thực, cây công nghiệp trong một thời gian dài nên diện tích rừng ở Quảng Nam giảm mạnh từ
năm 1943 đến năm 1983, độ che phủ từ 69,89% xuống c n 20,5%. Đến năm 2005, độ che phủ rừng
đạt 43,4% bằng 2/3 độ che phủ rừng năm 1943. Việc đẩy mạnh trồng rừng trong những năm gần đây
đã tăng diện tích đất có rừng của Quảng Nam lên hơn 51,5% vào năm 2015. Tuy diện tích rừng tăng
nhưng chủ yếu là rừng trồng, rừng tái sinh, khả năng trữ nước và điều tiết nước trong lưu vực kém,
khiến cho đất đai bị xói mòn mạnh; đó cũng là nguyên nhân gây lũ lụt, trượt lở đất, làm suy kiệt
nguồn nước mặt cũng như nước ngầm, làm gia tăng sự bồi lấp các lòng sông ở hạ du [3, 4].
181
- Nguyễn Thị Thu Hiền
2.2.2. Các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến phát sinh tai biến trượt lở đất
* Hoạt động sản xuất nông-lâm nghiệp
Sản xuất nông - lâm nghiệp đóng vai tr quan trọng trong nền kinh tế của Quảng Nam. Năm
2014 lĩnh vực nông lâm thủy sản đóng góp 17% tổng GRDP, và tạo việc làm cho 52,6% tổng số
lao động hoạt động trong các ngành kinh tế. Với một tỉnh địa hình đồi núi chiếm hơn 70% diện
tích tự nhiên, việc phát triển nông - lâm nghiệp ở miền núi Quảng Nam là hoạt động thiết yếu vừa
đảm bảo an ninh lương thực, vừa bảo vệ môi trường sinh thái. Thực tế sản xuất nông nghiệp ở đây
đã có truyền thống từ lâu đời và trong một thời gian dài với phương thức canh tác du canh du cư,
đốt phá rừng làm nương rẫy. Quá trình canh tác không hợp lí của con người đã làm suy giảm
nghiêm trọng lớp phủ thực vật, tạo điều kiện thuận lợi cho các yếu tố phong hoá và làm thay đổi
tính chất cơ lí sẵn có của đất đá. Tình trạng chặt phá rừng lấy gỗ, lấy đất canh tác nhất là những
khu rừng giàu, rừng tự nhiên diễn biến phức tạp và trở thành điểm nóng. Tính từ năm 2000-2010
trung bình mỗi năm ở Quảng Nam có khoảng 53ha rừng bị chặt phá. Năm 2014, 2015 diện tích
rừng bị chặt phá tương ứng là 55,5ha và 75 ha [14]. Trong những năm gần đây, tỉ lệ che phủ rừng
tăng và hiện đạt trên 50% do đẩy mạnh việc trồng rừng. Chính sách khuyến khích phát triển lâm
nghiệp, khoán, giao đất giao rừng đã khiến cho diện tích rừng trồng tăng nhanh góp phần cải thiện
kinh tế cho các hộ dân sống gần rừng, ven rừng. Tuy nhiên, diện tích rừng trồng tăng đồng nghĩa
việc lấn chiếm rừng, phá rừng trái phép tăng khiến công tác quản lí, bảo vệ, phòng cháy chữa cháy
rừng trở nên khó khăn hơn. Xét về khía cạnh môi trường, rừng trồng, rừng tái sinh có cấu trúc đơn
giản nên khả năng giữ đất, giữ nước kém. Do vậy những bất hợp lí trong tập quán canh tác, khai thác
và sử dụng tài nguyên rừng làm lớp phủ thực vật trở nên cạn kiệt, diện tích đất trống đồi trọc gia
tăng là tiền đề cho phát sinh trượt lở đất ở khu vực nghiên cứu. Kết quả phân tích hiện trạng trượt lở
và các loại hình sử dụng đất chỉ ra khu vực đất trống - cây bụi có khả năng xảy ra trượt lở lớn nhất [3].
