- Trang Chủ
- Môi trường
- Nghiên cứu biến động tài nguyên rừng và khuynh hướng sử dụng đất của đồng bào dân tộc thiểu số ở khu vực Trung Trường Sơn dưới tác động của tuyến đường Hồ Chí Minh
Xem mẫu
- Tạp chí Khoa học – Đại học Huế
ISSN 1859-1388
Tập 120, Số 6, 2016, Tr. 115-130
NGHIÊN CỨU BIẾN ĐỘNG TÀI NGUYÊN RỪNG VÀ
KHUYNH HƯỚNG SỬ DỤNG ĐẤT CỦA ĐỒNG BÀO
DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở KHU VỰC TRUNG TRƯỜNG SƠN
DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA TUYẾN ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH
Hồ Đắc Thái Hoàng1,*, Trần Khương Duy1, Nguyễn Thị Phương Thảo2
1 Viện Tài nguyên và Môi trường, Đại học Huế
2 Trường Đại học Nông lâm, Đại học Huế
Tóm tắt: Đường Hồ Chí Minh (hay đường Trường Sơn) là một trong những con đường quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế cũng như an ninh quốc phòng của Việt Nam. Tái khởi công năm 2000, tuyến
đường đã thực sự đóng vai trò rất lớn thúc đẩy sự phát triển kinh tế cho hành lang kinh tế phía Tây đồng
thời cũng gián tiếp tạo ra những sự thay đổi trong định hướng canh tác của người dân đáp ứng nhu cầu thị
trường. Đồng bào dân tộc thiểu số tại khu vực này đã có những thay đổi lớn về cách thức sử dụng đất, thay
thế dần phương thức canh tác du canh truyền thống bằng các phương pháp thâm canh, ổn định sản xuất.
Nhu cầu thị trường và lợi thế giao thông đã gián tiếp tác động tạo ra sự suy giảm diện tích cũng như chất
lượng của tài nguyên rừng. Khuynh hướng sử dụng đất đã có sự thay đổi rõ nét tùy theo từng vùng địa lý
khác nhau. Tổng diện tích đất thổ cư và rừng trồng các loại tăng nhanh theo thời gian và kéo theo đó là sự
suy giảm tương ứng của diện tích rừng tự nhiên.
Từ khóa: Đường Hồ Chí Minh, sử dụng đất
1 Đặt vấn đề
Đường Hồ Chí Minh (hay đường Trường Sơn) được xây dựng từ năm 1957 (Đồng et al.,
1999) đây là một trong những tuyến đường huyết mạch trong cuộc kháng chiến chống Mỹ thống
nhất đất nước. Sau chiến tranh thì con đường này ít được sử dụng và xuống cấp rất trầm trọng.
Đến năm 2000, chính phủ đã khởi công tái xây dựng lại con đường Hồ Chí Minh, chính thức trở
thành tuyến đường quốc lộ thứ hai xuyên Việt, giảm tải cho tuyến 1A, đảm bảo lưu thông hàng
hóa thông suốt cho nền kinh tế, rút ngắn con đường vận chuyển hàng hóa, nâng cao khả năng
tiếp cận thị trường của đồng bào các dân tộc thiểu số, cải thiện sinh kế cho cư dân địa phương
đồng thời đây cũng là tuyến đường đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh quốc
phòng và là hành lang phát triển kinh tế Đông-Tây, nối thông với các cửa khẩu giữa 3 nước Đông
Dương.
Việc mở lại tuyến đường đã nối thông hành lang kinh tế phía Tây của Tổ quốc, tạo điều
kiện để phát triển cho các khu vực miền núi nối liền các tỉnh từ Bắc vào Nam, đặc biệt là khu vực
miền Trung – Tây Nguyên. Hệ thống đường Hồ Chí Minh giúp cho người dân địa phương có
điều kiện tiếp xúc và trao đổi hàng hóa nông sản đa chiều giữa các vùng miền đặc biệt là miền
*Liên hệ: hodacthaihoang@huaf.edu.vn
Nhận bài: 22-06-2015; Hoàn thành phản biện: 23-09-2015; Ngày nhận đăng: 03-10-2016.
- Hồ Đắc Thái Hoàng và CS. Tập 120, Số 6, 2016
núi và đồng bằng ven biển, được xem như là điểm tập trung thu mua nông sản của người dân,
cũng như hình thành tuyến cung cấp vật tư, trang thiết bị và cây con giống phục vụ quá trình sản
xuất của người dân. Tuyến đường đóng vai trò cơ sở hạ tầng chính yếu để phát triển hệ thống
điện, đường, trường, trạm phục vụ tốt công tác quản lý và nâng cao mức sống của cư dân địa
phương đồng thời là cơ hội giao lưu văn hóa giữa các dân tộc của miền núi và đồng bằng. Từ đó,
người dân có cơ hội tiếp xúc được với những kiến thức nuôi trồng hiện đại hơn, có cơ hội tiếp
cận dễ dàng hơn với những chính sách hỗ trợ sản xuất của nhà nước. Đời sống của người dân
từng bước đã có những bước cải thiện rõ rệt trong những năm qua.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực về phát triển kinh tế cho người dân, tuyến
đường cũng đang là một trong những tác nhân dẫn đến tần suất con người tác động vào tài
nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên rừng, ngày càng nhiều và rộng hơn. Đã có rất nhiều
nghiên cứu (Hoa, 2010; Thư et al., 2009; Tuân, 2008; Ý, Cẩm, et al., 2010; Ý, Thịnh, et al., 2010) chỉ
ra những mức độ tác động của tuyến đường Hồ Chí Minh đối với hệ sinh thái và tài nguyên thiên
nhiên như đất, nước, thảm thực vật… khu vực này. Tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu nào chỉ
rõ những ảnh hưởng có nó đến diễn biến của tài nguyên rừng.
Ngoài ra, với việc hình thành thị trường mua bán tại khu vực này, đã thúc đẩy việc sản
xuất của người dân theo hướng sản xuất hàng hóa thay thế cho hình thức sản xuất tự cung tự cấp
như trước đây. Chính điều này đã có tác động rõ rệt đến việc thay đổi mục đích và phương thức
sử dụng đất của người dân địa phương, sự thay đổi này đã tác động đến tài nguyên rừng theo cả
2 hướng: tích cực và tiêu cực.
