Xem mẫu

  1. KIẾN THỨC BẢN ĐỊA (KTBĐ) VÀ VẤN ĐỀ THÍCH NGHI VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU (BĐKH) CỦA CÁC TỘC NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ (DTTS) Ở KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM Trần Văn Điền17, Hồ Ngọc Sơn1, Lưu Thị Thu Giang18 Tóm tắt BĐKH đe dọa nghiêm trọng đến phát triển bền vững và xóa đói giảm nghèo đối với các nhóm DTTS ở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam. Do vậy, cần phải có các giải pháp để thích nghi hiệu quả với BĐKH. Kiến thức bản địa trong hoạt động sản xuất nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển một nền nông nghiệp biết thích ứng và bền vững. Các kiến thức bản địa và truyền thống là những nguyên tắc cơ bản để cộng đồng các tộc người đương đầu với các sự biến đổi khí hậu và đa dạng khí hậu tại khu vực này. Đồng bào nơi đây cũng có một vốn kiến thức rộng về môi trường sống của mình được hình thành qua những quan sát và trải nghiệm cá nhân và từ kinh nghiệm chung của cộng đồng. Tuy nhiên, KTBĐ hiện vẫn chưa được công nhận trong nội dung của các chính sách ứng phó với BĐKH. Mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm củng cố vai trò của KTBĐ trong việc thích ứng với BĐKH nói chung và trong sản xuất nông nghiệp nói riêng. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng KTBĐ và kinh nghiệm của đồng bào khu vực này khá đa dạng và tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau như sử dụng nhiều loại cây trồng và giống vật nuôi, thay đổi lịch trồng trọt và thời vụ để phù hợp với thời tiết ngày một biến đổi, và sử dụng kinh nghiệm khi quan sát và dự báo các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt nhằm tránh thất thu trong sản suất. Tuy vậy, cần phải thấy rằng BĐKH có thể thay đổi mạnh mẽ tính thiết thực của một số vốn tri thức bản địa. Vì thế, trong bối cảnh BĐKH như hiện nay, cần có sự kết hợp giữa KTBĐ và tri thức khoa học (TTKH). Từ khóa: BĐKH, thích nghi/ thích ứng, KTBĐ, nông nghiệp. 17 Đại học Nông Lâm Thái Nguyên 18 Tổ chức quốc tế CARE tại Việt Nam 200
  2. 1. Đặt vấn đề Việt Nam là một trong những nước dễ bị 2. Phương pháp nghiên cứu tổn thương nhất bởi biến đổi khí hậu trên thế Dữ liệu thực nghiệm cho nghiên cứu này giới [4]. Chương trình Mục tiêu Quốc gia về được lấy chủ yếu từ 15 làng miền núi ở Bắc ứng phó với biến đổi khí hậu (2008) nhận thấy Kạn, Phú Thọ và Yên Bái ở khu vực miền núi rằng các khu vực miền núi phía Bắc có nguy cơ phía Bắc trong khoảng thời gian từ tháng 6 đến cao phải đối mặt với thiên tai, các thảm họa và tháng 8 năm 2013. Nơi đây là địa bàn sinh các tác động biến đổi khí hậu [6]. Đây là vùng sống của hơn 12 triệu người, thuộc hơn 30 dân đất của hơn 12 triệu người, thuộc hơn 30 dân tộc. Một số biện pháp được sử dụng để thu tộc. Dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói chung và thập thông tin, kiểm tra chéo kết luận và xây khu vực miền núi phía Bắc đặc biệt là