Xem mẫu

  1. Lich sử kiên truc Viêt Nam ̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương MỞ ĐẦU Đất nước với 4000 năm lịch sử Việt Nam với diện tích 33 vạn km2 nằm hoàn toàn trong vòng đai nhiệt đới từ vĩ độ cao nhất là 23o22 tới vĩ độ thấp nhất là 8o30 Bắc. Gió mùa in dấu ấn sâu sắc vào thiên nhiên các vùng ven biển, đồng bằng, miền núi suốt từ Bắc tới Nam. Mùa lạnh, mùa nắng, mùa mưa, mùa khô ảnh h ưởng lớn đ ến chế độ sông ngòi và chế độ sinh trưởng của sinh vật ảnh h ưởng đến n ếp sống sinh hoạt của các tộc người và hình thành những phong cách ki ến trúc mang tính địa phương phong phú. Là vùng đất thuộc vùng châu thổ sông Hồng. Phía bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc, phía tây giáp tỉnh Hoà Bình, Phú Th ọ, phía đông giáp Hà N ội, Hưng Yên, phía nam giáp Hà Nam. Địa hình của tỉnh tương đối đa dạng bao gồm đồi, núi và đồng bằng. Hà Tây có diện tích là 2192 km, với dân số là 2452500 (theo năm 2002). Hà Tây là vùng đất trú ngụ của một số dân tộc Việt, Mường, Tày Dao. Hà Tây với nhiều ngôi chùa lớn đã đi vào lịch sử với quá khứ anh hùng của hàng nghìn năm truyền thống dựng nước và giữ nước. Qua việc tìm hiểu kiến trúc tại địa phương tôi lấy kiến trúc xây dựng chùa Tây Phương, chùa Thầy, chùa Hương, chùa Đậu của quê hương mình làm nền tảng cho bài viết. SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH ̃ Trang 1
  2. Lich sử kiên truc Viêt Nam ̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương NỘI DUNG Chùa Tây Phương I. Đã từ lâu, Phật Giáo hòa vào trong tín ngưỡng dân gian chi ph ối đ ời sống của người dân Việt Nam khá sâu sắc. Từ đó có rất nhiều ngôi chùa nổi tiếng với quy mô hoàng tráng, đồ sộ trên khắp Việt Nam. Nh ưng chùa Tây Phương không hề to lớn, vậy chùa có gì nổi bật mà được m ệnh danh la “ Đệ nhất thắng cảnh?” 1. Lịch sử ra đời của ngôi chùa Một số sách báo viết về chùa Tây Phương cho rằng được xây dựng vào thời nhà Mạc, nhưng không chứng minh. Niên đại này có thể tin được, vì đầu thế kỷ 17 vào những năm 30 chùa đã phải sửa chữa lớn, hơn nữa trong chùa còn hai tấm bia đều bị mờ hết chữ nhưng còn đọc được rõ tên bia ở mặt ngoài là Tín thí và Tây Phương sơn Sùng Phúc tự th ạch bi (m ặt bia kia áp vào tường hồi toà chùa giữa nên không đọc được), các hoa văn trang trí thuộc phong cách nghệ thuật cuối thế kỷ 16 sang đầu thế kỷ 17. Năm 1632, vào đời vua Lê Thần Tông, chùa xây dựng thượng điện 3 gian và hậu cung cùng hành lang 20 gian. Khoảng những năm 1657-1682, SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH ̃ Trang 2
  3. Lich sử kiên truc Viêt Nam ̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương Tây Đô Vương Trịnh Tạc lại cho phá chùa cũ, xây lại chùa m ới và tam quan. Đến năm 1794 dưới thời nhà Tây Sơn, chùa lại được đại tu hoàn toàn với tên mới là "Tây Phương Cổ Tự" và hình dáng kiến trúc còn để lại như ngày nay. Thông tin trên trang web chính thức của tỉnh Hà Tây thì nói chùa được thành lập từ thế kỷ 6-7 nhưng đã trải qua nhiều lần trùng tu Chùa Tây Phương dựng trên đỉnh núi Tây Phương thuộc xóm Tây Phương của thôn Yên xã Thạch Xá huyện Thạch Thất tỉnh Hà Tây. Nhiều tư liệu thư tịch và truyền truyền thuyết cho hay núi Tây Phương còn gọi là núi Câu Lậu. Sách xưa Việt sử thông g iám cương mục và thơ Phan Huy Ích gọi tên chùa theo tên núi là Chùa Tây Phương. Cổng chùa và một bức hoành trong chùa đều ghi rõ Tây Phương Cổ Tự. Nhưng tất cả bia và chuông hiện còn đều ghi tên chùa là Sùng Phúc ở trên núi Tây. Phương. Trong khu vực núi Tây Phương xưa nay có 3 chùa : Quan Âm ở chân núi. Thanh Am ở lưng chừng và Sùng Phúc ở trên đỉnh. Sách Văn khắc Hán Nôm Việt Nam (NXB KHXH, năm 1993) trang 230 giới thiệu tóm tắt 2 văn bản bia chùa Quảng Phúc và chuông chùa Sùng Phúc ở cùng một địa phương và cho biết đều là SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH ̃ Trang 3