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện với hai mục tiêu chính là phân tích biến động sử dụng đất
trong khoảng thời gian 25 năm từ 1989 đến 2014 để hiểu được quy luật biến động và các vấn đề
còn tồn tại trong sự phát triển của khu vực này gắn với tuyến đường Hồ Chí Minh; đồng thời
phân tích được khuynh hướng sử dụng đất của đồng bào sinh sống vùng miền núi trung Trường
Sơn dưới tác động của thị trường thông qua tuyến giao thông huyết mạch Hồ Chí Minh.
Thời gian và địa bàn nghiên cứu
Địa bàn nghiên cứu: Các xã dọc theo tuyến đường Hồ Chí Minh đi qua thuộc 3 huyện: A
Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế, Dakrông và Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Với chiều dài dọc tuyến
chính là 250 km, với tổng diện tích là 250 ha, phạm vi tác động khoảng 8.000 ha. Tổng diện tích
khảo sát ước tỉnh là 250.000 ha.
Thời gian nghiên cứu: tháng 1/2013 đến tháng 11/2014.
116
- Hồ Đắc Thái Hoàng và CS. Tập 120, Số 6, 2016
2 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu kết hợp sử dụng hai phương pháp GIS và RS trong phân tích và
xử lý số liệu, đồng thời kết hợp với kết quả thực hiện điều tra nhanh nông thôn có sự tham gia
của người dân (PRA) để tìm ra các thông số chi phối nhân tố tác động làm cơ sở cho việc phân
tích ảnh vệ tinh và kiểm định kết quả. Phương pháp nghiên cứu có thể khai quát như ở hình 1.
Hình 1. Khung tiến trình nghiên cứu xác định giải pháp sử dụng đất bền vững
Trong đó, GIS đóng vai trò xác định khu vực nghiên cứu dựa theo bản đồ địa hình, cung
cấp thông tin cho quá trình lấy mẫu và là công cụ thẩm định kết quả phân loại từ ảnh vệ tinh
thông qua bản đồ 3 loại rừng năm 2005, 2010, 2013 của khu vực nghiên cứu.
Ảnh Landsat các năm 1989, 1996, 2000, 2005, 2010 và 2014 được tiến hành phân tích. Trong
đó, ảnh Landsat năm 1989, 1996, 2005 và 2010 là ảnh Landsat 5; ảnh năm 2000 là Landsat 7 và ảnh
năm 2014 là Landsat 8. Những ảnh này phải được hiệu chỉnh khí quyển và góc mặt trời trước khi
đưa vào phân tích, để đưa về điều kiện cùng tiêu chuẩn.
Phân tích ảnh được chia làm 2 bước không kiểm định và có kiểm định. Phân loại không
kiểm định sẽ sử dụng phương pháp phân loại K-Mean. Phân loại ảnh có kiểm định xác định 8
loại hình sử dụng đất cơ bản là đất trồng lúa nước, đất trồng màu, đất nương rẫy, sông suối, đất
thổ cư, rừng giàu và rừng trung bình, rừng nghèo do tác động khai thác và rừng trồng.
Trong đó, kết quả đánh giá mẫu phân loại giữa rừng giàu và rừng trung bình cho sai số
quá lớn, sau khi đã tham khảo các loại bản đồ 3 loại rừng khu vực nghiên cứu năm 2013 và 2005.
Cho nên đối với trường hợp nghiên cứu này, chúng tôi chia thành 2 loại rừng tự nhiên là rừng
giàu, rừng trung bình và rừng nghèo để đảm bảo độ chính xác cao nhất có thể. Trong phạm vi
117
- Hồ Đắc Thái Hoàng và CS. Tập 120, Số 6, 2016
nghiên cứu của đề tài, chúng tôi phân tích trên ảnh Landsat với độ phân giải 30 m và mục tiêu
nghiên cứu biến động sử dụng đất nên sẽ gộp 2 loại rừng giàu và rừng trung bình thành một đối
tượng nghiên cứu. Sự sai khác giữa các mẫu phân loại có kiểm định (ROI Separability) chạy từ
giá trị 0 đến 2,0 (Jeffreys, 1946) và khi so sánh các mẫu với nhau, giá trị sai khác đạt trên 1,9 nghĩa
là các mẫu có độ phân biệt rõ ràng (Richards & Jia, 2006). Kết quả phân loại 8 mẫu phân loại trong
nghiên cứu đều đảm bảo độ sai khác lớn hơn 1,9. Kết quả phân loại sẽ được đánh giá bằng hệ số
Kappa (Richards & Jia, 2006; R. Schowengerdt, 2006).
𝑃 ∑𝑘 𝑥𝑘𝑘 − ∑𝑘 𝑥𝑘 + 𝑥 + 𝑘
𝐾=
𝑃2 − ∑𝑘 𝑥𝑘 + 𝑥 + 𝑘
Hệ số Kappa đối với phân loại ảnh trong nghiên cứu đã cho kết quả cao, đều cho hệ số trên
0,8. Nghĩa là sự sai khác giữa thực tế và kết quả phân loại không lớn nhiều. Đảm bảo độ tin cậy
của kết quả nghiên cứu.
Kết quả phân loại sau đó sẽ được xử lý bằng công nghệ thẩm định và nội suy GIS. Sử dụng
các các phương pháp chồng lớp và ma trận biến động để đánh giá và tính toán sự thay đổi của
tài nguyên rừng cũng như quá trình sử dụng đất của người dân và kết quả được trình bày thông
qua bảng biểu và bản đồ.
Phương pháp PRA được ứng dụng để cung cấp thông tin cho giải đoán ảnh trong các giai
đoạn trước, thông qua công cụ Timeline. Đồng thời, đây là công cụ để điều tra về phương thức
sử dụng đất cũng như khuynh hướng chuyển đổi mục đích sử dụng đất của người dân trước và
sau khi tuyến đường được sửa chữa. Thông tin được thu thập tại 3 xã A Roàng, huyện A Lưới;
xã Tà Rụt, huyện Dakrông; xã Hướng Tân, huyện Hướng Hóa. Đây là 3 xã có những thay đổi đặc
trưng trước và sau khi tuyến đường Hồ Chí Minh được tái xây dựng. Mỗi xã sẽ chọn ngẫu nhiên
40 hộ để phỏng vấn, nhưng vẫn đảm bảo đủ 3 nhóm hộ: Trung bình – Cận nghèo – Nghèo.