những dựng một tổng quan chính xác về việc áp dụng nhóm dễ bị tổn thương nhất bởi biến đổi khí kiến thức bản địa để thích ứng biến đổi khí hậu. hậu. Các kỹ thuật sử dụng bao gồm có phỏng Khu vực miền núi phía Bắc là nơi sinh vấn, các nhóm tập trung và hội thảo cộng sống của hầu hết các nhóm dân tộc thiểu số đồng, và quan sát thực địa; cùng với các nhận sinh sống với tỷ lệ đói nghèo rất cao, ví dụ, định của các nhà hoạch định chính sách địa trong năm 2012 tỷ lệ hộ nghèo khu vực Đông phương và khu vực, quản lý tài nguyên, các Bắc là 17,5%, khu vực Tây Bắc là 28,5%. Biến nhà khoa học, các công trình đã được hoặc đổi khí hậu đặt ra một mối đe dọa đáng kể cho chưa được công bố, và các nguồn có sẵn thông việc đạt được các Mục tiêu Phát triển Thiên tin khác. Tổng số lượng người tham gia phỏng niên kỷ, trong đó có xóa đói giảm nghèo, và vấn tại nhà hoặc tại thực địa là 240. Các khu tiếp cận với các dịch vụ nhà nước như giáo dục vực nghiên cứu được chọn đại diện cho các và y tế. Một nghiên cứu gần đây của tổ chức vùng sinh thái khác nhau của miền núi phía CARE International tại Việt Nam (2010) cho Bắc Việt Nam. Các nhóm dân tộc thiểu số thấy thiên tai, thời tiết khắc nghiệt gây ra thiệt được lựa chọn trong nghiên cứu này đại diện hại nặng nề đến sản xuất nông nghiệp trên địa cho nhiều nhóm văn hóa, hệ thống canh tác bàn tỉnh Bắc Kạn, một trong những tỉnh nghèo khác nhau, do đó, cũng thể hiện được mức độ nhất ở khu vực miền núi phía Bắc [3]. Vì vậy, khác nhau về khả năng dễ bị tổn thương và khả cần phải thích ứng thành công với biến đổi khí hậu để đảm bảo giảm nghèo bền vững năng thích ứng. Trong khi người Tày, Thái, cho các nhóm dân tộc thiểu số ở khu vực miền Mường sống ở các khu vực thấp, gần đường núi phía Bắc của Việt Nam. giao thông chính và các trung tâm xã, người Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy rằng Dao và H’mông sống xa địa điểm trên. kiến thức bản địa và địa phương trong lĩnh vực 3. Kết quả và thảo luận sản xuất nông nghiệp, quản lý tài nguyên của 3.1. Sử dụng các giống cây trồng phổ biến đồng bào dân tộc thiểu số ở khu vực miền núi địa phương phía Bắc của Việt Nam vô cùng đa dạng. Một số giống cây trồng của người Tày Chính vốn kiến thức phong phú này đã giúp họ 1) Đậu xanh ‘Tiêu’ (tiếng Tày: Thúa Tày) cũng thích ứng với thay đổi môi trường địa và đậu xanh ‘Mốc’ phương [9, 8, 5]. Kiến thức bản địa là một kiến Đặc điểm chung: hạt nhỏ hơn hạt lai, chiều thức giá trị của một cộng đồng địa phương cụ cao cây khoảng 80cm và phải mất 45 ngày để thể trong một khu vực cụ thể [1]. So với kiến thu hoạch hạt giống lần một. thức khoa học "hiện đại", kiến thức bản địa có Đặc điểm thích nghi: cây trồng địa phương một lợi thế ở chỗ là thích nghi tốt hơn với đời này có sức đề kháng côn trùng và bệnh tật tốt. sống địa phương vì đây là nơi nó được xây Ngoài ra, đậu xanh 'Tiêu' có thể chịu hạn tốt. dựng, thử nghiệm và phát triển [2,7]. Kiến thức 2) Lạc “đỏ” (tiếng