  4. Lich sử kiên truc Viêt Nam ̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương những tên của chùa Tây Phương. Tấm bia mang tên “Quảng Phúc t ự h ưng công tu tạo thạch bi” ở tình trạng “bia vỡ”, “chữ mờ” vì thế có lẽ chữ Quảng chính là chữ Sùng, dựng năm 1639. Trong bài thơ Qua Tây Phương Sơn tự ( Thăm chùa núi Tây Phương) làm năm 1788, Phan Huy ích viết ở câu 3 : “Cát lệnh dư sa đôi xích nhưỡng” đã tả cảnh núi: Đan sa còn dư của quan lệnh họ Cát chất thành đống đất đỏ. Và ông ghi chú : “Núi Tây Phương xưa có tên là núi Câu Lậu. Sách sử chép rằng : Đời Tấn có Cát Hồng thích việc luyện đan, biết núi Câu Lậu có đan sa bèn xin làm chức lệnh Giao Chỉ, tức là vùng đất này” . Đá núi xám đỏ nay vẫn còn, song không có dấu tích gì của việc luyện đan ở đây. Trong sách Sơn Tây địa chí (1939), Phạm Xuân Độ dẫn lời tâu của Cao Biền với vua Đường ghi trong truyện Kiều Cao V ương: “ Tại c ấp giữa núi Câu Lậu có huyệt đế vương, thần đã làm chùa để yểm”. Trần Trọng Kim trong sách Phật lục cũng dẫn truyền thuyết trên, song nghi ngờ ngay: “ Kể thực ra, thì không có di tích gì làm bằng chứng cả”. Một số sách báo viết về chùa Tây Phương cho rằng được xây dựng vào thời Mạc, nhưng không chứng minh. Niên đại này có th ể tin đ ược, vì đầu thế kỷ XVII vào những năm 30 chùa đã phải sửa chữa lớn, hơn nữa trong chùa còn hai tấm bia đều bị mờ h ết ch ữ nhưng còn đ ọc đ ược rõ tên bia ở mặt ngoài là Tín thí và Tây Phương sơn Sùng Phúc t ự th ạch bi (m ặt bia kia áp vào tường hồi toà chùa giữa nên không đọc được), các hoa văn trang trí thuộc phong cách nghệ thuật cuối TK XVI sang đầu TK XVlI. Ngoài sân vườn, cạnh gốc cây sung có tấm bia Tây Phương sơn Sùng Phúc tự bị mờ gần hết nhưng còn vài dòng in rập cẩn thận có th ể đọc được những thông tin rất quý: “Đại Việt quốc Sơn Tây trấn Qu ốc Oai phủ...Ngày 12 tháng 11 năm Nhâm Thân trùng tu chùa Sùng Phúc núi Tây Phương, dựng Thượng điện 3 gian, Hậu đường và hành lang 22 gian... Ngày 2 tháng 2 năm Âất Hợi đặt hội an tượng, khai quang điểm nh ỡn... Nguyên soái tổng quốc chính sư phụ Thanh Vương...” Thanh V ương là niên hiệu của chúa Trịnh Tráng (1623-1657), như vậy năm Nhâm Thân sửa SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH ̃ Trang 4
  5. Lich sử kiên truc Viêt Nam ̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương chùa là 1632 và năm Âất Hợi an tượng là 1635, phù h ợp với hoa văn trang trí thuộc phong cách nửa đầu TK XVII 2. Không gian kiến trúc ngôi chùa Đường lên chùa Tây PhươngTừ chân núi, qua 239 bậc lát đá ong thì đến đỉnh núi và cổng chùa. Chùa Tây Phương gồm ba nếp nhà song song: bái đường, chính điện và hậu cung. Mỗi nếp có hai tầng mái kiểu chồng diêm, tường xây toàn bằng gạch Bát Tràng nung đỏ, để trần tạo thành một không khí rất thô sơ mộc mạc, điểm những của sổ tròn với biểu tượng sắc và không; các cột gỗ đều kê trên đá tảng xanh trong khắc hình cánh sen. Mái lợp hai lớp ngói: mái trên có múi in nổi hình lá đề, lớp dưới là ngói lót hình vuông sơn ngũ sắc như màu áo cà sa xếp trên những hàng rui gỗ làm thành ô vuông vắn đều đặn. Xung quanh diềm SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH ̃ Trang 5
