Xem mẫu

  1. CHƯƠNG 3 ĐỘNG LỰC HỌC BỜ BIỂN 3.1 SÓNG VỠ VÀ CÁC ĐẶC TRƯNG SÓNG VỠ Sóng tiếp nhận năng lượng từ gió, khi gió thổi trên mặt biển. Bão có thể truyền một lượng rất lớn năng lượng tạo thành sóng, các sóng này sau đó chuyển động hàng ngàn kilomét tới vùng bờ biển. Năng lượng sóng, được tích lũy trên một vùng bờ biển rộng, khi đi tới dải sóng vỡ ở gần bờ sẽ được giải phóng. Phần lớn năng lượng sóng sẽ tiêu tán do hiện tượng sóng vỡ xảy ra ở gần bờ, tại thời điểm sóng vỗ lên các vách đá hoặc lên trên bãi biển cát. Đây là nguồn năng lượng quan trọng nhất, hơn tất cả các nguồn năng lượng khác có tác dụng tới vùng bờ biển; và cũng là nguyên nhân chính tạo nên dòng chảy ở gần bờ và vận chuyển trầm tích; cũng như tham gia vào quá trình khống chế sự diễn biến hình thái bờ biển. Chương 3 sẽ giới thiệu quá trình tiêu tán năng lượng sóng ở gần bờ. Chương này sẽ xem xét hiện tượng sóng vỡ, các đặc trưng của sóng vỡ. Đặc biệt là sự hình thành dòng chảy do hiện tượng sóng vỡ trong vùng sóng đổ. Các hiện tượng phức tạp hơn có liên quan tới phân bố lưu tốc của dòng chảy dọc bờ trên chiều rộng của vùng sóng vỡ, và phân bố lưu tốc của dòng chảy dọc bờ của một phổ sóng sẽ được giới thiệu. Phần cuối của chương 2 sẽ đánh giá sự tương tác giữa dòng chảy dọc bờ do sóng vỡ gây ra với các dao động mực nước ven bờ và ảnh hưởng của gió và thủy triều tới dòng chảy dọc bờ. CÁC DẠNG SÓNG VỠ K hi sóng chuy ển đ ộ ng t ới g ần b ờ v à đ i vào vùng nướ c nông có đ ộ sâu b ằng xấp x ỉ h ai l ần chi ều cao sóng, do ả nh hưở ng c ủ a đ ị a hình đ áy, sóng trở n ên mấ t ổ n đ ịnh. Khi đ ỉnh sóng v ượ t qua chân sóng và mất cân bằng, sóng b ị đổ (hay còn g ọ i là sóng vỡ ), và tan thành hàng ngàn bong bóng nướ c và bọ t khí (hình 3-1). Ngườ i ta thườ ng cho rằng, sóng v ỡ l à vì chúng b ị k éo Hình 3-1 Sóng vỡ dạng bổ nhào, một trên đ áy bi ể n cho đ ến khi chuyể n đ ộ ng dạng sóng vỡ trong tự nhiên, sóng bị h ướ ng v ề p hía trướ c b ị v ấp và đ ỉnh cuộn tròn và cuốn về phía trước. sóng đổ n hào xuố ng d ướ i. Trong th ự c t ế k hông đ úng nh ư v ậy. 56
  2. Hình 3-2 Các dạng sóng đổ xảy ra Hình 3-3 Sóng vỡ trên bãi biển, hình ở gần bờ: sóng bạc đầu, sóng bổ dạng sóng được chụp lại bằng máy ảnh nhào, sóng vỗ bờ có tốc độ chụp nhanh trong phờng thí nghiệm. Mũi tên trên hình vẽ chỉ vị trí khi sóng bắt đầu vỡ C ác nghiên cứu thự c nghiệ m đượ c tiến hành vớ i đ iề u ki ện ma sát rất nhỏ v à các nghiên c ứ u trên mô hình tính biến d ạng sóng đã ch ỉ r a r ằng, cùng vớ i mộ t d ạng sóng vỡ nh ư nhau, các tính toán phân tích có th ể bỏ q ua thành ph ần ma sát. Thự c tế là, sóng vỡ khi mái trước sóng trở nên quá dốc, nhất là ở phần sát đỉnh sóng, do vận tốc chuyển động của các chất điểm nước tại đỉnh sóng lớn hơn vận chuyển chuyển động của hình dạng sóng làm cho phần đỉnh dâng lên trước. Ba dạng sóng vỡ thông thường được thừa nhận (như hình 3-2) là sóng bạc đầu, sóng bổ nhào và sóng vỗ bờ (spilling, plunging, and surging). Sóng bạc đầu (spilling breakers) là các sóng dựng đứng từ từ cho đến khi đỉnh sóng mất ổn định và đổ xuống tạo thành đám bọt khí và bong bóng trắng xóa ở mặt trước sóng. Sóng bổ nhào (plunging breakers) là các sóng có mặt trước gần như thẳng đứng, mũi sóng cuộn lên trên và đổ nhào về phía trước tạo thành một tấm màn nước (hình 3-1 và 3-2). Sóng vỗ 57