Tày: Thúa Đin Đeng). bản địa là một sản phẩm của việc quan sát tại Đặc điểm chung: Hạt nhỏ hơn và hương vị tốt vùng, thử nghiệm và học hỏi qua nhiều năm hơn so với các giống lai, có thể lưu trữ để của các cộng đồng. Vì vậy, kiến thức bản địa dùng cho vụ mùa tiếp theo. Mùa sinh trưởng là đóng một vai trò quan trọng trong thích ứng từ tháng Hai đến tháng Tám, mùa thu hoạch là với khí hậu của các cộng đồng. Trong bài báo từ tháng năm đến tháng mười một. cáo này, chúng tôi nêu bật tầm quan trọng của Đặc điểm thích nghi: chịu hạn tốt, có thể được kiến thức bản địa trong việc thích ứng biến đổi trồng xen với ngô trong các lĩnh vực đất khô. khí hậu của các nhóm dân tộc thiểu số ở miền 3) Lúa nếp ‘Đít Đen’ (tiếng Tày: Nua cuốn núi phía Bắc của Việt Nam. đăm) 201
  3. Đặc điểm chung: Chiều cao cây là 1-1,1 m, 3) Bí ngô ngếp (Tiếng Dao: Nhun Buột) hạt hình tròn, thường được trồng vào tháng Đặc điểm chung: là loại cây thân leo. Thường Sáu và thu hoạch vào tháng Mười Một. được trồng trên nương rẫy hoặc trong vườn Đặc điểm thích nghi: cần ít phân bón và nước hơn nhà. Qủa có màu vàng xanh, hình cầu, và nặng các giống lúa khác; đề kháng tốt với bệnh tật. 2-3 kg mỗi quả. Hương vị ngon nên có nhu 4) Gạo nếp ‘Nếp cái Hoa Vàng’ (tiếng Tày: cầu thị trường cao. Nua lương) Đặc điểm thích nghi: chịu được hạn; thích Đặc điểm chung: Chiều cao cây khoảng 1,1- hợp để trồng tại các ruộng khô vào mùa đông. 1,2 m. Hạt có hình bầu dục, màu vàng-nâu. 4) Gạo nếp vàng (Tiếng Dao: Biào Buột Thích hợp trồng trên nương và ruộng ướt. Viàng) Đặc điểm thích nghi: Giống lúa này có tính Đặc điểm chung: giống lúa này được trồng chịu hạn cao. Cây con có thể trồng vào đất trên đồi (đốt nương làm rẫy trồng trọt).Thân muộn tối đa 40 ngày trong trường hợp ruộng cứng và cao 1,1-1,2 m. chưa sẵn sàng. Đặc tính này là một lợi thế Đặc điểm thích nghi: cây trồng này chịu hạn trong bối cảnh của những năm hạn hán. tốt. Khi hạn hán, năng suất chỉ giảm khoảng 5) Ngô nếp (Tiếng Tày: Bắp nua) 30% trong khi giống lúa khác có thể mất trắng. Đặc điểm chung: Chiều cao cây khoảng 1,6- Ngoài ra, có khả năng chống chọi sâu bệnh; 1,7 m. Bắp nhỏ hơn so với ngô lai, hạt có màu thân khá cứng nên ít khi bị gió làm đổ. trắng hơi vàng. Loài này thích hợp trồng trên Một số giống lúa của người H’mông đồi, ruộng khô và những cánh đồng trồng lúa 1) Lúa cạn: (H’mông name: Mè sua) vụ mùa. Mùa sinh trưởng từ tháng ba đến Đặc điểm chung: thân cây cao, bông lớn, và tháng sáu. hạt hơi đỏ; cấy vào tháng 6 và thu hoạch vào Đặc điểm thích nghi: Giống ngô này là chịu tháng 11. hạn tốt, và đòi hỏi ít phân bón. Đặc điểm thích nghi: có gốc rễ chính lớn và 6) Chuối ‘Tây’ dài nên hút được nhiều nước hơn và chịu được Đặc điểm chung: giống chuối 'Tây' này hạn hán rất tốt; dễ cấy trên nhiều loại đất khác thường được trồng ở Chợ Mới trong khoảng nhau; chống chọi sâu bệnh tốt. 80 năm nay. Cây cao và lớn hơn chuối thường. 