Xem mẫu
- Ngàn Đại Vạc
Ngàn Đại Vạc nằm trên địa phận huyện tôi, tức là huyện Diễn Châu, đồng thời
cũng thuộc địa phận của các huyện Đô Lương, Yên Thành, Nghi Lộc. Càng xuôi
về đồng bằng núi càng dựng thành tạo ranh giới tự nhiên giữa hai huyện Diễn
Châu và Nghi Lộc.
Sừng sững dãy Trường Sơn khi vào miền Trung thường có những nhánh
núi chỉa ra và đâm thẳng tới biển Đông: Hoàng Mai, Đại Vạc, đèo Ngang, Hải Vân,
đèo Cả,...
Ngàn Đại Vạc nằm trên địa phận huyện tôi, tức là huyện Diễn Châu, đồng
thời cũng thuộc địa phận của các huyện Đô Lương, Yên Thành, Nghi Lộc. Càng
xuôi về đồng bằng núi càng dựng thành tạo ranh giới tự nhiên giữa hai huyện Diễn
Châu và Nghi Lộc.
Thuở nhỏ, chúng tôi thường rủ bạn chăn trâu ngắm lên ngàn Đại Vạc xanh
thẳm và huyền bí. Trong dãy Đại Vạc, có một ngọn núi cao vút, đứng từ đồng
bằng nhìn lên, bao giờ chúng tôi cũng thấy trên đỉnh có tòa cổ thụ tạo hình một cái
mâm đặt lễ vật thờ cúng. Bà con quê tôi gọi là “Động Thờ”. Qua bốn mùa mưa
nắng, Động Thờ biến hóa trăm hình nghìn dạng và lung linh màu sắc. Đẹp nhất là
những chiều mùa hạ, sau cơn mưa, bầu trời được rửa sạch, trong xanh, có chiếc
cầu vồng bắc từ Động Thờ sang núi Hai Vai. Mây bay lượn, chúng tôi tưởng
tượng đó là đoàn tiên nữ đang dắt tay nhau qua cầu vồng. Trời đổ mưa cho đoàn
tiên nữ tắm, rồi bắc cầu vồng cho đoàn tiên nữ đi dạo chơi.
Gái trai quê tôi thường đi lấy củi ở Động Thờ. Các anh chị kể rằng: Đã lên
đến đó thể nào cũng vào thắp hương ở ngôi đền. Trong ngôi đền cổ kính, có một
tảng đá to tạc hình hạt thóc. Ai đã vào đền cũng giơ tay sờ “hạt thóc” thì mới yên
tâm ra về. Từ thế hệ này qua thế hệ khác, nhiều người sờ vuốt đến nỗi tảng đá lì
nhẵn.
- Ông tôi bảo: Đỉnh Động Thờ là thờ thần Cao Sơn đại vương. Nhưng thờ
thần Cao Sơn đại vương sao lại có tảng đá tạc hình hạt thóc? Điều này xin nhường
lời lý giải cho các nhà sử học và dân tộc học. Tôi chỉ biết rằng đỉnh Động Thờ rất
thiêng. Khi tuổi đã trở về già, không đi hái củi được nữa, ông thường đứng giữa
sân, hướng về Động Thờ, nghiêm trang chắp hai tay vái lạy Thần. Rồi ông lại
quay về hướng Đông vái lạy đền Cuông thờ đức vua Thục An Dương Vương. Thì
ra trên dãy ngàn Đại Vạc có hai ngôi đền rất thiêng: đền thờ thần Cao Sơn ở phía
Tây và đền thờ vua Thục An Dương Vương ở phía Đông. Lịch sử đã trở thành
huyền thoại. Huyền thoại đã trở thành lịch sử. Về mặt tâm linh, lịch sử và huyền
thoại đã tạo cho ngàn Đại Vạc một màu sắc thần bí chở che cho con người hàng
ngàn năm nay.