3 Kết quả nghiên cứu
3.1 Diễn biến tài nguyên rừng
Kết quả phân tích ảnh vệ tinh Landsat 5, 7 và 8 các năm 1989, 2000, 2014 cho ra kết quả
diễn biến tài nguyên rừng và sử dụng đất của người dân sống dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh
được thể hiện như biểu đồ 1, bảng 1 và bảng 2.
Tổng diện tích đất rừng (bao gồm rừng giàu và rừng trung bình, rừng nghèo, rừng trồng)
lại có xu hướng giảm dần, diện tích đất rừng năm 1989 là 171.025 ha đến năm 2000 là 165.467 ha,
đến năm 2015 diện tích này còn 159.077 ha. Giai đoạn từ 1989 đến 2000, diện tích rừng giàu giảm
14.531 ha, trung bình khoảng 1.300 ha/năm. Trong đó, có 15.278 ha rừng giàu bị khai thác chuyển
118
- Hồ Đắc Thái Hoàng và CS. Tập 120, Số 6, 2016
thành diện tích rừng nghèo, hơn 2.100 ha bị phá để làm nương rẫy, hơn 2000 ha rừng giàu bị phá
trong giai đoạn này, đến năm 2000 thì diện tích này đã được chuyển thành rừng trồng. Đến giai
đoạn từ 2000 đến 2014, tổng diện tích rừng giàu giảm 37.065 ha, trung bình hơn 2.800 ha/năm.
Trong đó, diện tích rừng giàu bị khai thác chuyển thành rừng nghèo là hơn 36.000 ha, bị phá để
canh tác nương rẫy là 923 ha, chuyển thành đất trồng màu hơn 1.000 ha, bị phá và chuyển thành
đất trồng rừng 4.567 ha. Ngược lại với sự suy giảm của rừng giàu có liên quan mật thiết với sự
gia tăng về diện tích của rừng nghèo.
Bảng 1. Ma trận biến động đất rừng và các lớp sử dụng đất giai đoạn từ 1989 đến 2000
Đơn vị tính: ha
Đất Rừng
Đất Đất
trồng Sông Đất trung Rừng Rừng Tổng
Lớp phân loại trồng nương
lúa suối thổ cư bình - nghèo trồng 1989
màu rẫy
nước giàu
Đất trồng lúa nước 2.771 - - - - - - - 2.771
Đất trồng màu - 4.173 - - 1.530 - - 1.623 7.326
Đất nương rẫy - 1.958 1.710 - 1.226 - 4.041 835 9.770
Sông suối - - - 1.486 - - - - 1.486
Đất thổ cư - - - - 1.307 - - - 1.307
Rừng trung bình -
- 731 2.106 - 348 92.797 15.278 2.086 113.346
giàu
Rừng nghèo 490 4.466 2.885 - 1.031 6.198 39.817 2.792 57.679
Rừng trồng - - - - - - - - -
Tổng 2000 3.261 11.328 6.701 1.486 5.442 98.995 59.136 7.336 193.685
Bên cạnh đó, diện tích rừng trồng trong khoảng thời gian nhất định đã thể hiện sự tăng
diện tích khá lớn, nếu năm 2000 có 7.336 ha thì đến năm 2014, diện tích rừng trồng đã tăng lên
trên 22.000 ha, trong đó phần diện tích gia tăng có nguồn gốc từ loại hình sử dụng đất là rừng tự
nhiên; một phần diện tích đất trồng màu và đất nương rẫy cũng được chuyển thành đất trồng
rừng.
Kết hợp kết quả phân tích và bản đồ biến động (hình 2 và hình 3) những diện tích rừng
giàu còn lại chủ yếu tập trung dọc theo đường biên giới Việt – Lào, khu bảo tồn Dakrông, khu
bảo tồn Sao La và các khu vực đồi núi hiểm trở, khó tiếp cận, cách xa tuyến đường trên 5 km. Kết
quả phân tích ảnh cho thấy, từ sau năm 2000, mức độ tác động và sự thay đổi của rừng tự nhiên
cũng như rừng trồng tại khu vực nghiên cứu tăng lên nhiều. Diện tích rừng trồng có sự gia tăng
nhanh, đến năm 2014 thì diện tích này đã gấp 3 lần diện tích so với năm 2000 chủ yếu tập trung
119
- Hồ Đắc Thái Hoàng và CS. Tập 120, Số 6, 2016
vào quanh khu dân cư, phần đất canh tác nương rẫy cũ và phần diện tích đất gần đường giao
thông. Đối chiếu kết quả thống kê 3 loại rừng của ngành lâm nghiệp trên địa bàn huyện A Lưới
đã cho kết quả tương đồng theo mốc thời gian nghiên cứu trên.
Bảng 2. Ma trận biến động đất rừng và các lớp sử dụng đất giai đoạn từ 2000 đến 2014
Đơn vị tính: ha
Đất
Đất Đất
trồng Sông Đất thổ Rừng Rừng Rừng Tổng
Lớp phân loại trồng nương
lúa suối cư giàu nghèo trồng 2000
màu rẫy
nước
Đất trồng lúa
2.889 372 - - - - - - 3.261
nước
Đất trồng màu - 7.072 - 300 - - - 3.956 11.328
Đất nương rẫy - 1.198 1.463 - 732 - 2.613 695 6.701
Sông suối - - - 1.486 - - - - 1.486
Đất thổ cư - - - - 5.442 - - - 5.442
Rừng giàu - 1.067 923 - 283 56.120 36.035 4.567 98.995
Rừng nghèo - 5.790 3.201 348 1.658 5.810 36.406 5.923 59.136
Rừng trồng - - 312 72 - - 6.952 7.336
Tổng 2014 2.889 15.499 5.899 2.206 8.115 61.930 75.054 22.093 193.685
120.000
100.000
Đơn vị (ha)
80.000
60.000
40.000
20.000
-
Đất trồng Đất trồng Đất nương Sông suối Đất thổ cư Rừng giàu Rừng Rừng trồng
lúa nước màu rẫy nghèo
Các lớp sử dụng đất
1989 2000 2014
Biểu đồ 1. Diện tích các loại hình sử dụng đất trên địa bàn nghiên cứu
Tổng diện tích đất canh tác nông nghiệp (bao gồm đất trồng lúa nước, đất trồng màu và
đất nương rẫy) năm 1989 là 19.876 ha, năm 2000 là 21.290 ha, năm 2014 là 24.287 ha, có chiều
hướng gia tăng lên từng năm. Diện tích đất trồng màu cụ thể là trồng cây nông nghiệp ngắn ngày
120
- Hồ Đắc Thái Hoàng và CS. Tập 120, Số 6, 2016
như sắn có diện tích mở rộng nhiều nhất, từ năm 1989 đến năm 2000, diện tích đất nông nghiệp
tăng 4.002 ha, đến giai đoạn từ sau năm 2000 đến năm 2014 thì diện tích này tăng thêm 4.171 ha.