2) Ngô ta trắng (tiếng H’mông : Po cừ đơ) Đặc điểm thích nghi: giống chuối này là thích Đặc điểm chung: Thân cây cao khoảng 1,7 m, hợp với nhiều loại đất (đồi, gần suối, hay cánh có gốc lớn và khỏe. Bắp có hạt màu đen và đồng khô hạn); chịu hạn tốt và có khả năng để trắng, với tỷ lệ là 50:50. Năng suất tương duy trì độ ẩm trong đất. đương ngô lai nhưng thời gian sinh trưởng dài Một số giống cây trồng của người Dao hơn (7 tháng). 1) Ngô ta (Tiếng Dao: Mẹ pèng) Đặc điểm thích nghi: rễ mọc từ thân cây, cao Đặc điểm chung: Chiều cao cây khoảng 1,8- 30 cm so với mặt đất do đó chịu gió rất tốt; 2m; bắp ngắn hơn so với bắp lai lai. Hạt có chịu lạnh tốt, do đó rất thích hợp cho các khu màu trắng hơi vàng; được trồng chủ yếu trên vực lạnh như huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái. các ngọn đồi. Mùa sinh trưởng là từ tháng 6 3) Ngô nếp ( tiếng H’mông : Po cừ lẩu) đến tháng 7, thu hoạch vào tháng tháng 11. Đặc điểm chung: thân cao, hạt mềm, hạt giống Đặc điểm thích nghi: chịu hạn tốt. Ví dụ, trong có thể được sử dụng cho các bữa ăn hàng ngày. thời gian hạn hán, trong khi các cây trồng khác Thường được trồng trong ở đất thấp, nhưng có có thể bị ảnh hưởng thì giống ngô ta này vẫn thể được trồng ở các nương rẫy ẩm. Thời gian còn khả năng ra hạt bình thường. sinh trưởng là 5 tháng. 2) Đậu xanh “trơn” (Tiếng Dao: Tọc meng) Đặc điểm thích nghi: giống ngô chịu lạnh và Đặc điểm chung: Cành nhỏ nhưng khá cứng. ướt tốt. Ví dụ, khi đất trồng ẩm và kéo dài, ngô Hạt nhỏ hơn và cứng hơn đỗ thường; được lai có thể chết nhưng ngô địa phương này vẫn trồng vào tháng 6 và thu hoạch quả 3 lần mỗi phát triển rất tốt, thậm chí rễ phát triển tốt hơn. vụ. Nghiên cứu chỉ ra rằng người H’mông , Dao Đặc điểm thích nghi: giống đậu này chịu được và Tây vẫn sử dụng nhiều loại cây trồng của hạn; là một loại cây họ đậu nên có thể làm địa phương. Tuy nhiên, người Thái và người giàu cho loại đất và là một loại cây rất tiềm Mường không sử dụng bất kỳ loại cây trồng năng để trồng tại các cánh đồng lúa một vụ do địa phương nào như gạo và ngô chẳng hạn tuy thiếu nước vào mùa đông. nhiên họ vẫn sử dụng một số loại rau của vùng như bí ngô, rau bina (rau muống) hoặc một số loài gia súc, gia cầm như gà hoặc heo. Lý do 202
  4. là vì năng suất thấp, và thường phù hợp với hết sức quan trọng khi biến đổi khí hậu đang nương rẫy. Trong thực tế, người dân Thái and diễn ra. Mường sống gần tuyến đường chính và các 5. Kết luận trung tâm xã do đó họ thường trồng lúa nước, Rủi ro khí hậu đã có tác động sâu sắc đến và có sinh kế đa dạng hơn. cuộc sống của các nhóm DTTS ở khu vực miền 3.2. Kinh nghiệm và kiến thức địa phương núi phía Bắc của Việt Nam. Cộng đồng địa về dự báo thời tiết phương đã phản ứng bằng nhiều cách. Trong số Nói chung, đồng bào dân tộc thiểu số ở các biện pháp thích ứng, việc sử dụng kiến thức khu vực miền núi phía Bắc của Việt Nam vẫn bản địa như các giống cây trồng địa phương, giàu kinh nghiệm quan sát và dự báo thời tiết kinh nghiệm