  6. Lich sử kiên truc Viêt Nam ̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương mái của ba toà nhà đều chạm trổ tinh tế theo hình lá triện cuốn, trên mái gắn nhiều con giống bằng đất nung, các đầu đao mái cũng b ằng đ ất nung đường nét nổi lên hình hoa, lá, rồng phượng giàu s ức khái quát và kh ả năng truyền cảm. Cột chùa kê trên những tảng đá chạm hình cánh sen. Toàn bộ ngôi chùa toát ra một tính hoành tráng và phóng khoáng phù h ợp với triết lý "sắc sắc không không" của nhà Phật. 3. Đặc điểm kiến trúc Vị trí Vị trí khéo léo khi chọn nơi xây dựng chùa trên một quả đồi yên tĩnh, không gian kiến trúc được sáng tạo từ lối chân đồi lên tới cổng chùa. Đồng thời, khu chùa chính được xác lập thành một khu riêng trong bố c ục chung và tạo ra ở đấy một không gian khác. Nằm trên m ột v ị trí cao, chùa có thể tránh cho chùa ngập lụt. B ố cụ c Bố cục công trình gồm 3 phần song song nhau kiểu chữ Tam, xung quanh 3 mặt tường xây gạch để trần có chạm trổ các ô cửa sổ trang trí hình tròn “bán âm bán dương” hay “sắc sắc không không” theo triết lý nhà Phật. Khối SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH ̃ Trang 6
  7. Lich sử kiên truc Viêt Nam ̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương Chùa trước và sau gồm 5 gian, 4 hàng cột; khối chùa giữa gồm 3 gian 4 hàng cột. Các ngôi nhà này cách nhau 1,6 m tạo thành một sân Thiên t ỉnh đủ để ánh sáng thiên nhiên lọt vào tạo nên cảm giác kỳ ảo, trang nghiêm. Từ bố cục mặt bằng 3 toà nhà, mỗi toà nhà có 2 tầng mái, mỗi tầng có 4 lá mái... có người đã nghĩ đến một vũ trụ luận Tam tài (Thiên - Địa - Nhân) với sự phát triển Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, sinh Bát quái rồi biến hoá vô cùng. Nếu điều suy luận này tin được thì kiến trúc chùa Tây Phương đã lồng được ý nghĩa triết học vào trong giá trị nghệ thuật để càng đẩy cao tính nhân văn. Mặt bằng Đi hết 200 bậc thang xây bằng đá ong, hai bên đường là thành đất, vườn cây là tới khu đất nơi Chùa toạ lạc, công trình được bố trí ngoài có cổng chùa nhỏ, không Tam quan, không gác chuông Giữa sân là một hồ nước nhỏ, vào mùa khô hồ luôn giữ được độ ẩm nhất định, chống nứt nẻ của các kết cấu và tượng gỗ bên trong công trình. SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH ̃ Trang 7
  8. Lich sử kiên truc Viêt Nam ̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương Chùa gồm 3 lớp chính, song song theo hình chữ "Tam", xây thành các khu biệt lập. Chùa và sân thông suốt nhau, tứ phía quây lại kín sân thiên tỉnh thành hình khung cửa sổ dài, mở thẳng lên trời đón khí và ánh sáng. Tuy nhiên ánh sáng vừa phải để tạo được vẻ thâm nghiêm cho công trình Bộ mái của chùa được coi là đoá hoa đao đình bởi sự xử lý và thủ pháp nghệ thuật, tỷ lệ chuẩn mực. Trung tâm của chùa có 3 lớp chùa đã xây gần như sát vách, lợp chồng diềm có tất cả 24 đoá đao cỡ lớn. Mái cong và cao, hai hoa nối với nhau thành chi ều cao g ấp đôi 2.20m+2,20m nên tạo được ánh sáng tốt cho công trình Mái chùa theo lối chồng diêm (bốn mái trên, 4 mái dưới chồng lên nhau, hai lớp cách nhau một khoảng ngắn có tên là “cổ mái” hay “cổ diêm”. Các đầu đao cong vút tạo vẻ nhẹ nhàng thoáng đạt cho công trình. Trên bờ nóc mái trang trí những hình rồng sinh động và nh ững con v ật trong thần thoại được xếp chồng lên nhau thể hiện bằng những đ ường cong tạo vẻ đẹp thanh thoát cho công trình. SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH ̃ Trang 8
