Xem mẫu
- Lich sử kiên truc Viêt Nam
̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương
MỞ ĐẦU
Đất nước với
4000 năm lịch sử Việt
Nam với diện tích 33
vạn km2 nằm hoàn
toàn trong vòng đai
nhiệt đới từ vĩ độ cao
nhất là 23o22 tới vĩ
độ thấp nhất là 8o30
Bắc. Gió mùa in dấu
ấn sâu sắc vào thiên
nhiên các vùng ven
biển, đồng bằng,
miền núi suốt từ Bắc
tới Nam. Mùa lạnh, mùa nắng, mùa mưa, mùa khô ảnh h ưởng lớn đ ến
chế độ sông ngòi và chế độ sinh trưởng của sinh vật ảnh h ưởng đến n ếp
sống sinh hoạt của các tộc người và hình thành những phong cách ki ến
trúc mang tính địa phương phong phú.
Là vùng đất thuộc vùng châu thổ sông Hồng. Phía bắc giáp tỉnh
Vĩnh Phúc, phía tây giáp tỉnh Hoà Bình, Phú Th ọ, phía đông giáp Hà N ội,
Hưng Yên, phía nam giáp Hà Nam. Địa hình của tỉnh tương đối đa dạng
bao gồm đồi, núi và đồng bằng. Hà Tây có diện tích là 2192 km, với dân
số là 2452500 (theo năm 2002). Hà Tây là vùng đất trú ngụ của một số dân
tộc Việt, Mường, Tày Dao.
Hà Tây với nhiều ngôi
chùa lớn đã đi vào lịch sử với
quá khứ anh hùng của hàng
nghìn năm truyền thống dựng
nước và giữ nước. Qua việc
tìm hiểu kiến trúc tại địa
phương tôi lấy kiến trúc xây
dựng chùa Tây Phương, chùa
Thầy, chùa Hương, chùa Đậu
của quê hương mình làm nền
tảng cho bài viết.
SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH
̃ Trang 1
- Lich sử kiên truc Viêt Nam
̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương
NỘI DUNG
Chùa Tây Phương
I.
Đã từ lâu, Phật Giáo hòa vào trong tín ngưỡng dân gian chi ph ối đ ời
sống của người dân Việt Nam khá sâu sắc. Từ đó có rất nhiều ngôi chùa
nổi tiếng với quy mô hoàng tráng, đồ sộ trên khắp Việt Nam. Nh ưng chùa
Tây Phương không hề to lớn, vậy chùa có gì nổi bật mà được m ệnh danh
la “ Đệ nhất thắng cảnh?”
1. Lịch sử ra đời của ngôi chùa
Một số sách báo viết
về chùa Tây Phương cho
rằng được xây dựng vào
thời nhà Mạc, nhưng
không chứng minh. Niên
đại này có thể tin được, vì
đầu thế kỷ 17 vào những
năm 30 chùa đã phải sửa
chữa lớn, hơn nữa trong
chùa còn hai tấm bia đều
bị mờ hết chữ nhưng còn
đọc được rõ tên bia ở mặt
ngoài là Tín thí và Tây Phương sơn Sùng Phúc tự th ạch bi (m ặt bia kia áp
vào tường hồi toà chùa giữa nên không đọc được), các hoa văn trang trí
thuộc phong cách nghệ thuật cuối thế kỷ 16 sang đầu thế kỷ 17.
Năm 1632, vào đời vua Lê Thần Tông, chùa xây dựng thượng điện 3
gian và hậu cung cùng hành lang 20 gian. Khoảng những năm 1657-1682,
SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH
̃ Trang 2
- Lich sử kiên truc Viêt Nam
̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương
Tây Đô Vương Trịnh Tạc lại cho phá chùa cũ, xây lại chùa m ới và tam
quan. Đến năm 1794 dưới thời nhà Tây Sơn, chùa lại được đại tu hoàn
toàn với tên mới là "Tây Phương Cổ Tự" và hình dáng kiến trúc còn để lại
như ngày nay.
Thông tin trên trang web chính thức của tỉnh Hà Tây thì nói chùa được
thành lập từ thế kỷ 6-7 nhưng đã trải qua nhiều lần trùng tu
Chùa Tây Phương dựng trên đỉnh núi Tây Phương thuộc xóm Tây
Phương của thôn Yên xã Thạch Xá huyện Thạch Thất tỉnh Hà Tây. Nhiều
tư liệu thư tịch và truyền truyền thuyết cho hay núi Tây Phương còn gọi
là núi Câu Lậu. Sách xưa Việt sử thông g iám cương mục và thơ Phan Huy
Ích gọi tên chùa theo tên núi là Chùa Tây Phương.