trong dự báo thời tiết về cảnh báo và để lập kế hoạch để tránh mất mát do thiên sớm, và trồng trọt đã được chứng minh là rất hiệu tai. Ví dụ, người Tày ở Bắc Kạn quan sát sự quả trong một số hoàn cảnh. Các giống cây trồng phát triển của nấm đất và biết khi nào cơn mưa địa phương cũng bộc lộ được khả năng thích đang đến. Ngoài ra, người dân địa phương có nghi với thời tiết và môi trường địa phương như thể quan sát các cử động của các con vật để dự hạn hán, thời tiết lạnh, đầu vào thấp và bộc lộ báo thời tiết và thời tiết khắc nghiệt. Ví dụ, nếu được tính dễ dàng canh tác của mình. Những lợi vào đầu năm nay, nếu thấy loài ong bắp cày thế của cây trồng, giống vật nuôi địa phương có ý (thường xây dựng tổ của chúng trên các cành nghĩa quan trọng trong bối cảnh biến đổi khí hậu. chóp) nay xây tổ ở bụi cây thấp hơn, thì khả Biến đổi khí hậu dự kiến sẽ tăng cường độ và tần năng cao năm nay có cơn bão lớn. Bên cạnh số có thể hạn hán, lũ lụt và giá lạnh. Nghiên cứu kinh nghiệm quan sát và dự báo thời tiết, người cho thấy người dân Tày, Dao và H’mông vẫn sử Tày ở Bắc Kạn có kinh nghiệm về trồng các dụng cây trồng địa phương nhiều hơn so với loại cây dựa trên lịch thời vụ của vùng mình. người Thái và người Mường, và những giống Ví dụ, người Tây thường sử dụng các dấu hiệu cây này có khả năng thích nghi tốt với hạn hán và của sự ra hoa của cây Melia tại nơi sinh sống thời tiết lạnh. Lý do giải thích điều này có lẽ là để trồng đậu xanh, khi cây bắt đầu ra búp thì người Dao và người H’mông sống ở các khu đó là thời gian để trồng ngô và đậu khác. vực cao hơn, xa đường và trung tâm xã, sinh kế Người Dao có kinh nghiệm quan sát cua suối của họ dựa nhiều hơn vào nông nghiệp, đặc biệt để dự báo thời tiết. Ví dụ, nếu cua bò ra khỏi suối là canh nương rẫy trong khi người Mường và và leo lên đồi, nó rất có khả năng lũ lụt đang đến. người Thái sống ở chân đồi, gần đường và trung Tương tự như vậy, nếu họ thấy rêu suối nổi thì trời tâm xã và trồng lúa là chính. Đối với người Tày, sẽ mưa trong khoảng 5 ngày tới. kết quả mang tính hỗn hợp hơn. Ví dụ, những Những người H’mông có kinh nghiệm cộng đồng nào sống gần đường chính và có quan sát sên. Ví dụ, nếu họ nhìn thấy chúng nhiều nguồn thu nhập ngoài nông nghiệp sẽ có ít leo lên mỏm đá, thì mưa lũ đang đến. Theo kinh nghiệm trồng trọt các giống và sử dụng người Thái, những năm mà giống xoài ra quả phương pháp canh tác địa phương. Còn đồng bào sai thường có mưa bão nghiêm trọng và các sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp nương rẫy, thì cơn bão thường đến khi các loại hoa quả vào họ vẫn có một lượng kiến thức lớn và mang tính mùa chín (tháng Sáu và tháng Bảy). Theo chất truyền thống, địa phương liên quan cây người Mường, nếu ong bắp cày xây dựng tổ trồng và phương pháp canh tác. ong của họ tại bụi cây thấp hơn, năm đó có các Tuy nhiên, điều quan trọng là phải nhận đợt bão lớn. thấy rằng chiến lược đối phó và thích ứng Ở khu