Trong giai đoạn sau năm 2000, có 6.857 ha rừng tự nhiên chuyển thành đất nông nghiệp, trong
đó rừng nghèo chuyển 5.790 ha, rừng giàu chuyển 1.067 ha. Bên cạnh đó có 1 lượng diện tích đất
canh tác nương rẫy và đất trồng lúa nước chuyển sang canh tác thâm canh cây dứa, sắn… lần
lượt là 1.198 ha và 372 ha. Diện tích đất canh tác nương rẫy ở giai đoạn từ năm 2014 ít hơn so với
năm 2000 và 1989. Tuy nhiên, theo bảng 2, ma trận biến động các lớp phân loại, thì trong giai
đoạn này có 3.201 ha đất rừng nghèo và 927 ha rừng giàu bị khai thác để canh tác nương rẫy.
Đồng thời, có 2.613 ha đất nương rẫy bị bỏ hoang, chuyển hóa thành rừng nghèo và hơn 600 ha
đất nương rẫy chuyển hóa thành đất trồng rừng. Kết hợp với bản đồ biến động ở 2 giai đoạn cho
thấy, sự biến động sử dụng đất nông dọc theo hai bên tuyến đường diễn ra mạnh hơn từ khi con
đường bắt đầu được đưa vào tu sửa năm 2000.
Diện tích đất thổ cư hiển thị xu hướng tăng liên tục từ 1989 đến 2014, lần lượt là 1.486 ha
năm 1989, 5.442 ha năm 2000 và 8.115 ha năm 2014. Giai đoạn từ 1989 đến 2000, diện tích đất thổ
cư tăng hơn 4.000 ha. Trong đó, có 2.756 ha đất chuyển từ đất trồng màu và đất nương rẫy (chiếm
gần 67 %) và 1.379 ha đất rừng tự nhiên (chiếm 33 %) chuyển sang đất thổ cư. Có thể thấy rõ rằng,
từ 1989 đến 2000, hướng mở rộng diện tích vùng thổ cư của cư dân địa bàn nghiên cứu theo
hướng vào sâu trong rừng với định hướng nơi ở gần với nguồn tài nguyên đất đai và lâm sản.
Đến giai đoạn từ 2000 đến 2014, diện tích đất thổ cư tăng thêm 2.673 ha. Trong đó, đất thổ cư
chuyển từ đất trồng màu sang chỉ còn chiếm khoảng 27 %, trong khi đó có đến 73 % tổng diện
tích đất thổ cư gia tăng là từ rừng tự nhiên chuyển hóa sang. Kết hợp với bản đồ biến động, dân
cư có xu hướng mở rộng dọc theo tuyến đường Trường Sơn thay vì mở rộng theo hướng tiếp cận
gần rừng như giai đoạn trước năm 2000.
121
- Hồ Đắc Thái Hoàng và CS. Tập 120, Số 6, 2016
Hình 2. Biến động diện tích rừng và sử dụng đất trong giai đoạn từ 1989 đến 2000
Hình 3. Biến động diện tích rừng và sử dụng đất trong giai đoạn từ 2000 đến 2014
3.2 Khuynh hướng sử dụng đất của người dân
Kết quả phân tích ảnh vệ tinh các năm 1996, 2005 và 2010, chỉ tập trung vào phân tích
những diện tích sử dụng đất của người dân, kết hợp với kết quả ở bảng 1 và bảng 2 ta cho ra
được kết quả quá trình phát triển sử dụng đất của người dân được trình bày ở bảng 3.
Bảng 3. Diện tích các lớp sử dụng đất các năm 1989, 1996, 2000, 2005, 2010, 2014
Đơn vị tính: ha
Các lớp phân loại 1989 1996 2000 2005 2010 2014
Đất trồng lúa nước 2.771 3.776 3.261 3.416 3.213 2.889
Đất trồng màu 7.326 9.986 11.328 15.009 15.596 15.499
Đất nương rẫy 9.770 7.348 6.701 8.056 6.629 5.899
Sông suối 1.486 1.570 1.486 1.462 1.870 2.206
Đất thổ cư 1.307 4.220 5.442 7.193 7.684 8.115
Rừng trồng - 2.038 7.336 12.659 20.175 22.093
Rõ ràng, loại hình sử dụng đất là rừng trồng có sự chuyển biến từ không thành có ở địa
bàn nghiên cứu. Số liệu phân tích đa thời gian cũng chỉ được diện tích rừng trồng vào năm 2014
chiếm tỉ trọng lớn nhất so với các loại hình sử dụng đất khác (22.000 ha). Vì vậy sự chuyển dịch
đáng kể là sự chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ các loại hình sử dụng đất khác sang đất rừng
trồng. Đặc biệt, trong giai đoạn từ 2000 đến 2010, diện tích rừng trồng có sự phát triển, mở rộng
122
- Hồ Đắc Thái Hoàng và CS. Tập 120, Số 6, 2016
diện tích trồng rất lớn. Từ 2000 đến 2005, diện tích mở rộng hơn 5.300 ha, trung bình hơn 1.000
ha/năm; từ 2005 đến 2010, diện tích rừng trồng mở rộng hơn 7.500 ha, trung bình hơn 1.500
ha/năm.
Kết quả cũng chỉ rõ từ 2000 đến 2014, diện tích đất trồng màu đã có sự mở rộng rất lớn, từ
11.328 ha năm 2000, thì đến năm 2005 đã mở rộng ra thêm hơn 3.600 ha, thành 15.009 ha. Sau đó,
diện tích mở rộng giảm dần, đến năm 2010 mở rộng thêm khoảng 500 ha và đến năm 2014 thì
diện tích đất trồng màu còn lại 15.499 ha, giảm 100 ha so với năm 2010.