  3. bờ (surging breakers) dựng đứng như thể sắp đổ nhào, nhưng vì chân sóng vỗ vào tới mặt bãi thế nên đỉnh sóng bị đổ sập và biến mất ngay sau đó. Theo Galvin (1968) thì có 4 dạng sóng vỡ khác nhau (như hình 3-3), ngoài 3 dạng sóng đã được nêu ở trên thì còn một dạng sóng vỡ khác là sóng đổ (collapsing breaker), là dạng vỡ trung gian giữa sóng bổ nhào và sóng vỗ bờ. Trong thực tế các dạng sóng vỡ xảy ra liên tục, dạng này nối tiếp dạng khác nên rất khó áp dụng kiểu phân loại này. Hơn thế nữa, trong cùng một ngày, khi quan sát trên bãi biển, thông thường có thể nhìn thấy các dạng sóng vỡ khác nhau, lúc là sóng bạc đầu, khi là sóng bổ nhào. Các dạng sóng vỡ này phụ thuộc vào chiều cao của từng con sóng và sự tương tác giữa sóng với đáy biển nơi sóng vỡ. Nhìn chung, sóng bạc đầu (spilling breakers) hay có khuynh hướng xảy ra ở bờ biển có độ dốc nhỏ trong điều kiện sóng có độ dốc lớn; sóng bổ nhào thường xuất hiện ở những bờ biển có bãi dốc và sóng có độ dốc trung bình; sóng vỗ bờ hay xảy ra ở bờ biển rất dốc và độ dốc sóng nhỏ. Dựa trên cơ sở quan sát sóng vỡ trong máng sóng tại phòng thí nghiệm, Galvin (1968) đã dự đoán được gần đúng loại sóng vỡ căn cứ vào tỷ số (H0 /L0S2) hay Hb/gT2S, trong đó chỉ số 0 nhằm chỉ các tham số sóng ở vùng nước sâu, Hb là chiều cao sóng vỡ, S là độ dốc của bãi biển. Khi tỷ số không thứ nguyên trên tăng, dạng sóng vỡ sẽ thay đổi từ sóng vỗ bờ đến sóng bổ nhào rồi sóng bạc đầu. Tỷ số trên được Galvin sử dụng bằng cách kết hợp độ dốc bãi S với tỷ số độ dốc sóng, được biểu biễn bằng biểu thức H0/L0 hoặc Hb/gT2 (trong đó L0 ≈ gT2/2π). Battjes (1974) đã sắp đặt lại tỷ số này thành dạng biểu thức với các tham số sóng nước sâu và gần bờ, tỷ số này sau này được gọi là chỉ số Iribarren - hay còn gọi là chỉ số sóng vỡ S Chỉ số sóng vỡ ở vùng nước sâu: ξ 0 = (3-1a) 1 ( H 0 / L0 ) 2 S Chỉ số sóng vỡ ở vùng sóng đổ: ξ b = (3-1b) 1 ( H b / L0 ) 2 Sau khi tham khảo số liệu phân loại dạng sóng vỡ của Galvin (1968), có sử dụng đến chỉ số Iribarren, Battjes (1974) đã đưa ra các giới hạn chỉ số sóng vỡ như sau: ξ0 < 0,5 ξb < 0,4 Spilling (sóng bạc đầu) 0,5 < ξ0 < 3,3 0,4< ξb < 2,0 Plunging (sóng bổ nhào) ξ0 > 3,3 ξb > 2,0 Surging (sóng vỗ bờ) 58
  4. Hình 3-4. Trạng thái sóng vỡ tới hạn trong vùng nước nông, tỷ số chiều cao sóng vỡ trên độ sâu sóng vỡ phụ thuộc vào độ dốc sóng và độ dốc bãi biển. Biểu đồ 3-4 thể hiện trên cả 2 trục tỷ lệ 1/γb = hb/Hb và γb = Hb/hb,. "Độ dốc" sóng được biểu diễn bằng Hb/gT2, giá trị này bằng “độ dốc sóng” ở vùng nước sâu Hb/L0 nhân với hệ số 2π. GI ỚI HẠN SÓNG VỠ VÀ CHIỀU CAO SÓNG VỠ Như đã giới thiệu trong chương hai, theo lý thuyết sóng tuyến tính của Airy, các sóng biên độ nhỏ sẽ mất ổn định và vỡ khi tỷ số γ b = H b /h b đạt tới giá trị giới hạn, mặc dù độ lớn của giá trị giới hạn này (γ b ) vẫn còn gây nhiều tranh cãi về giá trị chính xác của nó (nằm trong khoảng từ 0.73 đến 1.03). Giá trị thực đo của giới hạn sóng vỡ γ b của các sóng biên độ nhỏ được tiến hành trên các máng sóng trong phòng thí nghiệm cho thấy nó dao động rất lớn, và phụ thuộc chủ yếu vào độ dốc của bãi biển (Ippen and Kulin,1954; Kishi and Saeki,1966). Giá trị giới hạn của γ b khi sóng vỡ phụ thuộc vào cả độ dốc bãi biển và độ dốc của sóng ở vùng nước sâu. Với một con sóng có độ dốc sóng đã biết, độ dốc bãi biển càng lớn thì giá trị của γ b = H b /h b c àng cao t ạ i th ờ i đ i ể m sóng v ỡ . Các nghiên c ứ u g ầ n đ ây c ủ a Kaminsky and Kraus (1993) trên cơ sở xem xét 17 tập số liệu thu được qua một loạt nghiên cứu khác nhau trong phòng thí nghiệm đã đưa ra công thức kinh nghiệm: γ b = 1, 20 ξ00,27 (3.2) Tính toán giới hạn sóng vỡ phụ thuộc vào chỉ số Iribarren mô tả dưới dạng các tham số sóng ở vùng nước nông trong phương trình (3.1a), bao gồm độ dốc bãi biển và độ dốc sóng ở vùng nước sâu. Tỷ số sóng vỡ giới hạn γb = Hb/hb được sử dụng trong rất nhiều ứng dụng. Ví dụ như dùng để phân tích sự biến dạng sóng khi chúng truyền từ vùng nư ớc sâu vào bờ. Phân 59