Cổng chùa và một bức hoành trong
chùa đều ghi rõ Tây Phương Cổ Tự.
Nhưng tất cả bia và chuông hiện còn
đều ghi tên chùa là Sùng Phúc ở trên núi
Tây. Phương. Trong khu vực núi Tây
Phương xưa nay có 3 chùa : Quan Âm ở
chân núi. Thanh Am ở lưng chừng và
Sùng Phúc ở trên đỉnh.
Sách Văn khắc Hán Nôm Việt Nam
(NXB KHXH, năm 1993) trang 230 giới
thiệu tóm tắt 2 văn bản bia chùa Quảng
Phúc và chuông chùa Sùng Phúc ở cùng
một địa phương và cho biết đều là
SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH
̃ Trang 3
- Lich sử kiên truc Viêt Nam
̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương
những tên của chùa Tây Phương. Tấm bia mang tên “Quảng Phúc t ự h ưng
công tu tạo thạch bi” ở tình trạng
“bia vỡ”, “chữ mờ” vì thế có lẽ
chữ Quảng chính là chữ Sùng,
dựng năm 1639.
Trong bài thơ Qua Tây
Phương Sơn tự ( Thăm chùa núi
Tây Phương) làm năm 1788, Phan
Huy ích viết ở câu 3 : “Cát lệnh dư
sa đôi xích nhưỡng” đã tả cảnh
núi: Đan sa còn dư của quan lệnh
họ Cát chất thành đống đất đỏ. Và
ông ghi chú : “Núi Tây Phương xưa
có tên là núi Câu Lậu. Sách sử chép
rằng : Đời Tấn có Cát Hồng thích
việc luyện đan, biết núi Câu Lậu
có đan sa bèn xin làm chức lệnh
Giao Chỉ, tức là vùng đất này” . Đá
núi xám đỏ nay vẫn còn, song
không có dấu tích gì của việc luyện đan ở đây.
Trong sách Sơn Tây địa chí (1939), Phạm Xuân Độ dẫn lời tâu của
Cao Biền với vua Đường ghi trong truyện Kiều Cao V ương: “ Tại c ấp
giữa núi Câu Lậu có huyệt đế vương, thần đã làm chùa để yểm”. Trần
Trọng Kim trong sách Phật lục cũng dẫn truyền thuyết trên, song nghi ngờ
ngay: “ Kể thực ra, thì không có di tích gì làm bằng chứng cả”.
Một số sách báo viết về chùa Tây Phương cho rằng được xây dựng
vào thời Mạc, nhưng không chứng minh. Niên đại này có th ể tin đ ược, vì
đầu thế kỷ XVII vào những năm 30 chùa đã phải sửa chữa lớn, hơn nữa
trong chùa còn hai tấm bia đều bị mờ h ết ch ữ nhưng còn đ ọc đ ược rõ tên
bia ở mặt ngoài là Tín thí và Tây Phương sơn Sùng Phúc t ự th ạch bi (m ặt
bia kia áp vào tường hồi toà chùa giữa nên không đọc được), các hoa văn
trang trí thuộc phong cách nghệ thuật cuối TK XVI sang đầu TK XVlI.
Ngoài sân vườn, cạnh gốc cây sung có tấm bia Tây Phương sơn Sùng
Phúc tự bị mờ gần hết nhưng còn vài dòng in rập cẩn thận có th ể đọc
được những thông tin rất quý: “Đại Việt quốc Sơn Tây trấn Qu ốc Oai
phủ...Ngày 12 tháng 11 năm Nhâm Thân trùng tu chùa Sùng Phúc núi Tây
Phương, dựng Thượng điện 3 gian, Hậu đường và hành lang 22 gian...
Ngày 2 tháng 2 năm Âất Hợi đặt hội an tượng, khai quang điểm nh ỡn...
Nguyên soái tổng quốc chính sư phụ Thanh Vương...” Thanh V ương là
niên hiệu của chúa Trịnh Tráng (1623-1657), như vậy năm Nhâm Thân sửa
SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH
̃ Trang 4
- Lich sử kiên truc Viêt Nam
̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương
chùa là 1632 và năm Âất Hợi an tượng là 1635, phù h ợp với hoa văn trang
trí thuộc phong cách nửa đầu TK XVII
2. Không gian kiến trúc ngôi chùa
Đường lên chùa Tây PhươngTừ chân
núi, qua 239 bậc lát đá ong thì đến đỉnh
núi và cổng chùa.