Diện tích đất nương rẫy có chiều hướng giảm trong giai đoạn từ 1989 đến 2000, diện tích
đất nương rẫy lần lượt là 9.770 ha năm 1989, 7.348 ha năm 1996 và 6.701 ha năm 2000. Tuy nhiên,
từ năm 2000 đến năm 2005 lại có xu hướng tăng lên, diện tích đất canh tác nương rẫy năm 2005
là 8.056 ha, tăng hơn 1.300 ha. Tuy nhiên, trong giai đoạn từ 2005 đến 2014 thì diện tích đất trồng
màu có xu hướng giảm trở lại. Đến năm 2010 diện tích đất canh tác nương rẫy là 6.629 ha, giảm
hơn 1.400 ha. Năm 2014 diện tích còn 5.899 ha, giảm hơn 700 ha.
Tuy nhiên, trong quá trình điều tra thì chúng tôi phát hiện có sự khác biệt về cách thức sử
dụng đất của người dân tại 3 huyện A Lưới, Dakrông, Hướng Hóa. Sự khác biệt này là tỷ lệ từng
loại sử dụng đất đối với mỗi hộ gia đình, gồm 3 loại là: đất thổ cư, đất trồng màu và đất lâm
nghiệp.
Bảng 4. Diện tích trung bình của từng loại sử dụng đất của mỗi huyện
Đất ở Đất nông nghiệp
Đất lâm
Huyện Nông nghiệp Ghi chú
Nhà Vườn hộ Lúa nước Nương
trồng (ha)
(m2) (m2) (ha) rẫy (ha)
màu (ha)
A Lưới 50 - 100 450 - 900 0,1 – 0,15 0,1 1 1-2 -
50 % số hộ phỏng vấn
Dakrông 30 - 70 70 - 230 - 0,6 - 2 - 1
có đất lâm nghiệp
Hướng 20 % số hộ phỏng vấn
30 - 70 70 -230 0,1 – 0,2 - 0,3 – 1 0,2 - 1
Hóa có đất lâm nghiệp
Nguồn: Số liệu phỏng vấn năm 2014; Niên giám thống kê huyện A Lưới năm 2011; Niên giám thống kê
tỉnh Quảng Trị năm 2013.
3.3 Khuynh hướng sử dụng đất cấp hộ của cư dân huyện A lưới
Với lợi thế tiếp cận dễ dàng với hệ thống giao thông đường Hồ Chí Minh và các tuyến tỉnh
lộ nối với đồng bằng, cư dân vùng A Lưới định hướng sử dụng đất theo hướng chuyển đổi mục
đích sử dụng đất từ canh tác nương rẫy, thu nhập dựa vào rừng tự nhiên chuyển sang hệ thống
canh tác lâu dài theo nhu cầu thị trường. Trung bình, mỗi hộ gia đình cư dân huyện A Lưới có
123
- Hồ Đắc Thái Hoàng và CS. Tập 120, Số 6, 2016
tổng diện tích đất thổ cư từ 500 m2 đến 1000 m2, trong đó diện tích nhà ở chiếm khoảng từ 50 m2
đến 100 m2, diện tích còn lại là vườn hộ gia đình, làm chuồng trại nuôi gà, vịt, heo, bò… và trồng
các loại cây nông sản như bắp, mía, mít… sản phẩm chủ yếu là sử dụng trong gia đình. Diện tích
đất lúa nước được khai hoang dọc khe suối với diện tích không đồng đều nhưng bình quân từ
0,1 ha/hộ đến 0,15 ha/hộ. Nguồn thu truyền thống từ nương rẫy đang thu hoạch 0,1 ha cho các
loại nông sản địa phương tiêu dùng trong gia đình. Bình quân, mỗi hộ gia đình được cấp hoặc tự
khai hoang được khoảng 1 ha đất phát triển rừng trồng keo. Tác động thị trường cao su từ đồng
bằng và trung du đã ảnh hưởng đến cư dân miền núi A Lưới, kết quả điều tra và thống kê cho
thấy mỗi hộ gia đình sở hữu thêm 1 ha đất cao su từ năm 2008.
20.000
Đất trồng lúa nước
15.000
Đơn vị (ha)
Đất trồng màu
10.000
Đất nương rẫy
5.000
Sông suối
- Đất dân cư
1989 1996 2000 2005 2010 2014
Rừng trồng
Năm
Biểu đồ 2. Diễn biến thay đổi sử dụng đất của người dân huyện A Lưới
từ năm 1989 đến năm 2014
Kết quả điều tra khuynh hướng và chiến lược sử dụng đất cấp hộ cho thấy 37 % tổng số
hộ điều tra có nhu cầu mở rộng diện tích rừng trồng keo đất trồng màu; 43 % số hộ giữa nguyên
hình thức canh tác do đang sở hữu từ 1 ha đến 2 ha rừng trồng keo; 10 % số hộ muốn chuyển qua
trồng cây cao su; 10 % số hộ còn lại canh tác cây nông nghiệp ngắn ngày như sắn. Kết hợp kết
quả phỏng vấn với kết quả phân tích như biểu đồ 2, cho thấy khuynh hướng tập trung đầu tư
phát triển về lâm nghiệp và cây dài ngày của người dân huyện A Lưới. Trong đó, có 2 nguyên
nhân cho sự thay đổi này là kết quả thực hiện của Chương trình Giao đất giao rừng (Phúc &
Nghị, 2014)và sự hình thành thị trường thu mua gỗ keo (UBND huyện A Lưới, 2010). Hai nguyên
nhân này có tác dụng tương trợ lẫn nhau, thúc đẩy nhu cầu trồng rừng của người dân tại huyện
A Lưới.