* *
*
Ngàn Đại Vạc không những là kho báu vô tận về tâm linh, mà còn là kho
báu vô tận trong đời sống vật chất hàng ngày. Thời gian đi qua, thiên nhiên biến
động, nhưng vẫn còn lưu lại những tên làng tên xóm mang dấu ấn của một thời
hồng hoang. Làng Kẻ Trầm, nơi tìm được rễ cây trầm. Làng Kẻ Nành nơi có nhiều
cây nành. Làng Kẻ Mưng, nơi có bạt ngàn cây mưng (cây lộc vừng). Làng Kẻ Lấu,
nơi có rừng lấu. Và còn bao nhiêu địa danh khác như: Trang Nu (nâu), Khe Gát
(cát), Kẻ Lèn (núi đá),... Mặc dầu đến đời Nguyễn, những tên gọi nôm na này đã
đổi thành chữ Hán để ghi địa bạ, nhưng nhiều người già cả vẫn gọi theo tên cũ. Và
những câu chuyện cũ đau lòng, thỉnh thoảng người ta vẫn kể cho con cháu nghe.
Chẳng hạn, làng Kẻ Mưng (nay gọi là Xuân Viên) vẫn còn cánh đồng mưng. Nghe
đồn rằng xưa kia, đây là cánh rừng toàn cây mưng (cây lộc vừng). Có những năm
đói kém, cây mưng nào cũng bâu đen người đi hái lộc để ăn trừ bữa. Vì thế có câu
ca nói về thảm cảnh của người đi hái lộc: “Ba bà đi hái lộc mưng/Trèo lên ngã
xuống đấm lương đau l...!”.
- Vốn từ thuở hoang sơ, nơi đây là đất định cư của người dân tộc Thanh. Bản
làng, đồng ruộng của họ còn để lại dấu vết những quả đồi tạo ruộng bậc thang. Cái
hơi ấm của một thời xa vắng ấy truyền qua bao nhiêu thế hệ, khối óc và bàn tay
con người ngày càng tinh vi. Những kho báu dường như vô tận ấy còn truyền mãi
đến hôm nay. Con người vẫn tiếp tục khai thác có hiệu quả...
Ở gần đầu dãy Đại Vạc, có một vùng đất cấu tạo gần như là một thung lũng
rộng hàng mấy chục ha, dưới mặt đất sâu chưa đầy một mét, mênh mông đất sét
trắng, là chất liệu quý để làm đồ gốm. Người ta đào xuống từng lỗ như đào giếng,
sâu chừng hai mét là lấy được đất sét trắng có đường vân vàng. Đất này được
chuyển về, nặn thành nồi niêu và các dụng cụ sinh hoạt hàng ngày. Dân Trù Sơn
bảo rằng: Đây là cái kho vô tận trời cho, lấy hết lớp đất sét này thì lớp đất sét khác
lại đùn ra,... Năm này qua năm khác, ngày nào cũng vậy, cứ sáng tinh mơ, bát ngát
làng xóm bốc lên những đụn khói từ các lò thủ công, đồng thời râm ran, thậm
thịch tiếng giã đất làm gốm nghe thật vui tai...
Ở gần cuối dãy Đại Vạc, có vùng đồi giáp với huyện Nghi Lộc, người ta
quen gọi là Động Quánh. Có thể nơi đây là mỏ quặng sắt, dân xã Nho Lâm thường
xuyên khai thác để làm đồ sắt như: cày bừa và các dụng cụ sinh hoạt hàng ngày.
Nông thôn náo động bởi tiếng “hát reo” của phường thợ đi lấy quặng và những
người thợ ngày đêm hồng hào bên lò rèn thở lửa...
Cũng từ ngàn Đại Vạc mà hình thành những ngày hội đi lấy củi, hái cỏ.
Đồng nội thiếu chất đất và thiếu cỏ cho trâu bò ăn trong những ngày đông tháng
giá. Nhất là vào những dịp áp tết Nguyên Đán, rét căm căm, nhưng gà gáy canh
bốn, từ làng này đến làng kia, trai gái gọi nhau đi như trẩy hội. Tiếng hát, tiếng tù
và vang lên khắp mọi làng xóm đến miền đại ngàn. Phải có củi giữ trữ đun nấu.
Phải có cỏ non cho trâu bò ăn trong mấy ngày tết nghỉ ngơi. Người rủ nhau nườm
nượp đi lấy củi, hái cỏ, người ta thường gọi là đi “củi tết”, “đi cỏ tết”. Trong lao
động vất vả, điệu hát ví vang vọng khắp các quả đồi từ sáng đến trưa, rồi tiếng hát
lại vang lên từ đồi núi về tận các làng quê từ trưa đến tận chiều tối,...