Chùa Tây Phương gồm ba
nếp nhà song song: bái đường,
chính điện và hậu cung. Mỗi
nếp có hai tầng mái kiểu chồng
diêm, tường xây toàn bằng gạch
Bát Tràng nung đỏ, để trần tạo
thành một không khí rất thô sơ
mộc mạc, điểm những của sổ
tròn với biểu tượng sắc và
không; các cột gỗ đều kê trên đá
tảng xanh trong khắc hình cánh
sen.
Mái lợp hai lớp ngói: mái trên
có múi in nổi hình lá đề, lớp dưới
là ngói lót hình vuông sơn ngũ sắc
như màu áo cà sa xếp trên những
hàng rui gỗ làm thành ô vuông
vắn đều đặn. Xung quanh diềm
SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH
̃ Trang 5
- Lich sử kiên truc Viêt Nam
̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương
mái của ba toà nhà đều chạm trổ tinh tế theo hình lá triện cuốn, trên mái
gắn nhiều con giống bằng đất nung, các đầu đao mái cũng b ằng đ ất nung
đường nét nổi lên hình hoa, lá, rồng phượng giàu s ức khái quát và kh ả
năng truyền cảm. Cột chùa kê trên những tảng đá chạm hình cánh sen.
Toàn bộ ngôi chùa toát ra một tính hoành tráng và phóng khoáng phù h ợp
với triết lý "sắc sắc không không" của nhà Phật.
3. Đặc điểm kiến trúc
Vị trí
Vị trí khéo léo khi chọn nơi xây dựng chùa trên một quả đồi yên tĩnh,
không gian kiến trúc được sáng tạo từ lối chân đồi lên tới cổng chùa.
Đồng thời, khu chùa chính được xác lập thành một khu riêng trong bố c ục
chung và tạo ra ở đấy một không gian khác. Nằm trên m ột v ị trí cao, chùa
có thể tránh cho chùa ngập lụt.
B ố cụ c
Bố cục công trình gồm 3
phần song song nhau kiểu
chữ Tam, xung quanh 3 mặt
tường xây gạch để trần có
chạm trổ các ô cửa sổ trang trí
hình tròn “bán âm bán dương”
hay “sắc sắc không không”
theo triết lý nhà Phật. Khối
SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH
̃ Trang 6
- Lich sử kiên truc Viêt Nam
̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương
Chùa trước và sau gồm 5 gian, 4 hàng cột; khối chùa giữa gồm 3 gian 4
hàng cột. Các ngôi nhà này cách nhau 1,6 m tạo thành một sân Thiên t ỉnh
đủ để ánh sáng thiên nhiên lọt vào tạo nên cảm giác kỳ ảo, trang nghiêm.
Từ bố cục mặt bằng 3
toà nhà, mỗi toà nhà có 2
tầng mái, mỗi tầng có 4 lá
mái... có người đã nghĩ đến
một vũ trụ luận Tam tài
(Thiên - Địa - Nhân) với sự
phát triển Lưỡng nghi sinh
Tứ tượng, sinh Bát quái rồi
biến hoá vô cùng. Nếu điều
suy luận này tin được thì
kiến trúc chùa Tây Phương
đã lồng được ý nghĩa triết
học vào trong giá trị nghệ
thuật để càng đẩy cao tính nhân văn.
Mặt bằng
Đi hết 200 bậc thang xây bằng
đá ong, hai bên đường là thành
đất, vườn cây là tới khu đất nơi
Chùa toạ lạc, công trình được bố
trí ngoài có cổng chùa nhỏ, không
Tam quan, không gác chuông
Giữa sân là một hồ nước nhỏ, vào
mùa khô hồ luôn giữ được độ ẩm
nhất định, chống nứt nẻ của các kết
cấu và tượng gỗ bên trong công trình.
SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH
̃ Trang 7
- Lich sử kiên truc Viêt Nam
̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương
Chùa gồm 3 lớp chính, song song theo
hình chữ "Tam", xây thành các khu biệt
lập. Chùa và sân thông suốt nhau, tứ phía
quây lại kín sân thiên tỉnh thành hình
khung cửa sổ dài, mở thẳng lên trời đón
khí và ánh sáng. Tuy nhiên ánh sáng vừa
phải để tạo được vẻ thâm nghiêm cho
công trình
Bộ mái của chùa được coi là
đoá hoa đao đình bởi sự xử lý và
thủ pháp nghệ thuật, tỷ lệ
chuẩn mực.
Trung tâm của chùa có 3 lớp
chùa đã xây gần như sát vách,
lợp chồng diềm có tất cả 24 đoá
đao cỡ lớn. Mái cong và cao, hai hoa nối với nhau thành chi ều cao g ấp đôi
2.20m+2,20m nên tạo được ánh sáng tốt cho công trình
Mái chùa theo lối chồng diêm (bốn mái trên, 4 mái dưới chồng lên
nhau, hai lớp cách nhau một khoảng ngắn có tên là “cổ mái” hay “cổ
diêm”. Các đầu đao cong vút tạo vẻ nhẹ nhàng thoáng đạt cho công trình.