  9. Lich sử kiên truc Viêt Nam ̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương Hệ thống kết cấu của chùa theo lối “chồng rường giá chiêng” nhưng thay cho “kẻ” thì lại dùng “bẩy”, bẩy không nằm nghiêng mà nằm ngang để đỡ phần mái đua ra. Đối với mái tầng trên cột quân còn đứng trên xà nách của mái tầng dưới… đây là kiểu dáng kiến trúc độc đáo thế kỷ XVII Ngoài bố cục kiến trúc đẹp, chùa Tây phương còn nổi tiếng vì có hệ thống tượng độc đáo nh ư tượng Tuyết Sơn, Mã Minh và 18 vị La Hán là những kiệt tác ngh ệ thuật điêu khắc đương thời mang đậm tính dân gian, ý nghĩa triết lý nhân sinh, cu ộc sống dân giã đời thường và tính thiêng liêng của Phật pháp. Chùa Tây Phương là chùa lớn có lịch sử lâu đời, song cả chùa chỉ có một tháp mộ sư, hiện mới được xây lại ở vườn cạnh hồi bên trái khu Tam bảo, mang tên Phương viên bảo tháp. Tháp bình diện vuông, trên phần nền cao là 3 tầng thu nh ỏ dần ngăn cách bởi các hàng mái có góc đao uốn cong lên. ở t ầng 1 có bia d ựng năm Khải Định 9 (1924). Lòng tháp có sá lị thiền s ư Thanh Ng ọc và di hài các thiền sư khác nhau là cụ Thanh Túc rồi cụ Phúc Hải. Tháp và tường hoa bao quanh đều được xây khá muộn (cụ Hải Tịch năm 1971). Không có tư liệu gì - kể cả trí nhớ của nhân dân về các thiền sư trước cụ Ng ọc (cụ Ngọc về đây trụ trì năm 1893), thậm chí sau khi cụ Túc tịch, một thời gian dài do các ông thống trong làng quản lý, mãi sau mới có cụ Hải về. SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH ̃ Trang 9
  10. Lich sử kiên truc Viêt Nam ̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương Tháp mới, song nhờ gắn với cây xanh vươn cành xoè tán ra để cùng hoà nhập đã nhân lên cả vẻ đẹp và thời gian. Cũng cần biết cây tháp mộ này tuy xây sau 1971 nhưng tiền thân của nó đã có trước năm 1943, v ốn ở sát hồi toà chùa giữa khu Tam bảo. Vật liệu gỗ và gạch đã được tận dụng để sử dụng trong công trình tạo tính hiệu quả đặc biệt. Ở trên chúng tôi đã trình bày tới ưu thế của bộ mái. Tuy rằng vẻ đẹp của công trình đã được tăng thêm tính gợi cảm rất nhiều, nhưng các hàng gạch được xây trần và ô cửa tròn (tượng trưng cho sắc sắc không không), được trổ bên đốc tường lại là có tác hiệu lực đáng kể. Lớp gạch này đã cách nhiệt cho toàn bộ công trình, còn ô cửa trổ nhỏ có thể cung cấp chút ánh sáng nhỏ bên trong nội thất kết hợp với ánh sáng được rọi từ trên mái xuống. Công trình vì thế mà đủ ánh sáng soi rọi bên trong và tăng thêm tính thiêng liêng cho hệ thống tượng. Đây cũng là một thủ pháp xử lý ánh sáng được cha ông vận dụng ở loại hình chùa như thế này. Kết cấu Chùa Tây Phương không lớn, đất xây chùa hẹp và ở trên cao, nên khó vận chuyển vật liệu để có thể nghĩ đến khả năng đồ sộ của công trình. Vì thế, để tạo ra được một công trình mẫu mực, các kiến trúc sư dân gian dường như đã tập trung mọi cố gắng vào khai thác những khía cạnh khác nhau của nghệ thuật kiến trúc dân gian cổ truyền. SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH ̃ Trang 10