vực miền núi phía Bắc của Việt truyền thống có thể giúp cộng đồng các dân tộc Nam, việc tiếp cận thông tin và dự báo thời tiết chuẩn bị cho các tình huống được cho là rủi ro, còn hạn chế. Vì vậy, việc sử dụng các kinh không nhất thiết phải cho những rủi ro bất trắc nghiệm của người dân trong việc quan sát và và có thể khác nhau do BĐKH gây ra. Có khả dự báo thời tiết và sử dụng nó để lên kế hoạch năng lớn là BĐKH đã thay đổi vai trò thiết sản xuất đem lại hiệu quả trong nhiều trường thực của ít nhất một số kiến thức truyền thống hợp. Khí hậu và thời tiết địa phương đa dạng của người dân bản địa [7]. Vì vậy, cần phải kết nên kinh nghiệm địa phương là quan trọng để hợp kiến thức truyền thống và kiến thức khoa phản ứng kịp thời. Tuy nhiên, cần phải nhận ra học trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Chính phủ BĐKH có thể làm thay đổi ý nghĩa trên của ít có thể nâng cao khả năng thích ứng đối với nhất một vài kiến thức truyền thống của người BĐKH cho các nhóm dân tộc thiểu số bằng dân bản địa. Vì vậy, việc kết hợp của kiến thức cách tăng khả năng tiếp cận thông tin thời tiết truyền thống và kiến thức khoa học có vai trò và dự báo cảnh báo sớm. 203
  5. Tài liệu tham khảo: [1] Agrawal, A., 1995. Rút ngắn khoảng cách giữa kiến thức bản địa và kiến thức khoa học, Sự phát triển và thay đổi, 26 (3):. 413-439. [2] Berkes, F., Colding, J. và Folke, C., 2000. Tìm hiểu lại kiến thức sinh thái truyền thống như kiểm soát thích ứng, ứng dụng sinh thái, 10 (5):. 1251-1262. [3] Tổ chức CARE quốc tế tại Việt Nam, 2010. Dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc của Việt Nam:. Khả năng dễ bị tổn thương và thích ứng với tác động của biến đổi khí hậu [4] Dasgupta, S., Laplante, B., Meisner, C., Wheeler, D. và Yan, J., 2007. Tác động của nước biển dâng đến các nước đang phát triển: Một phân tích so sánh, Nhóm nghiên cứu chính sách số 4136 của Ngân hàng Thế giới, tháng 2 năm 2007, Ngân hàng Thế giới. [5] Trần Văn Điền, 2011. Mô hình nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu sử dụng kiến thức bản địa tại xã Thanh Vân và Mai Lập huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn, Báo cáo nghiên cứu, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Nông Lâm nghiệp miền núi phía Bắc (ADC ), Đại học Thái Nguyên. [6] Chính phủ Việt Nam, năm 2008. Chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu, Bộ TN & MT. [7] Macchi, M., Oviedo, G., Gothei, S., et al., 2008. Các dân tộc bản địa và biến đổi khí hậu, Tạp chí IUCN, IUCN. [8] Hồ Ngọc Sơn, 2011. Khả năng dễ bị tổn thương và thích ứng của người dân bản địa ở phía bắc Việt Nam, báo cáo trình bày tại Hội thảo quốc tế "người dân địa phương, những người bị thiệt thòi và biến đổi khí hậu", thành phố Mexico, Mexico, 19-21 tháng 7 năm 2011. [9] Hoàng Xuân Tý, Lê Trọng Cúc năm 1998. Kiến thức bản địa của người dân vùng cao trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. 204
nguon tai.lieu . vn