Trên bờ nóc mái trang trí những hình rồng sinh động và nh ững con v ật
trong thần thoại được xếp chồng lên nhau thể hiện bằng những đ ường
cong tạo vẻ đẹp thanh thoát cho công trình.
SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH
̃ Trang 8
- Lich sử kiên truc Viêt Nam
̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương
Hệ thống kết cấu của chùa
theo lối “chồng rường giá
chiêng” nhưng thay cho “kẻ” thì
lại dùng “bẩy”, bẩy không nằm
nghiêng mà nằm ngang để đỡ
phần mái đua ra. Đối với mái
tầng trên cột quân còn đứng trên
xà nách của mái tầng dưới… đây
là kiểu dáng kiến trúc độc đáo
thế kỷ XVII
Ngoài bố cục kiến trúc đẹp,
chùa Tây phương còn nổi tiếng vì có hệ thống tượng độc đáo nh ư tượng
Tuyết Sơn, Mã Minh và 18 vị La Hán là những kiệt tác ngh ệ thuật điêu
khắc đương thời mang đậm tính dân gian, ý nghĩa triết lý nhân sinh, cu ộc
sống dân giã đời thường và tính thiêng liêng của Phật pháp.
Chùa Tây Phương là chùa lớn có
lịch sử lâu đời, song cả chùa chỉ có
một tháp mộ sư, hiện mới được xây
lại ở vườn cạnh hồi bên trái khu
Tam bảo, mang tên Phương viên
bảo tháp. Tháp bình diện vuông, trên phần nền cao là 3 tầng thu nh ỏ dần
ngăn cách bởi các hàng mái có góc đao uốn cong lên. ở t ầng 1 có bia d ựng
năm Khải Định 9 (1924). Lòng tháp có sá lị thiền s ư Thanh Ng ọc và di hài
các thiền sư khác nhau là cụ Thanh Túc rồi cụ Phúc Hải. Tháp và tường
hoa bao quanh đều được xây khá muộn (cụ Hải Tịch năm 1971). Không có
tư liệu gì - kể cả trí nhớ của nhân dân về các thiền sư trước cụ Ng ọc (cụ
Ngọc về đây trụ trì năm 1893), thậm chí sau khi cụ Túc tịch, một thời gian
dài do các ông thống trong làng quản lý, mãi sau mới có cụ Hải về.
SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH
̃ Trang 9
- Lich sử kiên truc Viêt Nam
̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương
Tháp mới, song nhờ gắn với cây xanh vươn cành xoè tán ra để cùng
hoà nhập đã nhân lên cả vẻ đẹp và thời gian. Cũng cần biết cây tháp mộ
này tuy xây sau 1971 nhưng tiền thân của nó đã có trước năm 1943, v ốn ở
sát hồi toà chùa giữa khu Tam bảo.
Vật liệu gỗ và gạch đã được tận dụng để sử dụng trong công trình tạo
tính hiệu quả đặc biệt.
Ở trên chúng tôi đã trình
bày tới ưu thế của bộ mái.
Tuy rằng vẻ đẹp của công
trình đã được tăng thêm tính
gợi cảm rất nhiều, nhưng các
hàng gạch được xây trần và ô
cửa tròn (tượng trưng cho sắc
sắc không không), được trổ
bên đốc tường lại là có tác
hiệu lực đáng kể. Lớp gạch
này đã cách nhiệt cho toàn bộ công trình, còn ô cửa trổ nhỏ có thể cung
cấp chút ánh sáng nhỏ bên trong nội thất kết hợp với ánh sáng được rọi từ
trên mái xuống. Công trình vì thế mà đủ ánh sáng soi rọi bên trong và tăng
thêm tính thiêng liêng cho hệ thống tượng. Đây cũng là một thủ pháp xử lý
ánh sáng được cha ông vận dụng ở loại hình chùa như thế này.
Kết cấu
Chùa Tây Phương
không lớn, đất xây chùa
hẹp và ở trên cao, nên
khó vận chuyển vật liệu
để có thể nghĩ đến khả
năng đồ sộ của công
trình. Vì thế, để tạo ra
được một công trình
mẫu mực, các kiến trúc
sư dân gian dường như
đã tập trung mọi cố
gắng vào khai thác
những khía cạnh khác
nhau của nghệ thuật
kiến trúc dân gian cổ
truyền.
SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH
̃ Trang 10
- Lich sử kiên truc Viêt Nam
̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương
Để hiểu rõ hơn, chúng ta quan sát kĩ sẽ thấy rằng đó là ba tòa tách
biệt được bố trí song hành gồm chùa Hạ, chùa Trung và chùa Th ượng.
Nhưng điều đặc biệt ở đây là ba tòa được liên kết với nhau bởi tường bao
đóng thành một khối kín, có cửa nghách thông sang hai bên, rất dễ khiến
người ta liên tưởng đến không gian chật chội và bó hẹp…
Tuy nhiên, người thợ xưa đã biết cách sử dụng nghệ thuật đối lập
ngay trong kiến trúc, bởi
chỉ có chùa hạ là có 9 cửa
(nhưng thường đóng), còn
hai chùa trong chỉ có cột
mà không có cửa có vách
nên chúng được liên thông
với nhau, tạo cảm giác
rộng và thoáng. Hơn nữa
giữa mỗi tòa nhà đều có
một khoảng sân hẹp thông
với không gian mở rộng
lên trời hứng ánh sáng gọi
là sân “Thiên Tỉnh“ (giếng
trời). ở mỗi khoảng sân này lại được thiết kế một cái bể nước khiến cho
lớp gạch lót mái sắc không tượng trưng cho tấm áo cà sa của đức Ph ật
như ánh lên thứ ánh sáng muôn màu. Từ ngoài bước vào cái cảm giác về
khoảng tối như dần được mở ra khi bước qua những khoảng sân thiên
SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH
̃ Trang 11
- Lich sử kiên truc Viêt Nam
̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương
tỉnh để dần vào trong chiêm ngưỡng những pho tượng Phật, khi ến cho
cảm giác về thế giới Phật pháp
như mở cõi lòng đến sự rộng lớn
vô biên.
Nhìn từ ngoài vào, ta còn thấy
một sự khác biệt nữa trong kiến
trúc: đầu hồi của chùa Trung lùi
vào khiến những đầu đao mái
chùa sinh động trong nhịp điệu đã
được thay đổi một cách cơ bản.
Tường bao của ngôi chùa đã
liên kết ba tòa Hạ Trung Thượng
thành dạng thức mặt bằng gần
với chữ công rất phổ biến trong kiến trúc cổ truyền Việt Nam. Nhưng ta
lại không thể quy mặt bằng này
vào hình chữ công được, vì ba
lớp chùa lại hoàn toàn tách bạch
trong nội thất. Điều này làm nên
lối kiến trúc đặc biệt hiếm thấy
của chùa Tây Phương, như cái lý
về sắc sắc không không vậy.
Điêu khắc trang trí
Lối kiến trúc chữ Tam chưa
hẳn đã đẹp do sự kết hợp với
một số thành phần kiến trúc đặc
biệt như sân “thiên tỉnh“, chùa
Trung “thót“. Nó đẹp còn bởi
những đầu đao được uốn cong,
cao vút tạo ra công trình kiến trúc
đẹp và lạ mắt. ở đây có sự kết
hợp giữa sự phức tạp của trang
trí và sự đơn giản từ kết cấu mặt
bằng, sự yên tĩnh của đường
thẳng và sự sinh động của mái
cong. Tất cả những yếu tố đó
SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH
̃ Trang 12
- Lich sử kiên truc Viêt Nam
̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương
cộng hưởng một cách nhuần nhuyễn, tự nhiên sống động một cách lạ
thường
Chùa Thầy
II.
Nằm gọn dưới chân một dải núi đá vôi hình vòng cung nổi lên gi ữa
vùng đồng bằng xã Sài Sơn, chùa Thầy (Thiên Phúc tự) thuộc địa phận hai
thôn Đa Phúc và Thụy Khuê, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây, là m ột vùng
non nước hữu tình, cảnh trí như chốn bồng lai. Sài S ơn có tên Nôm là núi
Thầy, nên chùa được gọi là chùa Thầy. Chùa được xây dựng từ th ời nhà
Lý. Đây là nơi tu hành của Thiền sư Từ Đạo H ạnh, lúc này núi Th ầy còn
gọi là núi Phật tích.
2.1. Lịch sử hình thành của chùa
Chùa Láng gắn liền
với giai đoạn đầu của cuộc
đời Từ Đạo Hạnh, còn
chùa Thầy lại chứng kiến
quãng đời sau cùng cho đến
ngày thoát xác của vị sư thế
hệ thứ 12 thuộc dòng
Thiền Ti-ni-đa-lưu-chi này.
SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH
̃ Trang 13
- Lich sử kiên truc Viêt Nam
̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương
Ban đầu chùa Thầy chỉ là một am nhỏ gọi là Hương Hải am, nơi
Thiền sư Từ Đạo Hạnh trụ trì. Vua Lý Nhân Tông đã cho xây d ựng lại
gồm hai cụm chùa: chùa Cao (Đỉnh Sơn Tự) trên núi và chùa Dưới (t ức
chùa Cả, tên chữ là Thiên Phúc Tự). Đầu thế kỷ 17, Dĩnh Quận Công
cùng hoàng tộc chăm lo việc trùng tu, xây dựng điện Ph ật, đi ện Thánh;
sau đó là nhà hậu, nhà bia, gác chuông.
Theo thuyết phong thủy,
chùa được xây dựng trên thế
đất hình con rồng. Phía trước
chùa, bên trái là ngọn Long
Đẩu, lưng chùa và bên phải
dựa vào núi Sài Sơn. Chùa quay
mặt về hướng Nam, trước
chùa, nằm giữa Sài Sơn và
Long Đẩu là một hồ rộng
mang tên Long Chiểu hay Long
Trì (ao Rồng). Sân có hàm
rồng.
Trong Chùa hiện còn lưu giữ 7 tấm bia đá đều có niên đại vào
khoảng thế kỷ 17, trong đó có một tấm bia "Hưng tạo sự công" dựng năm
Dương Đức thứ 7 (1673) nói về việc xây dựng nơi thờ Thánh và tên
người cúng ruộng công đức. Từ niên đại được ghi trên bia đá, và nh ững
vết tích trên kiến trúc, ta có thể hình dung rằng chùa Thầy vốn được xây
dựng trên nền tảng cũ
đời Trần, chỉ đến khi
có đợt trùng tu lớn vào
thế kỷ 17, chùa mới có
dạng “nội công ngoại
quốc” như ngày nay.
Cũng từ đợt trùng tu
này, hai cụm kiến trúc
thờ Phật và thờ Thánh
đã được tách thành hai
công trình riêng biệt,
đánh dấu sự ra đời
chính thức của kiểu
thức chùa tiền Phật -
hậu Thánh.
SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH
̃ Trang 14
- Lich sử kiên truc Viêt Nam
̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương
Chùa Thầy rộng 2.400m2 gồm ba toà nhà chạy song song với nhau
hình chữ tam, dựng trên nền cao bó đá hộc xanh, có hai dãy hành lang chạy
kèm hai bên đầu hồi, với nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc khá độc đáo
mang phong cách kiến trúc nghệ thuật của thế kỷ XVIII.
Ngoài ra bối cảnh xã hội thế kỷ XVII khi kinh tế phát tri ển, quy ền
tự chủ của các làng, xã trở nên mạnh mẽ hơn. Đây cũng là th ời đi ểm, văn
hóa Việt Nam có những sự khẳng định quyền tự ch ủ dân tộc trước ngoại
bang. Do vậy, người ta đã đặc biệt quan tâm tới các vị Thánh, không có
xuất xứ từ Đạo giáo Trung Hoa, mà là những người có công với nước, với
dân. Do vậy khi được đưa vào thờ trong các ngôi chùa, các vị thánh này
không chỉ được thờ theo kiểu thờ Hậu Phật rất phổ biến trong th ế kỷ
XVII, mà được thờ như những vị tổ nghề của cả một vùng đất. Như
truyền thuyết về Dương Không Lộ, khiến cho dân gian coi ông là tổ của
nghề đúc đồng, làm nón, đánh cá, trị thuỷ. Còn Đức Thánh Từ Đạo Hạnh
thì không chỉ là một vị Thiền sư mà còn được xem là ông tổ của nghề múa
rối nước. Thế nên, đôi khi việc thờ Thánh ở đây lại được đặt ở một vị
thế cao hơn thờ Phật.
2.2 Không gian kiến trúc ngôi chùa
Trên khung cảnh núi non hùng vĩ của Sài Sơn, chùa Thầy hi ện ra
trong sự yên tĩnh, dưới những làn sương mờ mờ ảo ảo hay trong nh ững
dòng người tấp nập đi lễ chùa..
Ngôi chùa cổ, mái ngói cong được xây dựng khá khang trang v ới l ối
kiến trúc độc đáo kiểu chữ Tam gồm chùa Hạ, chùa Trung và chùa
SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH
̃ Trang 15
- Lich sử kiên truc Viêt Nam
̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương
Thượng song song với nhau. Bao quát chùa là không gian thoáng đãng v ới
hồ nước trong xanh có hoa khoe sắc nở, có thuỷ đình, nơi múa rối nước và
hai chiếc cầu nhỏ là Nhất tiên kiều trông vào đền Tam ph ủ còn Nguy ệt
Tiên kiều nối với đường lên núi.