  11. Lich sử kiên truc Viêt Nam ̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương Để hiểu rõ hơn, chúng ta quan sát kĩ sẽ thấy rằng đó là ba tòa tách biệt được bố trí song hành gồm chùa Hạ, chùa Trung và chùa Th ượng. Nhưng điều đặc biệt ở đây là ba tòa được liên kết với nhau bởi tường bao đóng thành một khối kín, có cửa nghách thông sang hai bên, rất dễ khiến người ta liên tưởng đến không gian chật chội và bó hẹp… Tuy nhiên, người thợ xưa đã biết cách sử dụng nghệ thuật đối lập ngay trong kiến trúc, bởi chỉ có chùa hạ là có 9 cửa (nhưng thường đóng), còn hai chùa trong chỉ có cột mà không có cửa có vách nên chúng được liên thông với nhau, tạo cảm giác rộng và thoáng. Hơn nữa giữa mỗi tòa nhà đều có một khoảng sân hẹp thông với không gian mở rộng lên trời hứng ánh sáng gọi là sân “Thiên Tỉnh“ (giếng trời). ở mỗi khoảng sân này lại được thiết kế một cái bể nước khiến cho lớp gạch lót mái sắc không tượng trưng cho tấm áo cà sa của đức Ph ật như ánh lên thứ ánh sáng muôn màu. Từ ngoài bước vào cái cảm giác về khoảng tối như dần được mở ra khi bước qua những khoảng sân thiên SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH ̃ Trang 11
  12. Lich sử kiên truc Viêt Nam ̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương tỉnh để dần vào trong chiêm ngưỡng những pho tượng Phật, khi ến cho cảm giác về thế giới Phật pháp như mở cõi lòng đến sự rộng lớn vô biên. Nhìn từ ngoài vào, ta còn thấy một sự khác biệt nữa trong kiến trúc: đầu hồi của chùa Trung lùi vào khiến những đầu đao mái chùa sinh động trong nhịp điệu đã được thay đổi một cách cơ bản. Tường bao của ngôi chùa đã liên kết ba tòa Hạ Trung Thượng thành dạng thức mặt bằng gần với chữ công rất phổ biến trong kiến trúc cổ truyền Việt Nam. Nhưng ta lại không thể quy mặt bằng này vào hình chữ công được, vì ba lớp chùa lại hoàn toàn tách bạch trong nội thất. Điều này làm nên lối kiến trúc đặc biệt hiếm thấy của chùa Tây Phương, như cái lý về sắc sắc không không vậy. Điêu khắc trang trí Lối kiến trúc chữ Tam chưa hẳn đã đẹp do sự kết hợp với một số thành phần kiến trúc đặc biệt như sân “thiên tỉnh“, chùa Trung “thót“. Nó đẹp còn bởi những đầu đao được uốn cong, cao vút tạo ra công trình kiến trúc đẹp và lạ mắt. ở đây có sự kết hợp giữa sự phức tạp của trang trí và sự đơn giản từ kết cấu mặt bằng, sự yên tĩnh của đường thẳng và sự sinh động của mái cong. Tất cả những yếu tố đó SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH ̃ Trang 12
  13. Lich sử kiên truc Viêt Nam ̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương cộng hưởng một cách nhuần nhuyễn, tự nhiên sống động một cách lạ thường Chùa Thầy II. Nằm gọn dưới chân một dải núi đá vôi hình vòng cung nổi lên gi ữa vùng đồng bằng xã Sài Sơn, chùa Thầy (Thiên Phúc tự) thuộc địa phận hai thôn Đa Phúc và Thụy Khuê, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây, là m ột vùng non nước hữu tình, cảnh trí như chốn bồng lai. Sài S ơn có tên Nôm là núi Thầy, nên chùa được gọi là chùa Thầy. Chùa được xây dựng từ th ời nhà Lý. Đây là nơi tu hành của Thiền sư Từ Đạo H ạnh, lúc này núi Th ầy còn gọi là núi Phật tích. 2.1. Lịch sử hình thành của chùa Chùa Láng gắn liền với giai đoạn đầu của cuộc đời Từ Đạo Hạnh, còn chùa Thầy lại chứng kiến quãng đời sau cùng cho đến ngày thoát xác của vị sư thế hệ thứ 12 thuộc dòng Thiền Ti-ni-đa-lưu-chi này. SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH ̃ Trang 13