* Hoạt động khai thác khoáng sản
Quảng Nam là tỉnh có tiềm năng tương đối lớn về khoáng sản, vừa phong phú về chủng loại
vừa đa dạng về nguồn gốc. Hiện nay, toàn tỉnh có khoảng 45 loại khoáng sản, trong đó một số
khoáng sản có giá trị được phát hiện có trữ lượng lớn như: vàng ở Bồng Miêu (12.388 kg) và Đăk
Sa (7.210 kg); than đá ở Nông Sơn, Ngọc Kinh, An Điềm với tổng trữ lượng khoảng 13 triệu tấn;
uran có trữ lượng khoảng trên 14 ngàn tấn ở Thạnh Mỹ; felspat ở Đại Lộc, Đại An, Lộc Quang
với trữ lượng khoảng 1,84 triệu tấn; đá xây dựng với trữ lượng trên 100 triệu mét khối; đá vôi ở A
Sờ và Thạnh Mỹ với trữ lượng dự kiến trên 600 triệu tấn; cát, cuội, sỏi phân bố ở bãi bồi ven hệ
thống các sông của tỉnh với trữ lượng khá lớn.
Nguồn tài nguyên khoáng sản dồi dào tạo điều kiện cho ngành công nghiệp khai thác khoáng
sản của tỉnh hình thành và phát triển. Trong thời gian qua, đã có hàng trăm mỏ khoáng sản được
đưa vào khai thác ở các quy mô khác nhau để cung cấp nguyên - nhiên - vật liệu cho việc phát
triển kinh tế - xã hội và góp phần đáng kể vào việc tăng ngân sách, giải quyết việc làm. Tuy nhiên
nhiều cơ sở khai thác còn nhỏ lẻ, manh mún, công nghệ khai thác thô sơ, chủ yếu là tận thu, thậm
chí là khai thác trái phép không chỉ gây tổn thất tài nguyên và nguồn thu ngân sách mà còn tác
động lớn đến môi trường. Hoạt động khai khoáng trên địa bàn tỉnh gây nguy cơ biến đổi địa hình
cũng như ảnh hưởng đến phát sinh trượt lở đất lớn nhất phải kể đến như khai thác vàng ở Bồng
Miêu và Phước Sơn; khai thác than ở Nông Sơn, Ngọc Kinh, An Điềm; khai thác felspat ở Đại
Lộc, khai thác đá xây dựng ở Nam Giang và Tiên Phước. Các hoạt động này gây ô nhiễm môi
trường nước, tàn phá rừng, làm xáo trộn bề mặt đất, sa mạc hóa đất đai; gây bồi lấp, sụt lún, phá
vỡ cảnh quan thiên nhiên. Hoạt động khai khoáng cũng tạo nên các dạng địa hình có tiềm năng
gây trượt lở cao như các bãi đổ thải lớn, các moong khai thác... Đặc biệt hoạt động khai thác
khoáng sản ở Quảng Nam tập trung chủ yếu ở các vùng núi và trung du khiến phạm vi tác động
sâu rộng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các vùng rừng và diện tích đất rừng xung quanh khu vực
khai thác.
182
- Phân tích đặc điể c c nhân tố nh hưởng đến sự ph t sinh trư t lở đất ở tỉnh Qu ng Nam
Thực tế cho thấy nhiều vụ trượt lở đất gây thiệt hại lớn về người và tài sản đã từng xảy ra tại
các khu vực khai thác khoáng sản, như vụ trượt lở núi ở khu vực đào vàng xã Phước Công và
Phước Chánh huyện Phước Sơn tháng 11 năm 1999 làm 40 người chết; vụ lở núi tại bãi đào vàng
xã Phước Thành (Phước Sơn) đêm 13/11/2003 khiến 19 người thiệt mạng [3].