Chùa Hạ là nơi lễ
bái của các tăng ni phật
tử và là nơi giảng đạo
của các nhà sư còn chùa
Trung là nơi thờ Tam
Bảo. Lớn nhất to nhất
là chùa Thượng – nơi
đặt ba pho tượng
chuyển kiếp của thiền
sư Từ Đạo Hạnh. Ở
chính giữa là ngôi bảo
điện đồ sộ được trang
hoàng rất nguy nga. Phía
trên đặt hòm sắc linh triều tôn phong của Thiền sư. Phía dưới là tượng
Thiền sư nhập đinh trên toà sen vàng đầu đội mũ hoa sen, tay ch ắp trước
ngực, mình khoắc áo cà sa.
Trong khảm thờ ở
phía tay trái của toà bảo
điện là tượng toàn thân
của Thiền sư. Bức
tượng đẹp và được tạc
bằng gỗ chiêu dâu với
những đường nét chạm
trổ khéo léo và tinh vi.
Đặt song song với nó là
tượng thiền sư đã hoá
kiếp thành vua Lý Nhân
Tông, đầu đội mũ bình
thiên, ngồi oai nghi trên
ngai vàng.
Chùa Thầy còn thờ
tượng cha mẹ thiền sư Từ
Đạo Hạnh là ông Từ Vinh và
bà Tăng Thị Loan cùng hai
SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH
̃ Trang 16
- Lich sử kiên truc Viêt Nam
̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương
người bạn đồng đạo thân thiết của thiền sư là Thiền sư Minh Không và
Thiền sư Giác Hải. Hai bên chùa là hành lang dài th ờ mười tám v ị La Hán
phía sau là gác chuông, gác trống.
Lên giữa lưng chừng núi Thầy
là chùa Cao, nơi mà thiền sư Từ Đạo
Hạnh bắt đầu con đường tu hành của
mình. Đi vòng ra phía sau là hang Cắc
Cớ. Xuống hang Cắc Cớ nhỏ hẹp,
hang rộng và sâu tối om, đường đi
trơn nên dễ bị trượt chân, do đó vừa đi
vừa phải lò dò từng bức một và phải
vịn vào nhau khi đến một khoảng
không gian rộng lớn. Một luồng sáng
trắng chiếu thẳng từ trên đỉnh núi
xuống càng tạo vẻ liêu trai. Người dân
trong vùng gọi khu vực này là giếng
trời, nơi cửa ngõ giữa thiên đường và
địa ngục.
Đi ngược lên phía trên là đến
Đền Thượng, bên cạnh có hang Bụt
Mọc, độc đáo kỳ thú, tiếp sau là
hang Bò âm u, hang Giớ với những
ngọn gió thổi thông thốc cả hai
đầu.
Ở chân núi phía Tây còn có
chùa Bối Am, còn gọi là chùa Một
Mái, chùa có tên như vậy là vì chùa
SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH
̃ Trang 17
- Lich sử kiên truc Viêt Nam
̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương
chỉ có một mái ngói, mặt sau chùa dựa vào vách núi. Hang Thánh Hóa nằm
lưng chừng núi đá, lối vào hang chênh vênh, nhỏ h ẹp, lờ mờ vẻ huyền bí,
càng nhìn kỹ vào vách đá trong hang, càng thấy có nhiều vết lõm, đó là:
Vết đầu, vết chân và vết tay, năm xưa Thiền sư Từ Đạo Hạnh đã tỳ vào
lúc giải thi (lìa khỏi xác). Bên cạnh đó có hang Hút Gió, th ềm đá Thái
Lão ...
Thần Quang động là hệ thống hang được ví như 9 tầng địa ngục.
Thần Quang động có ánh sáng chiếu xuống, nơi có con quỷ án ng ữ, tuy ển
các linh hồn lên cõi Niết bàn đầu thai làm kiếp khác, hoặc đày xuống âm
phủ cho chó ngao, vạc dầu. Trên đường xuống âm phủ, linh hồn sẽ đi qua
tầng thứ 3, nơi có con suối ngầm trong lòng núi, mà theo m ột s ố ng ười
từng khám phá, có rất nhiều xương cốt.
Phía cuối động, bàn
thờ bằng đá với tấm biển
gắn dòng chữ “bàn thờ nghĩa
quân Lữ Gia” nằm im lìm
trong bóng đêm, khói hương
lạnh lẽo. Vài đồng tiền lẻ
rơi vãi quanh bát hương.
SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH
̃ Trang 18
- Lich sử kiên truc Viêt Nam
̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương
Những gói bim bim được các nam thanh nữ tú để ở góc bàn thờ như một
sự chia sẻ với người đã khuất.