  14. Lich sử kiên truc Viêt Nam ̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương Ban đầu chùa Thầy chỉ là một am nhỏ gọi là Hương Hải am, nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh trụ trì. Vua Lý Nhân Tông đã cho xây d ựng lại gồm hai cụm chùa: chùa Cao (Đỉnh Sơn Tự) trên núi và chùa Dưới (t ức chùa Cả, tên chữ là Thiên Phúc Tự). Đầu thế kỷ 17, Dĩnh Quận Công cùng hoàng tộc chăm lo việc trùng tu, xây dựng điện Ph ật, đi ện Thánh; sau đó là nhà hậu, nhà bia, gác chuông. Theo thuyết phong thủy, chùa được xây dựng trên thế đất hình con rồng. Phía trước chùa, bên trái là ngọn Long Đẩu, lưng chùa và bên phải dựa vào núi Sài Sơn. Chùa quay mặt về hướng Nam, trước chùa, nằm giữa Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ rộng mang tên Long Chiểu hay Long Trì (ao Rồng). Sân có hàm rồng. Trong Chùa hiện còn lưu giữ 7 tấm bia đá đều có niên đại vào khoảng thế kỷ 17, trong đó có một tấm bia "Hưng tạo sự công" dựng năm Dương Đức thứ 7 (1673) nói về việc xây dựng nơi thờ Thánh và tên người cúng ruộng công đức. Từ niên đại được ghi trên bia đá, và nh ững vết tích trên kiến trúc, ta có thể hình dung rằng chùa Thầy vốn được xây dựng trên nền tảng cũ đời Trần, chỉ đến khi có đợt trùng tu lớn vào thế kỷ 17, chùa mới có dạng “nội công ngoại quốc” như ngày nay. Cũng từ đợt trùng tu này, hai cụm kiến trúc thờ Phật và thờ Thánh đã được tách thành hai công trình riêng biệt, đánh dấu sự ra đời chính thức của kiểu thức chùa tiền Phật - hậu Thánh. SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH ̃ Trang 14
  15. Lich sử kiên truc Viêt Nam ̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương Chùa Thầy rộng 2.400m2 gồm ba toà nhà chạy song song với nhau hình chữ tam, dựng trên nền cao bó đá hộc xanh, có hai dãy hành lang chạy kèm hai bên đầu hồi, với nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc khá độc đáo mang phong cách kiến trúc nghệ thuật của thế kỷ XVIII. Ngoài ra bối cảnh xã hội thế kỷ XVII khi kinh tế phát tri ển, quy ền tự chủ của các làng, xã trở nên mạnh mẽ hơn. Đây cũng là th ời đi ểm, văn hóa Việt Nam có những sự khẳng định quyền tự ch ủ dân tộc trước ngoại bang. Do vậy, người ta đã đặc biệt quan tâm tới các vị Thánh, không có xuất xứ từ Đạo giáo Trung Hoa, mà là những người có công với nước, với dân. Do vậy khi được đưa vào thờ trong các ngôi chùa, các vị thánh này không chỉ được thờ theo kiểu thờ Hậu Phật rất phổ biến trong th ế kỷ XVII, mà được thờ như những vị tổ nghề của cả một vùng đất. Như truyền thuyết về Dương Không Lộ, khiến cho dân gian coi ông là tổ của nghề đúc đồng, làm nón, đánh cá, trị thuỷ. Còn Đức Thánh Từ Đạo Hạnh thì không chỉ là một vị Thiền sư mà còn được xem là ông tổ của nghề múa rối nước. Thế nên, đôi khi việc thờ Thánh ở đây lại được đặt ở một vị thế cao hơn thờ Phật. 2.2 Không gian kiến trúc ngôi chùa Trên khung cảnh núi non hùng vĩ của Sài Sơn, chùa Thầy hi ện ra trong sự yên tĩnh, dưới những làn sương mờ mờ ảo ảo hay trong nh ững dòng người tấp nập đi lễ chùa.. Ngôi chùa cổ, mái ngói cong được xây dựng khá khang trang v ới l ối kiến trúc độc đáo kiểu chữ Tam gồm chùa Hạ, chùa Trung và chùa SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH ̃ Trang 15