* Phát triển thủy điện
Do đặc điểm địa hình và thủy văn, uảng Nam là một trong số ít tỉnh trên cả nước có tiềm
năng thủy điện lớn. Tính đến cuối năm 2014, trên địa bàn tỉnh đã có 14 công trình thủy điện đang
hoạt động, riêng hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn có 7 nhà máy với tổng công suất 838MW (A
Vương, Sông Côn 2, Sông Tranh 2, Ðăk Mi 4, Sông Bung 6, Sông Bung và Sông Bung 4; 07 dự
án đang xây dựng (trong đó có 3 dự án trên sông Vu Gia - Thu Bồn: Sông Bung 2, Đăk Mi 2 và
Đăk Mi 3), 10 dự án đã được tham gia thiết kế cơ sở và 09 dự án đang nghiên cứu lập dự án
đầu tư [15]. Việc phát triển thủy điện ở Quảng Nam thực tế đã đem lại nhiều lợi ích: bổ sung
khoảng 5% lượng điện vào nguồn điện quốc gia, tăng giá trị sản xuất công nghiệp gần 4.000 tỉ
đồng/năm và tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách khoảng 800 tỉ đồng. Việc tích nước các hồ
chứa góp phần kiểm soát lũ, lụt vào mùa mưa; cấp nước sinh hoạt, phục vụ sản xuất nông nghiệp
hạ du vào mùa khô. Việc xây dựng các công trình thủy điện đã tạo nên diện mạo mới cho nông
thôn miền núi về cơ sở hạ tầng, giáo dục, y tế và cải thiện đời sống cho một bộ phận dân cư địa
phương. Tuy nhiên, việc xây dựng và vận hành các công trình thủy điện ở Quảng Nam đã có
những tác động đến môi trường. Xét về khía cạnh phát sinh tai biến, thủy điện có ảnh hưởng một
cách gián tiếp đồng thời lại là đối tượng chịu tổn thương. Phát triển thủy điện đồng nghĩa với việc
rừng bị xâm hại nghiêm trọng. Một diện tích lớn rừng bị chặt phá làm hồ tích nước và xây dựng
đường dây truyền tải điện lên lưới điện quốc gia. Các công trình thủy điện làm mất đất sản xuất
nông nghiệp và đi kèm với nó là phải chuyển một phần diện tích rừng phòng hộ sang cấp đất sản
xuất cho các hộ tái định cư. Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Quảng
Nam, từ năm 2000 đến 2013 diện tích đất rừng và đất lâm nghiệp bị thu hồi để đầu tư cho các dự
án thủy điện là 11.396,52ha, trong đó riêng 10 công trình thủy điện theo quy hoạch bậc thang Vu
Gia- Thu Bồn đã thu hồi 8.717ha (chiếm 76,49%) [15]. Chính vì vậy diện tích rừng bị suy giảm
nghiêm trọng, đặc biệt là rừng phòng hộ đầu nguồn trong khi việc trồng bù rừng lại không được
thực hiện đầy đủ. Bên cạnh đó, các hồ thủy điện, các con đường công vụ thi công thủy điện tạo
điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển gỗ trái phép khiến cho tình hình chặt phá rừng, khai thác
gỗ trái phép diễn ra phức tạp.
Các hồ chứa nước, các công trình thuỷ điện đã kích thích các đới đứt gẫy hoạt động tăng
nguy cơ phát sinh tai biến như động đất, nứt đất, trượt lở.... Công trình thủy điện sông Tranh 2 là
một điển hình. Trong năm 2012 khu vực hồ thủy điện này xảy ra 75 cơn dư chấn, gây nứt nẻ nhà
dân, cơ quan, trường học và gây tâm lí hoang mang trong nhân dân. Việc xây dựng các công trình
thuỷ điện đã làm gia tăng độ dốc sườn ở khu vực miền núi, tác động đến dòng chảy hoạt động,
phá vỡ trạng thái cố kết của đất đá và trực tiếp làm biến đổi chế độ nước mặt và thay đổi mực
nước ngầm.
* Xây dựng cơ sở hạ tầng
Quảng Nam có một hệ thống cơ sở hạ tầng khá đồng bộ. Các công trình về lĩnh vực điện,
đường, trường, trạm được quan tâm đầu tư xây dựng và tu sửa kịp thời, đặc biệt là cơ sở hạ tầng
giao thông. Mạng lưới giao thông đường bộ phát triển với các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ, đường liên
huyện, liên xã và đường giao thông nông thôn. Quốc lộ 1A và đường sắt Bắc Nam là tuyến huyết
mạch ở phía đông. Đường Hồ Chí Minh chạy gần như song song với quốc lộ 1A, có chiều dài
190km và đi qua uảng Nam ở cả nhánh tây và nhánh đông. Các quốc lộ 14D, 14E, 40B và các
tuyến tỉnh lộ nối các huyện đồng bằng ở phía đông với các huyện miền núi phía tây tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động giao thương giữa các địa phương trong tỉnh và giữa Quảng Nam với nước
bạn Lào.