3.4 Khuynh hướng sử dụng đất cấp hộ của cư dân huyện Dakrông
Cư dân huyện Dakrông có tổng diện tích đất thổ cư bình quân từ 100 m2 đến 300 m2, trong
đó diện tích nhà ở chiếm từ 30 m2 đến 70 m2, một số hộ vẫn giữ lại kiểu nhà sàn truyền thống và
tận dụng phần dưới sàn để làm chuồng trại nuôi lợn, gà, vịt… phần đất còn lại được sử dụng làm
vườn hộ trồng sắn, ngô, rau hay trồng một số loại cây ăn quả như mít, cam. Loại hình đất canh
tác nương rẫy chiếm tỉ trọng lớn về diện tích, đất làm lúa nước được mở rộng trong thời gian gần
124
- Hồ Đắc Thái Hoàng và CS. Tập 120, Số 6, 2016
đây dọc khe suối chiếm diện tích rất nhỏ. Trung bình, mỗi hộ gia đình có từ 6 đến 10 mảnh rẫy,
mỗi miếng rộng từ 0,1 ha đến 1 ha rải rác trong rừng tự nhiên. Giữ nguyên truyền thống, cư dân
Dakrông không thay đổi nhiều về tập quán canh tác nương rẫy với cơ cấu cây trồng luân canh và
xen canh giữa bắp, lúa rẫy, sắn và bỏ hóa. Thời gian bỏ hóa từ 3 năm đến 5 năm.
6.000
5.000 Đất trồng lúa nước
Đơn vị (ha)
4.000 Đất trồng màu
3.000
Đất nương rẫy
2.000
1.000 Sông suối
-
Đất dân cư
1989 1996 2000 2005 2010 2014
Rừng trồng
Năm
Biểu đồ 3. Diễn biến thay đổi sử dụng đất của người dân huyện Dakrông
từ năm 1989 đến năm 2014
Chính sách trồng và giao rừng chuyển đổi từ đất nương rẫy mang lại cho mỗi hộ gia đình
1 ha rừng trồng với 2 loài cây chủ yếu là bời lời và keo. Do đặc điểm địa lý, cây keo không có đầu
ra và không có nhu cầu sử dụng tại địa phương nên bời lời là lựa chọn ưu thế cho rừng trồng.
Mặc dù vậy, chỉ có 50 % tổng số hộ điều tra giữ lại rừng trồng, phần còn lại chuyển mục đích
rừng trồng sang đất trồng màu hoặc nương rẫy. Đặc biệt 13 % số hộ điều tra có nhu cầu phát triển
cây cao su theo chính sách phát triển cao su tiểu điền của địa phương. Kết hợp với số liệu điều
tra được và kết quả phân tích ở biểu đồ 3 cho thấy người dân huyện Hướng Hóa vẫn có khuynh
hướng phát triển nông nghiệp tự phát ít có sự chuyển đổi và ít có tác động từ hệ thống đường
mới do vị trí địa lý. Đường Hồ Chí Minh chỉ đi ngang qua huyện Dakrông, nhưng không có
đường nối đông tây để rút ngắn khoảng cách thị trường đồng bằng với miền núi. Hình thức và
tập tục canh tác nương rẫy, du canh vẫn chiếm ưu thế.
3.5 Khuynh hướng sử dụng đất cấp hộ của cư dân huyện Hướng Hóa
Tổng diện tích đất thổ cư bình quân hộ huyện Hướng Hóa từ 100 m2 đến 300 m2, trong đó
diện tích nhà ở từ 70 m2 đến 100 m2, diện tích còn lại dùng để trồng các loại hoa màu sử dụng
trong gia đình. Đất trồng lúa nước ít hơn ở Dakrông và A Lưới biến động hẹp từ 0,1 ha đến
0,2 ha. Tuy nhiên, người dân sống ven đường Hồ Chí Minh huyện Hướng Hóa có diện tích đất
trồng cây công nghiệp cà phê bình quân hộ là 0,3 ha và 0,2 ha đến 1 ha rừng trẩu. Cũng như
Dakrông, mặc dù Hướng Hóa trải dài trên toàn tuyến đường Hồ Chí Minh và đường 9 nhưng
khoảng cách khá xa đến cảng biển nên sản phầm rừng trồng keo không phải là ưu tiên mà thay
vào đó 20 % số hộ gia đình phát triển cây trẩu lấy dầu trên diện tích rừng trồng. Tác động thị
trường với khuynh hướng sử dụng đất chỉ tạo 14 % người được phỏng vấn mong đợi phát triển
125
- Hồ Đắc Thái Hoàng và CS. Tập 120, Số 6, 2016
rừng trồng với 2 loại cây là keo và bời lời; 10 % lựa chọn dùng đất cho canh tác sắn. Đặc biệt,
77 % số hộ được phỏng vấn lựa chọn giữ nguyên hình thức canh tác, tập trung phát triển cây
công nghiệp dài ngày là cà phê.
8.000
Đất trồng lúa nước
6.000
Đơn vị (ha)
Đất trồng màu
4.000
Đất nương rẫy
2.000
Sông suối
-
Đất dân cư
1989 1996 2000 2005 2010 2014
Rừng trồng
Năm
Biểu đồ 4. Diễn biến thay đổi sử dụng đất của người dân huyện Hướng Hóa
từ năm 1989 đến năm 2014
3.6 Thảo luận và kết luận
Con đường mới không tạo nên sự thay đổi về tài nguyên cũng như sự thay đổi về cách
thức sử dụng đất của người dân, nhưng con đường là tác nhân tham gia thúc đẩy sự thay đổi
này, thông qua chức năng vận chuyển của nó, giúp cho con người có điều kiện dễ dàng hơn tiếp
cận với tài nguyên rừng và tạo thị trường. Tác động của tuyến đường đối với tài nguyên thiên
nhiên và đời sống người dân có vẻ mơ hồ và không rõ ràng, nhưng nếu tập trung phân tích 3 tác
động chính, thì có thể thấy rất rõ ảnh hưởng của tuyển đường đó là:
- Tăng khả năng tiếp cận tài nguyên thiên nhiên
- Vai trò trung chuyển và thành lập thị trường
- Tăng khả năng tiếp cận và thực hiện của người dân với các chính sách hỗ trợ sản xuất của
Nhà nước
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tổng diện tích đất rừng có sự suy giảm và tốc độ tác động
vào rừng tự nhiên, đặc biệt là rừng giàu, nhanh gấp 2 lần so với thời gian trước khi cải tạo hệ
thống giao thông. Những diện tích rừng tự nhiên dọc theo hai bên tuyến đường là những diện
tích thường xuyên bị tác động nhất và cũng phần lớn đất rừng trồng là được chuyển hóa từ đất
rừng tự nhiên dọc theo hai bên tuyến đường. Điều này cho thấy, đường Hồ Chí Minh có ảnh
hưởng rất lớn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên thiên nhiên rừng tại khu vực nghiên
cứu. Kết luận này hoàn toàn phù hợp với nghiên cứu trước đó của Trần Văn Ý và cộng sự (2010)
khi nghiên cứu về ảnh hưởng của tuyến đường Hồ Chí Minh tới kinh tế, xã hội và môi trường
của các huyện dọc theo hai bên tuyến đường. Trong nghiên cứu về ảnh hưởng của tuyến đường
126
- Hồ Đắc Thái Hoàng và CS. Tập 120, Số 6, 2016
Hồ Chí Minh đối với thảm thực vật của 3 tỉnh Bình Trị Thiên trong giai đoạn từ 1997 đến 2007
của Đỗ Hữu Thư và cộng sự (2009) cũng có chung nhận định là diện tích đất rừng giàu và trung
bình tại khu vực này bị tác động trở thành rừng nghèo và một phần không nhỏ diện tích rừng tự
nhiên bị chuyển sang đất trồng màu và đất thổ cư. Vũ Anh Tuân (2008) cũng có nhận định tương
tự là tuyến đường Hồ Chí Minh sẽ gây ra những ảnh hưởng chia cắt hệ sinh thái thực vật, đặc
biệt là những diện tích rừng gần khu dân cư sẽ bị tác động nhiều hơn những khu vực khác.
Giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2014, các loại hình sử dụng đất cũng có chuyển biến lớn
so với thời gian trước đó. Diện tích đất nông nghiệp liên tục mở rộng. Đến năm 2014, diện tích
rừng trồng đã gấp 3 lần diện tích năm 2000. Diện tích đất thổ cư mở rộng và có xu hướng phát
triển dọc theo hai bên tuyến đường. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, những diện tích canh
tác càng gần đường thì mức độ thay đổi càng nhiều. Nguyên nhân mở rộng của đất nông nghiệp
và đất thổ cư do hiện tượng tăng dân số, không chỉ là sự gia tăng tự nhiên của cộng đồng dân cư
khu vực này, mà còn sự gia tăng dân số do các luồng di dân từ các vùng khác đến. Bởi lẽ hệ thống
đường Hồ Chí Minh đã mở ra khả năng phát triển cho khu vực này, được nối thông với các cửa
khẩu quốc tế với Lào và Campuchia, trở thành động lực phát triển kinh tế cho khu vực. Bên cạnh
đó, hệ thống giao thông tốt đã kết nối được hành lang này với thành thị, hàng hóa lưu thông dễ
dàng hơn, tạo thành thị trường mua bán tại khu vực này. Trong khi đó, diện tích đất tại khu vực
này lại còn rất nhiều, dân cư chỉ tập trung tại một số khu vực nhất định. Đây là các nguyên nhân
thu hút một lượng dân cư từ các vùng khác đến lập nghiệp. Sự mở rộng của các khu dân cư chính,
gồm cả gia tăng tự nhiên và di dân, là lý do giải thích sự mở rộng của đất thổ cư và đất nông
nghiệp tăng nhiều hơn so với giai đoạn trước. Đồng thời, giao thông thuận lợi hơn đã kích thích
những thương nhân từ vùng thành thị tiếp cận với khu vực này để thu gom các loại nông lâm
sản. Sản phẩm nông lâm nghiệp có giá hơn so với trước đây do chi phí vận chuyển đã được giảm
đi, đã thúc đẩy người dân mở rộng sản xuất nông nghiệp đối với các khu vực như Hướng Hóa,
Dakrông và mở rộng diện tích trồng rừng đối với khu vực A Lưới.
Bên cạnh hệ thống các chính sách của nhà nước cũng đóng vai trò lớn ảnh hưởng đến cách
thức sử dụng đất của người dân. Hệ thống giao thông, ở đây là đường Hồ Chí Minh, đóng vai
trò hỗ trợ và thúc đẩy người dân có thể tiếp cận được với các nguồn vốn chính sách, những hỗ
trợ về sản xuất trừ trong và ngoài nước. Thị trường tạo ra nhu cầu về sản phẩm nông sản, thì các
chính sách lại đóng vai trò hỗ trợ về mặt đất đai và vốn để đầu tư vào sản xuất. Các chương trình
quốc gia như chương trình xóa đói giảm nghèo theo Quyết định 135/1998, chương trình hỗ trợ
đất sản xuất theo Quyết định 134/2004, giảm nghèo nhanh và bền vững theo Nghị quyết
30A/2008… Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng đã ghi nhận thêm sự hỗ trợ từ các chương
trình hợp tác phát triển quốc tế như JICA, PAM, WB là các nguồn cung cấp vốn, cây, con giống
cho người dân khu vực nghiên cứu. Trong những sự hỗ trợ sản xuất này, có những chương trình
đã hỗ trợ từ trước khi tuyến đường Hồ Chí Minh được tái xây dựng, nhưng hiệu quả đem lại
127
- Hồ Đắc Thái Hoàng và CS. Tập 120, Số 6, 2016
không cao, vì người dân không tìm được đầu ra cho sản phẩm. Ngoài ra, các chương trình còn
hỗ trợ thông qua đầu tư hoàn thiện hệ thống giao thông cũng như mạng lưới điện được kéo về
vùng sâu vùng xa, đã giúp người dân tiếp cận được với nhiều nguồn thông tin từ thị trường cũng
như các nguồn thông tin về chính sách và dự án. Đời sống của người dân từng bước có những sự
chuyển biến rõ rệt. Kết quả điều tra cho thấy, có hơn 90 % số người tham gia phỏng vấn nhận
thấy sự thay đổi về cuộc sống trước và sau khi tuyến đường được tái xây dựng.