Phía sau bàn thờ, nơi góc hang, có một cái bể xây sâu vào vách núi. Trên
góc bể có một tấm biển đề “Bể hài cốt”. Bể được xây bởi những phiến
đá lớn, để hở một ô nhỏ, vừa đủ một người thò đầu vào xem. Bài v ị g ắn
chìm trong thành bể khắc dòng chữ: “Bảo Đại thập tam niên”. Phía bên
phải và trái bể có những cột nhũ đá khổng lồ.
Ngoài ra còn một hệ thống văn bia cổ bằng chữ Hán và chữ Nôm,
có giá trị được lưu giữ tại chùa.
Thắng cảnh chùa Thầy làm cho tất cả những ai đã đến đ ều có c ảm
giác bình yên, thích thú nhưng lại rất lưu luy ến lúc ra đi. Vì v ậy ch ưa đ ến
hội chính từ mùng năm đến mùng bảy tháng ba âm lịch nh ưng nh ững dòng
người đổ về chùa Thầy ngày một thêm đông. Người đi dâng h ương kh ấn
phật, cầu duyên, người vãn cảnh chùa đi, báo hiệu cho một mùa l ễ h ội
đông vui, sôi nổi.
Đặc điểm kiến trúc của chùa
Vị trí
Chùa Thầy là nơi
lưu dấu tu hành và chứng
kiến quãng đời sau cùng
cho đến ngày thoát xác
của vị cao tăng - Thiền sư
Từ Đạo Hạnh. Chùa được
xây dựng trên thế đất hình
con rồng. Chùa quay mặt
về hướng Nam. Phía trước
chùa, bên trái là ngọn Long
Đẩu, lưng chùa và bên
phải dựa vào núi Sài Sơn.
Chùa quay mặt về hướng
Nam, trước chùa, nằm giữa Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ rộng mang tên
Long Chiểu hay Long Trì (ao Rồng). Sân có hàm rồng Xung quanh chùa có
hai dãy hành lang, phía sau có lầu chuông, lầu trống.
Phía trước chùa là một sân rộng nhìn ra hồ Long Chiểu, tạo thành
hàm của rồng trước trồng hai cây gạo, nhưng hiện tại hai cây gạo đã
chết, được thay bởi cây đa. Từ sân này có hai cầu là Nh ật Tiên và Nguy ệt
tiên nối sang hai bên, tạo thành hai râu rồng. Hai cầu này do Phùng Khắc
SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH
̃ Trang 19
- Lich sử kiên truc Viêt Nam
̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương
Khoan xây vào năm 1602. Cầu Nhật Tiên nối sang một hòn đảo nh ỏ, trên
đảo có đền thờ Tam phủ. Cầu Nguyệt Tiên nối vào đường lên núi.
Giữa ao Long Chiểu có thủy đình là viên ngọc giữa mi ệng r ồng.
Đây cũng là nơi diễn ra trò múa rối nước. Từ Đạo Hạnh đ ược cho là ông
tổ của hình thức biểu diễn dân gian này.
Bố cục
Chùa Thầy gồm
ba tòa song song với
nhau gọi là chùa Hạ,
chùa Trung và chùa
Thượng. Giữa chùa
Hạ và chùa Trung có
ống muống nối với
nhau, tạo thành thế hạ
công thượng nhất.
Đây là một ngôi chùa
tiền Pật hậu Thánh
linh thiêng và đẹp đẽ,
đánh dấu sự hội nhập
giữa tín ngưỡng bản địa với Phật giáo, giữa tính chất từ bi của Phật với
sự linh thiêng của Thánh. Đây cũng là kiểu kiến trúc ở chùa Nền (Đản
Cơ Tự)cùng nằm trong hệ thống chùa liên quan đến Ngài. Chùa Th ầy
được biểu hiện bằng một cấu trúc hoàn chỉnh gắn kết giữa kiến trúc chùa
với một cung Thánh nối vào phía sau tòa nhà Tam Bảo trên cùng m ột tr ục.
Cung Thánh là một không gian đóng kín, với diện tích nhỏ để t ạo nên v ẻ
huyền bí, linh thiêng. Toàn bộ kiến trúc chùa trải dài, ăn cao dần theo triền
núi theo bố cục nội công ngoại quốc.
Mặt bằng
Chùa Thầy xưa nay không có
Tam quan, bởi thế không có đường
vào mặt trước. Đó cũng là đặc
điểm riêng của kiến trúc chùa Thầy
Những tòa chính của chùa
Thầy được xây trên nền rất cao,
thấp nhất là hành lang và nhà hậu
cũng được làm trên nền cao 1m,
SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH
̃ Trang 20
nguon tai.lieu . vn