183
- Nguyễn Thị Thu Hiền
Việc xây dựng cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội đồng thời cũng tiềm
ẩn nguy cơ tai biến địa chất, đặc biệt là ở khu vực miền núi. Việc xây dựng nhà ở và các công
trình khác trên các sườn đồi, sườn núi làm tăng tải trọng trên các sườn dốc, làm thay đổi chế độ
thủy văn trên sườn và do đó gây tác động xấu đến sự ổn định của sườn. Các hoạt động xẻ núi làm
đường, làm tăng độ dốc của sườn, tăng khả năng làm mất ổn định sườn. Thực tế cho thấy trên các
tuyến quốc lộ và tỉnh lộ cắt qua miền núi, nhiều nơi sườn bị xẻ rất dốc, trên 30o thậm chí 40 - 50o
và trượt lở đất xảy ra khá phổ biến. Đường Hồ Chí Minh qua Quảng Nam chủ yếu được xây dựng
trên các sườn núi, đặc biệt nhánh tây chạy qua một vùng núi cao có địa hình bị chia cắt sâu lớn và
có sườn rất dốc. Từ khi hoàn thành và đưa vào sử dụng (năm 2006) mỗi mùa mưa đến hiện tượng
trượt đất đã xảy ra thường xuyên trên toàn tuyến, nhiều đoạn trượt lở xảy ra nhiều lần như đoạn A
Tép - thị trấn P’Rao, đoạn cầu Sông Bung tới đỉnh đèo Thạnh Mỹ, đoạn trấn Thạnh Mỹ - xã Cà
Dy.... Trượt lở làm ách tắc giao thông, phá hủy đường, nứt đường và cần một lượng kinh phí lớn
để khắc phục, sửa chữa [3, 4, 7, 16].
3. Kết luận
Các điều kiện tự nhiên của Quảng Nam đều có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát sinh tai
biến trượt lở đất. Cấu trúc địa chất và thành phần thạch học tạo những điều kiện thuận lợi cho quá
trình phong hóa đá gốc. Hệ thống các đứt gãy phát triển và hoạt động tạo nên các khe nứt làm cho
việc thâm nhập của nước được dễ dàng, làm giảm độ bền kháng cắt của đất đá. Địa hình miền núi
với độ dốc lớn, phân cắt sâu mạnh tạo ra năng lượng địa hình lớn. Tính chất phân mùa của nhiệt,
ẩm thúc đẩy quá trình phong hóa đá gốc, tạo ra các sản phẩm dễ nhạy cảm với các tác động ngoại
sinh và tác động nhân sinh. Đặc biệt chế độ mưa tập trung theo mùa với lượng mưa lớn trong thời
gian ngắn làm tăng nhanh áp lực nước lỗ hổng, giảm độ kết dính của đất đá, tăng tải trọng trên
sườn. Khí hậu (chủ yếu là mưa) được xem là yếu tố thúc đẩy quá trình trượt lở diễn ra nhanh hơn.
Các hoạt động nhân sinh tác động trực tiếp hay gián tiếp đến trượt lở đất. Hoạt động đốt, chặt
phá rừng lấy gỗ, lấy đất sản xuất, khai thác khoáng sản, xây dựng các công trình thủy điện đều
làm suy giảm diện tích và độ che phủ rừng. Việc cắt xẻ sườn dốc để làm đường giao thông ở khu
vực miền núi làm tăng độ dốc, tăng khả năng làm mất ổn định sườn khiến cho trượt lở ở các khu
vực này xảy ra thường xuyên hơn đặc biệt trong những thời kì mưa lớn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Vũ Khúc (Chủ biên), Đào Đình Thục, Lê Huy Bách, Tống Duy Thanh, 2000. Sách tra c u
các phân vị địa chất Việt Nam. Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam.
[2] Tống Duy Thanh, Vũ Khúc (Chủ biên) và nnk, 2005. Các phân vị địa tầng Việt Nam. Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
[3] Nguyễn Thị Thu Hiền, 2017. Đ nh gi điều kiện hình thành và ngu cơ trư t lở đất trong
bối c nh biến đổi khí hậu ở tỉnh Qu ng Nam. Luận án Tiến sĩ Địa lí Tự nhiên, Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội.
[4] Phạm Văn Hùng, 2010. Đ nh gi hiện trạng, khoanh vùng c nh báo chi tiết ngu cơ đề
xuất các gi i pháp phòng tránh tai biến n t đất và trư t lở đất là cơ sở khoa học cho quy
hoạch phát triển bền vững kinh tế - xã hội tỉnh Qu ng Nam. Viện Địa chất - Viện Khoa học
và Công nghệ Việt Nam.