Vị trí địa lý của các tiểu vùng trên địa bàn nghiên cứu cũng có tác động nhiều đến khuynh
hướng sử dụng đất cấp hộ của cư dân địa phương. Cư dân vùng A Lưới có lợi thế quốc lộ 49 nối
liền hệ thống cảng biển và đồng bằng ở tỉnh Thừa Thiên Huế đã tạo khuynh hướng sử dụng đất
của cư dân vùng này phát triển các sản phẩm rừng trồng có thị trường tiêu thụ như rừng keo cho
gỗ dăm, cao su…, nhưng cư dân vùng Dakrông do ở vị trí địa lý xa thị trường tiêu thụ nên diện
tích rừng trồng mặc dù được giao và khuyến khích sử dụng nhưng chỉ có 50 % sử dụng để phát
triển rừng trồng, đặc biệt, cây bời lời, loài cây trồng bản địa được ưu tiên phát triển thay vì cây
keo như ở phần lớn các nơi khác vì bời lời có thể tiêu thụ dễ dàng và thị trường phù hợp hơn với
địa bàn huyện Dakrông. Không như A Lưới, Dakrông, cư dân huyện Hướng Hóa tận dụng tiềm
năng địa phương là đất đỏ basal phù hợp với phát triển các loài cây công nghiệp đặc biệt là cà
phê. Vì vậy, khuynh hướng sử dụng đất của cư dân vùng Hướng Hóa có nhiều lựa chọn hơn đối
với nông hộ khi họ quyết định chọn mở rộng diện tích canh tác cà phê bên cạnh phát triển loài
cây Trẩu trồng rừng bên cạnh lựa chọn bời lời và keo cho diện tích rừng trồng được giao của họ.
Nghiên cứu đã chỉ ra được diễn biến của nguồn tài nguyên rừng và những sự thay đổi
cũng như khuynh hướng sản xuất nông lâm nghiệp của người dân sống dọc theo tuyến đường
Hồ Chí Minh trước và sau khi tuyến đường được nâng cấp. Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn còn bị bó
hẹp về thời gian nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu mới chỉ là tài nguyên rừng, các loại hình
sử dụng đất của người nông dân. Cần tiếp tục theo dõi và nghiên cứu thêm về các đối tượng khác
như động vật, thực vật… cũng như cần phân tích thêm các yếu tố kinh tế gắn liền với từng hộ
gia đình như việc làm, giá trị nông lâm sản… trước và sau lúc xây lại tuyến đường.
128
- Hồ Đắc Thái Hoàng và CS. Tập 120, Số 6, 2016
Tài liệu tham khảo
1. Phan Thị Mai Hoa (2010). Đánh giá tác động môi trường của tuyến đường Hồ Chí Minh đoạn ngang qua vườn
quốc gia Cúc Phương. Luận văn thạc sỹ, Khoa Môi trường, Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia
Hà Nội.
2. Đồng Sỹ Nguyên, Duy Tường, Kỳ Vân (1999), Truong Son road (Đường xuyên Trường Sơn). People military
publishing house (Nhà xuất bản Quân đội nhân dân).
3. Tô Xuân Phúc, Trần Hữu Nghị (2014), Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ cấu ngành Lâm nghiệp:
Cơ hội và thách thức.
4. Đỗ Hữu Thư, Đặng Thị Thu Hương, Lê Đồng Tấn (2009), Ảnh hưởng của tuyến đường Hồ Chí Minh đoạn
đi qua các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế đến thảm thực vật trong rừng. In Hội nghị Khoa học
toàn quốc về sinh thái và Tài nguyên sinh vật lần thứ 3, Vol. 3, Tr. 1694 - 1697.
5. Vũ Anh Tuấn (2008), Phân tích không gian tác động môi trường của đường Hồ Chí Minh bằng phương
pháp viễn thám và GIS. Tạp Chí Giao Thông Vận Tải, Tr. 23 - 25.
6. Trần Văn Ý, Lại Vĩnh Cẩm, Trần Thùy Chi, Nguyễn Thế Chinh, Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Hữu Thư (2010),
Phân loại mức độ ảnh hưởng của tuyến đường Hồ Chí Minh tới kinh tế, xã hội và môi trường của các huyện dọc
hành lang. In Hội nghị Khoa học kỷ niệm 35 năm Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Hà nội,
Tr. 279 – 285.
7. Trần Văn Ý, Nguyễn Viết Thịnh, Nguyễn Thế Chinh, Ngô Đăng Trí, Nguyễn Xuân Hậu, Trần Thùy Chi
(2010), Nghiên cứu định lượng hóa ảnh hưởng của tuyến đường Hồ Chí Minh đến phát triển
kinh tế - xã hội các huyện có tuyến đường đi qua. Tạp Chí Các Khoa Học về Trái Đất, 32(3), Tr. 231–238.
8. Chi cục thống kê huyện A Lưới, (2012), Niên giám thống kê huyện A Lưới năm 2011. Nxb Thống kê.
9. Cục thống kê tỉnh Quảng Trị, (2014), Niên giám thống kê tỉnh Quảng Trị năm 2013. Nxb. Thống kê.
10. Uỷ ban nhân dân Huyện A Lưới, (2010), Báo cáo tổng hợp Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
huyện A Lưới đến năm 2020.
11. Harold Jeffreys (1946), An invariant form for the prior probability in estimation problems, Proceedings
of the Royal Society of London. Series A: Mathematical and Physical Sciences, 186(1007), pp. 453 - 461.
12. Richards, John A., Xiuping Jia (2006), Remote sensing digital image analysis. Springer (4th ed).
13. Schowengerdt, Robert A. (2006), Remote sensing: models and methods for image processing. (R. A.
Schowengerdt, Ed.)Vasa (Third). Elsevier Inc.
129
- Hồ Đắc Thái Hoàng và CS. Tập 120, Số 6, 2016
THE CHANGE OF FOREST COVER AND LAND USE TREND
OF LOCAL ETHNIC MINORITIES PEOPLE IN THE CENTRAL
TRUONG SON RANGE UNDER THE INTERFERENCE
OF HO CHI MINH ROADS
Ho Dac Thai Hoang1,*, Tran Khuong Duy1, Nguyen Thi Phuong Thao2
1 Institute of Resources and Environment, Hue University
2 College of Agriculture and Forestry, Hue University
Abstract: Ho Chi Minh roads (Truong Son trail) are considered as one of the important roads in the economic
development strategy as well as the military security of Viet Nam. Reconstructed in 2000, Ho Chi Minh
roads play an important role in promoting the economic development of the western corridor of the country
and also indirectly cause the changes of land use strategy at the household level. The local ethnic minority
people have had significant changes regarding the land use custom from traditional slash-and-burn to
intensive cultivation. The market needs and advantage of the traffic system indirectly have caused the
decline of the forest cover as well as the quality of forest resources. The land use trend exhibited noticeable
changes depending on the geographical locations. The overall land for settlement and plantation has rapidly
increased resulting in the decrease of the natural forest cover.
Keywords: Ho Chi Minh roads, land use
130
View publication stats
nguon tai.lieu . vn