- * *
*
Ngàn Đại Vạc luôn luôn sôi động bởi hơi ấm của con người. Dọc chiều dài
lịch sử của quê hương và của dân tộc, Đại Vạc trở thành nơi nương tựa của những
cuộc vùng dậy chống áp bức và bất công. Trại Nội là địa điểm quen thuộc của
những người ly hương. Trại Nội, nơi tụ họp của dân tứ chiêng với “trai trốn thuế,
gái lộn chồng”. Họ chịu đựng vô vàn gian khổ để sống một cuộc đời hoàn toàn tự
do giữa rừng hoang nước lạ, chẳng thà chịu khổ chứ không chịu nhục. Hẳn họ đã
từng sẵn sàng gia nhập nghĩa quân trong những cuộc khởi nghĩa nông dân thời
phong kiến.
Tương truyền rằng: Trước khi Quang Trung hành quân ra Bắc đại phá quân
Thanh, có dừng lại chùa Đại Huệ. Sư bà ở chùa có nói: Nên hành quân theo đường
thượng đạo, nếu hành quân theo đường thiên lý dễ bị phục kích. Chắc hẳn những
người nông dân bất hạnh ở Trại Nội đã xung vào nghĩa quân. Quang Trung đã cho
đại quân hành quân qua ngàn Đại Vạc. Dấu vết hãy còn đó, những tảng đá to bắc
lên núi. Người ta gọi đó là Động Trèo.
Thời kỳ cách mạng dân chủ 1936 - 1939, một số Chi bộ Đảng cộng sản ở
đồng bằng cử người lên mở trại cày ở Xuân Sơn (thuộc ngàn Đại Vạc) để tập hợp
lực lượng và làm địa điểm liên lạc của Đảng. Trại cày Xuân Sơn đã trở thành niềm
hy vọng vực dậy phong trào sau Cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Gái trai lại mở hội
đi củi, đi cỏ từ Trại Nội sang trại cày Xuân Sơn: “Bữa rày bứt cỏ Xuân Sơn/Ba
thương bốn nhớ ta thương trại cày”. Trong hương sử thôn Hậu Luật còn ghi lại địa
chỉ Xuân Sơn như một điểm sáng của phong trào hồi ấy.
Trùng trùng điệp điệp dãy Đại Vạc như trùng trùng điệp điệp lịch sử. Ngọn
đồi nào cũng in dấu chân của thời gian. Sông núi bỗng nhiên có hồn bởi sự gian
truân của con người và sự gánh vác của lịch sử.
* *
- *
Bà con quê tôi thường hát câu “Bao giờ rú Mụa mang tơi/Bể đông chớp giật
thì trời đổ mưa”. Rú Mụa là rú nào? Ở gần cuối ngàn Đại Vạc, có một ngọn núi
đột ngột vươn cao trước khi choài chân ra biển Đông, dân bản địa thường gọi là rú
Mụa. Trời trong trẻo, rú Mụa màu nâu. Khi trời chuyển mưa, mây đen bám xung
quanh rú, người ta gọi là “rú mang tơi”. Hàng trăm ngọn núi khác cũng vần vũ phủ
đầy mây tạo thành bức tường tự nhiên chắn ngang trời. Lớn lên tôi mới hiểu rú
Mụa và ngàn Đại Vạc là một đài khí tượng thiên nhiên. Núi gắn bó với con người
trong sinh hoạt hàng ngày. Người ta thường trông các ngọn núi cao ở ngàn Đại
Vạc để biết trời sắp mưa hay sắp nắng.
Đêm mùa hè, dưới trăng sáng, ngồi chơi giữa sân, ông nội tôi thường chỉ
hai chấm sáng trên đỉnh núi Động Thờ. Ông bảo: Đó chính là con rết đã nghìn tuổi
do thần Cao Sơn nuôi, hai con mắt rết hóa thành ngọc. Mắt rết đã từng soi sáng
cho Thần và cho những đoàn quân khởi nghĩa hành quân qua Đại Vạc. Đại quân
của Quang Trung cũng được mắt rết soi đường. Sau khi vượt Đại Vạc, xuống đồng
bằng, ông cha ta bắc cầu phao cho nghĩa quân băng qua sông Bùng ở quãng bến
Đò Oan... Thì ra, ngàn Đại Vạc và dòng sông Bùng có quan hệ máu thịt với nhau.
Sông núi yêu thương và hùng vĩ đã từng soi vào tâm hồn bao nhiêu thế hệ, và đã
soi vào tâm hồn tôi từ thuở ấu thơ cho đến bây giờ...
nguon tai.lieu . vn