Xem mẫu
- NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN KT -
XH TRONG CÁC VÙNG
Đồng bằng sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu Long là đồng bằng châu thổ lớn nhất nước ta, với
diện tích gần 4 triệu ha, chiếm khoảng 11,9% diện tích toàn quốc. Tại
đây có 16,1 triệu người sinh sống, chiếm khoảng 21,1 số dân cả nước
(số liệu năm 1999).
1. Vấn đề sử dụng và cải tạo tự nhiên
- Hai nhánh Tiền Giang và Hậu Giang của sông Cửu Long. Hình từ vệ tinh
của NASA.
Đồng bằng sông Cửu Long bao gồm phần đất nằm trong phạm vi tác
động của các nhánh sông Cửu Long (thượng và hạ châu thổ) và phần
đất nằm ngoài phạm vi tác động đó (đồng bằng phù sa ở rìa).
Phần thượng châu thổ là một khu vực tương đối cao (2 – 4m so với
mực nước biển), nhưng vẫn bị ngập nước vào mùa mưa. Phần lớn bề
mặt có nhiều vùng trũng rộng lớn. Vào mùa mưa, chúng chìm sâu dưới
nước, còn vào mùa khô chỉ là những vũng nước tù đứt đoạn. Đây là
vùng đất rộng, dân còn thưa, chưa được khai thác nhiều.
- Phần hạ châu thổ thấp hơn, thường xuyên chịu tác động của thuỷ triều
và sóng biển. Mực nước trong các cửa sông lên xuống rất nhanh, những
lưỡi nước mặn ngấm dần vào trong đất. Ngoài các giống đất ở hai bên
bờ sông và các cồn cát duyên hải, trên bề mặt đồng bằng cao 1 – 2m
còn có các khu vực trũng ngập nước vào mùa mưa và các bãi bồi trên
sông.
Các đồng bằng phù sa ở rìa tuy nằm ngoài phạm vi tác động trực tiếp
của sông nhưng vẫn được cấu tạo bởi phù sa sông (như đồng bằng sông
Đồng Nai, đồng bằng Cà Mau).
Thiên nhiên đồng bằng sông Cửu Long rất đa dạng với nhiều tiềm năng
và không ít trở ngại.
Ở đây, trên nền nhiệt đới ẩm, tính chất cận xích đạo của khí hậu thể
hiện hết sức rõ rệt. Hệ thống sông ngòi và các kênh rạch chằng chịt cắt
xẻ châu thổ thành những ô vuông làm cho việc giao thông bằng đường
thuỷ trở nên dễ dàng.
Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất là mùa khô kéo dài, là sự xâm nhập sâu vào
đất liền của nước mặn, sự tăng cường độ chua và chua mặn trong đất
- cũng như những tai biến do thời tiết, khí hậu đôi khi có thể xảy ra.
Mặc dù thổ nhưỡng ở châu thổ là đất phù sa, nhưng tính chất của nó
rất phức tạp. Có 3 loại đất chủ yếu. Đất phù sa ngọt ven sông là loại đất
tốt nhất, chạy thành một dải dọc sông Tiền và sông Hậu. Đất phèn
chiếm diện tích lớn nhất, phân bố thành các vùng tập trung (Đồng Tháp
Mười, Hà Tiên, Cần Thơ). Đất mặn phân bố ở cực Nam Cà Mau và dải
đất duyên hải Gò Công, Bến Tre. Những trở ngại chính khi cnah tác là
đất thiếu dinh dưỡng, nhất là thiếu các nguyên tố vi lượng, đất quá
chặt, khó thoát nước.
Sinh vật cũng là nguồn tài nguyên quan trọng của đồng bằng. Thảm
thực vật gồm 2 thành phần chủ yếu là rừng ngập mặn và rừng tràm. Về
động vật, có giá trị hơn cả là cá và chim.
Tài nguyên biển ở đây hết sức phong phú với hàng trăm bãi cá cùng với
nhiều loại hải sản quý.
Các loại khoáng sản ở đồng bằng không có nhiều, chủ yếu là than bùn,
vật liệu xây dựng. Việc thăm dò và khai thác dầu khí, mặc dù nằm ngoài
khơi, nhưng chắc chắn sẽ có tác động tới nền kinh tế của vùng.
- Đồng bằng sông Cửư Long có nhiều ưu thế hơn về điều kiện tự nhiên so
với đồng bằng sông Hồng. Tuy vậy, việc sử dụng và cải tạo tự nhiên ở
đây lại trở thành một vấn đề cấp bách nhằm biến đồng bằng thành một
khu vực kinh tế quan trọng của đất nước.
Nước là vấn đề hàng đầu ở đồng bằng sông Cửu Long. Một hạn chế
đáng kể cho việc sử dụng hợp lí đất đai trong vùng là việc đất bị nhiễm
phèn, nhiễm mặn. Vì vậy, cần có nước để rửa phèn, rửa mặn trong mùa
khô.
Để đối phó với sự khô hạn làm bốc phèn và bốc mặn, nguồn nước ngọt
trong các dòng sông và nước dưới đất có ý nghĩa đặc biệt. Vào mùa khô
rất thiếu nước ngọt. Nhân dân địa phương đã sử dụng nhiều biện pháp
khác nhau để rửa phèn, rửa mặn, và đã đạt được kết quả nhất định.
Cách tốt hơn cả, có thể là chia đồng bằng thành các ô nhỏ để có đủ
nước thau chua, rửa mặn; đồng thời kết hợp với việc tạo ra các giống
lúa chịu được phèn hoặc mặn trong điều kiện nước tưới bình thường.
Đối với khu vực rừng ngập mặn phía Tây Nam đồng bằng, có thể từng
bước biến thành những bãi nuôi tôm, trồng sú, vẹt, đước kết hợp với
việc bảo vệ môi trường sinh thái; cải tạo dần diện tích đất mặn, đất
phèn, thành những vùng đất phù sa mới để trồng cói, lúa, cây ăn quả.
- Việc sử dụng và cải tạo tự nhiên vùng này không tách khỏi hoạt động
kinh tế của con người. Vết tích của chiến tranh vẫn còn tồn tại. Tình
trạng độc canh lúa còn tương đối phổ biến. Điều đó đòi hỏi phải chuyển
đổi cơ cấu kinh tế, phá thế độc canh, đẩy mạnh việc trồng cây công
nghiệp có giá trị cao, kết hợp với nuôi trồng thuỷ sản, phát triển công
nghiệp chế biến. Đối với vùng biển, hướng chính trong tổ chức lãnh thổ
kinh tế là kết hợp mặt biển với đảo, quần đảo và đất liền để tạo nên
một thế kinh tế liên hoàn.
Câu hỏi:
1. Đồng bằng sông Cửu Long có vị trí như thế nào trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của cả nước?
2. Phân tích những đặc điểm tự nhiên của đồng bằng sông Cửu Long.
Những đặc điểm này có thuận lợi và khó khăn gì trong việc phát triển
kinh tế - xã hội?
3. Trình bày những phương hướng sử dụng và cải tạo tự nhiên ở đồng
bằng sông Cửu Long và cơ sở khoa học của những phương hướng ấy.
nguon tai.lieu . vn