[5] Đặng Vũ Khắc, 2007. Sử dụng GIS để đ nh gi độ nhạy c m của trư t đất: trường h p
đoạn đi qua tỉnh Qu ng Nam của đường H Chí Minh. Viện Địa chất, Viện Khoa học và
Công nghệ Việt Nam.
184
- Phân tích đặc điể c c nhân tố nh hưởng đến sự ph t sinh trư t lở đất ở tỉnh Qu ng Nam
[6] Cao Đình Triều, Phạm Huy Long, 2002. Kiến tạo đ t g l nh thổ iệt Na . Nxb Khoa
học Kĩ thuật.
[7] Trần Tân Văn và nnk, 2002. Đ nh gi tai biến địa chất ở c c tỉnh ven biển iền Trung từ
u ng Bình đến h ên hiện trạng ngu ên nhân dự b o và đề uất biện ph p ph ng
tr nh gi thiểu hậu qu Trung tâm thông tin lưu trữ và tư liệu địa chất.
[8] Nguyễn Trọng Yêm và nnk, 2000. Đ nh gi ngu cơ trư t lở đất ở v ng iền n i u ng Na .
Viện Địa chất - Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam.
[9] Uông Đình Khanh và nnk, 2003. Phân tích những t c động của các nhân tố địa chất - địa
mạo đến sự hình thành lũ lụt lưu vực sông Thu B n. Báo cáo chuyên đề của đề tài KC.08.12,
lưu trữ Viện Địa lí.
[10] Nguyễn Thị Thu Hiền, 2013. ơ sở lí luận của mối quan hệ giữa trư t lở đất và ưa ở tỉnh
Qu ng Nam. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 3 Vol. 58, tr. 164-172.
[11] Viện Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu. Số liệu nhiệt độ lư ng ưa ở tỉnh Qu ng
Nam 1981-2015.
[12] Nguyễn Bá Quỳ, 2010. Đ nh gi t c động của biến đổi khí hậu đến c c thiên tai liên quan đến
dòng ch (lũ lụt, khô hạn) tỉnh Qu ng Nam. Báo cáo chuyên đề 5, Dự án hợp tác Việt Nam –
Đan Mạch “Đ nh gi những t c động của biến đổi khí hậu đến điều kiện tự nhiên, môi
trường và phát triển kinh tế - xã hội ở Trung Trung Bộ Việt Nam” (P1- 08 Vie).
[13] Ngô uang Toàn (chủ biên), Nguyễn Thành Vạn và nnk, 2000. phong h a và trầ tích
Đệ T iệt Na . Bộ Công nghiệp, Cục địa chất và khoáng sản Việt Nam.
[14] Cục thống kê tỉnh Quảng Nam, 2015. Báo cáo tình hình kinh tế Qu ng Na nă 2014 2015
[15] Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam, 2014. Báo cáo công tác qu n lí nhà nước về đất đai
i trường nước và hí tư ng thủ văn đối với các dự án thủ điện trên địa bàn tỉnh
Qu ng Nam.
[16] Trần Tân Văn và nnk, 2006. Nghiên c u đ nh gi điều kiện địa chất, kiến tạo và các yếu tố
liên quan đến tai biến địa chất t trường dọc một số đoạn trên tuyến đường H Chí Minh.
Báo cáo tổng kết dự án, Viện Nghiên cứu Địa chất và Khoáng sản. Cục Địa chất Việt Nam.
Lưu trữ Địa chất, Hà Nội.
ABSTRACT
Characteristics analysis of the factors affecting the generation of landslides
in Quang Nam province
Nguyen Thi Thu Hien
Faculty of Geography, Ha Noi National University of Education
Based on analyzing basic maps, overlaying parameter maps and landslide inventory map and
statistical analyzing, the article synthetically analyses natural factors (geographical location,
geology, terrain - geomorphology, climate, hydrology, weathering crust, vegetation cover) and
economic activities of human (agro-forestry production activity, mining operations, hydropower
development, construction of infrastructure) which affect the generation of landslide in Quang
Nam province.
Keywords: Natural factors, economic activities, landslide, Quang Nam.
185
nguon tai.lieu . vn