  16. Lich sử kiên truc Viêt Nam ̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương Thượng song song với nhau. Bao quát chùa là không gian thoáng đãng v ới hồ nước trong xanh có hoa khoe sắc nở, có thuỷ đình, nơi múa rối nước và hai chiếc cầu nhỏ là Nhất tiên kiều trông vào đền Tam ph ủ còn Nguy ệt Tiên kiều nối với đường lên núi. Chùa Hạ là nơi lễ bái của các tăng ni phật tử và là nơi giảng đạo của các nhà sư còn chùa Trung là nơi thờ Tam Bảo. Lớn nhất to nhất là chùa Thượng – nơi đặt ba pho tượng chuyển kiếp của thiền sư Từ Đạo Hạnh. Ở chính giữa là ngôi bảo điện đồ sộ được trang hoàng rất nguy nga. Phía trên đặt hòm sắc linh triều tôn phong của Thiền sư. Phía dưới là tượng Thiền sư nhập đinh trên toà sen vàng đầu đội mũ hoa sen, tay ch ắp trước ngực, mình khoắc áo cà sa. Trong khảm thờ ở phía tay trái của toà bảo điện là tượng toàn thân của Thiền sư. Bức tượng đẹp và được tạc bằng gỗ chiêu dâu với những đường nét chạm trổ khéo léo và tinh vi. Đặt song song với nó là tượng thiền sư đã hoá kiếp thành vua Lý Nhân Tông, đầu đội mũ bình thiên, ngồi oai nghi trên ngai vàng. Chùa Thầy còn thờ tượng cha mẹ thiền sư Từ Đạo Hạnh là ông Từ Vinh và bà Tăng Thị Loan cùng hai SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH ̃ Trang 16
  17. Lich sử kiên truc Viêt Nam ̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương người bạn đồng đạo thân thiết của thiền sư là Thiền sư Minh Không và Thiền sư Giác Hải. Hai bên chùa là hành lang dài th ờ mười tám v ị La Hán phía sau là gác chuông, gác trống. Lên giữa lưng chừng núi Thầy là chùa Cao, nơi mà thiền sư Từ Đạo Hạnh bắt đầu con đường tu hành của mình. Đi vòng ra phía sau là hang Cắc Cớ. Xuống hang Cắc Cớ nhỏ hẹp, hang rộng và sâu tối om, đường đi trơn nên dễ bị trượt chân, do đó vừa đi vừa phải lò dò từng bức một và phải vịn vào nhau khi đến một khoảng không gian rộng lớn. Một luồng sáng trắng chiếu thẳng từ trên đỉnh núi xuống càng tạo vẻ liêu trai. Người dân trong vùng gọi khu vực này là giếng trời, nơi cửa ngõ giữa thiên đường và địa ngục. Đi ngược lên phía trên là đến Đền Thượng, bên cạnh có hang Bụt Mọc, độc đáo kỳ thú, tiếp sau là hang Bò âm u, hang Giớ với những ngọn gió thổi thông thốc cả hai đầu. Ở chân núi phía Tây còn có chùa Bối Am, còn gọi là chùa Một Mái, chùa có tên như vậy là vì chùa SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH ̃ Trang 17
  18. Lich sử kiên truc Viêt Nam ̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương chỉ có một mái ngói, mặt sau chùa dựa vào vách núi. Hang Thánh Hóa nằm lưng chừng núi đá, lối vào hang chênh vênh, nhỏ h ẹp, lờ mờ vẻ huyền bí, càng nhìn kỹ vào vách đá trong hang, càng thấy có nhiều vết lõm, đó là: Vết đầu, vết chân và vết tay, năm xưa Thiền sư Từ Đạo Hạnh đã tỳ vào lúc giải thi (lìa khỏi xác). Bên cạnh đó có hang Hút Gió, th ềm đá Thái Lão ... Thần Quang động là hệ thống hang được ví như 9 tầng địa ngục. Thần Quang động có ánh sáng chiếu xuống, nơi có con quỷ án ng ữ, tuy ển các linh hồn lên cõi Niết bàn đầu thai làm kiếp khác, hoặc đày xuống âm phủ cho chó ngao, vạc dầu. Trên đường xuống âm phủ, linh hồn sẽ đi qua tầng thứ 3, nơi có con suối ngầm trong lòng núi, mà theo m ột s ố ng ười từng khám phá, có rất nhiều xương cốt. Phía cuối động, bàn thờ bằng đá với tấm biển gắn dòng chữ “bàn thờ nghĩa quân Lữ Gia” nằm im lìm trong bóng đêm, khói hương lạnh lẽo. Vài đồng tiền lẻ rơi vãi quanh bát hương. SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH ̃ Trang 18
  19. Lich sử kiên truc Viêt Nam ̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương Những gói bim bim được các nam thanh nữ tú để ở góc bàn thờ như một sự chia sẻ với người đã khuất. Phía sau bàn thờ, nơi góc hang, có một cái bể xây sâu vào vách núi. Trên góc bể có một tấm biển đề “Bể hài cốt”. Bể được xây bởi những phiến đá lớn, để hở một ô nhỏ, vừa đủ một người thò đầu vào xem. Bài v ị g ắn chìm trong thành bể khắc dòng chữ: “Bảo Đại thập tam niên”. Phía bên phải và trái bể có những cột nhũ đá khổng lồ. Ngoài ra còn một hệ thống văn bia cổ bằng chữ Hán và chữ Nôm, có giá trị được lưu giữ tại chùa. Thắng cảnh chùa Thầy làm cho tất cả những ai đã đến đ ều có c ảm giác bình yên, thích thú nhưng lại rất lưu luy ến lúc ra đi. Vì v ậy ch ưa đ ến hội chính từ mùng năm đến mùng bảy tháng ba âm lịch nh ưng nh ững dòng người đổ về chùa Thầy ngày một thêm đông. Người đi dâng h ương kh ấn phật, cầu duyên, người vãn cảnh chùa đi, báo hiệu cho một mùa l ễ h ội đông vui, sôi nổi. Đặc điểm kiến trúc của chùa Vị trí Chùa Thầy là nơi lưu dấu tu hành và chứng kiến quãng đời sau cùng cho đến ngày thoát xác của vị cao tăng - Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Chùa được xây dựng trên thế đất hình con rồng. Chùa quay mặt về hướng Nam. Phía trước chùa, bên trái là ngọn Long Đẩu, lưng chùa và bên phải dựa vào núi Sài Sơn. Chùa quay mặt về hướng Nam, trước chùa, nằm giữa Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ rộng mang tên Long Chiểu hay Long Trì (ao Rồng). Sân có hàm rồng Xung quanh chùa có hai dãy hành lang, phía sau có lầu chuông, lầu trống. Phía trước chùa là một sân rộng nhìn ra hồ Long Chiểu, tạo thành hàm của rồng trước trồng hai cây gạo, nhưng hiện tại hai cây gạo đã chết, được thay bởi cây đa. Từ sân này có hai cầu là Nh ật Tiên và Nguy ệt tiên nối sang hai bên, tạo thành hai râu rồng. Hai cầu này do Phùng Khắc SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH ̃ Trang 19
  20. Lich sử kiên truc Viêt Nam ̣ ́ ́ ̣ GVHD: Võ Thị Vỹ Phương Khoan xây vào năm 1602. Cầu Nhật Tiên nối sang một hòn đảo nh ỏ, trên đảo có đền thờ Tam phủ. Cầu Nguyệt Tiên nối vào đường lên núi. Giữa ao Long Chiểu có thủy đình là viên ngọc giữa mi ệng r ồng. Đây cũng là nơi diễn ra trò múa rối nước. Từ Đạo Hạnh đ ược cho là ông tổ của hình thức biểu diễn dân gian này. Bố cục Chùa Thầy gồm ba tòa song song với nhau gọi là chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng. Giữa chùa Hạ và chùa Trung có ống muống nối với nhau, tạo thành thế hạ công thượng nhất. Đây là một ngôi chùa tiền Pật hậu Thánh linh thiêng và đẹp đẽ, đánh dấu sự hội nhập giữa tín ngưỡng bản địa với Phật giáo, giữa tính chất từ bi của Phật với sự linh thiêng của Thánh. Đây cũng là kiểu kiến trúc ở chùa Nền (Đản Cơ Tự)cùng nằm trong hệ thống chùa liên quan đến Ngài. Chùa Th ầy được biểu hiện bằng một cấu trúc hoàn chỉnh gắn kết giữa kiến trúc chùa với một cung Thánh nối vào phía sau tòa nhà Tam Bảo trên cùng m ột tr ục. Cung Thánh là một không gian đóng kín, với diện tích nhỏ để t ạo nên v ẻ huyền bí, linh thiêng. Toàn bộ kiến trúc chùa trải dài, ăn cao dần theo triền núi theo bố cục nội công ngoại quốc. Mặt bằng Chùa Thầy xưa nay không có Tam quan, bởi thế không có đường vào mặt trước. Đó cũng là đặc điểm riêng của kiến trúc chùa Thầy Những tòa chính của chùa Thầy được xây trên nền rất cao, thấp nhất là hành lang và nhà hậu cũng được làm trên nền cao 1m, SVTH: Nguyên Thị Ngân – Lớp: 09CVHH ̃ Trang 20
nguon tai.lieu . vn