  5. γ b , thời điểm giả thiết là sóng mất ổn định và vỡ. Một ứng dụng khác có liên quan tới thiết kế công trình tường biển hoặc đê chắn sóng. Trong trường hợp này, chiều cao sóng lớn nhất có thể xuất hiện, mà có thể ảnh hưởng tới công trình, của 1 con sóng thiết kế, chịu sự chi phối của tỷ số sóng vỡ γ b = Hb/hb bị vỡ ngoài khơi. Một số ứng dụng khác lại cần tính toán chiều cao sóng vỡ từ các tham số sóng nước sâu mà không cần xét tới toàn bộ quá trình biến dạng sóng và hiệu ứng nước nông như đã mô tả ở chương trước. Công thức dạng này được Munk (1949) đề xuất trước tiên với giả thiết coi thông lượng sóng (energy flux) tại vùng sóng vỡ và thông lượng sóng tại vùng nước sâu là như nhau. Munk ứng dụng lý thuyết sóng đơn tại vùng sóng vỡ với giới hạn sóng vỡ γ b = H b/hb = 0.78 và sử dụng lý thuyết sóng của Airy để tính toán mạch động năng lượng sóng ở vùng nước sâu, từ đó đưa ra tương quan: Hb 1 = (3.3) H 0 3,3 ( H 0 / L0 )1 / 3 giữa chiều cao sóng vỡ Hb tương ứng với chiều cao sóng H0 ở vùng nước sâu và độ dốc sóng ở vùng nước sâu H 0 /L 0. Phương trình (3.3) được biểu diễn trên hình 3-5 cùng với các số liệu đo đạc sóng vỡ tại trên hiện trường và trong phòng thí nghiệm của Munk (1949). Có thể thấy rằng tương quan này là khá phù hợp với các số liệu thực đo khi giá trị độ dốc sóng H0/L0 nhỏ, nhưng lại rất không phù hợp với độ dốc sóng lớn. Komar and Gaughan (1972) cũng đã kiểm chứng lý thuyết sóng Airy khi dự báo chiều cao sóng vỡ, mặc dù trong thực tế thì lý thuyết sóng Airy không thể ứng dụng được trong điều kiện này. Trị số của giới hạn sóng vỡ γb = H b/hb , được xác định từ các quan trắc ngoài thực địa chứ không được lấy bằng 0.78 theo lý thuyết sóng biên độ nhỏ như phương pháp của Munk đã trình bày ở trên. Từ các đánh giá về mạch động năng lượng ở vùng nước sâu và tại vùng sóng vỡ theo lý thuyết sóng Airy, Komar and Gaughan đã đi đến phương trình Hb 0,563 = (3.4) H 0 ( H 0 / L0 ) 1 / 5 Lúc này chiều cao sóng vỡ là hàm của độ dốc sóng với số mũ 1/5; khác với chỉ số mũ 1/3 trong phương trình (3.3) của Munk. Tương quan của Komar and Gaughan được lấy sao phù hợp với số liệu thực đo tại thực địa và trong phòng thí nghiệm. Trong công thức bán kinh nghiệm (3.4), hằng số 0.563 là kết quả tương ứng khi đường tương quan phù hợp với các điểm thực đo nhất. Trên hình 3.-5, phương trình 3.4 được biểu diễn dưới dạng đường liền nét, và nó được xem như là phù hợp với toàn bộ dải giá trị của độ dốc sóng H 0 / L 0 , và cho kết quả tốt hơn so với phương trình 3.3 của Munk. 60
  6. Hình 3-5 Đồ thị tương quan giữa chiều cao sóng vỡ với độ dốc sóng ở vùng nước sâu Có thể thấy rằng, các nghiên cứu kể trên đều có một điểm hạn chế là chỉ dựa vào các số liệu đo đạc trong các điều kiện sóng đã bị khống chế trong phòng thí nghiệm. Trong các nghiên cứu của LeMehaute và Koh (1967); Kaminsky và Kraus (1993), tỷ số H 0 / L 0 , có giá trị của hàm mũ lấy theo kinh nghiệm là ¼, là giá trị trung gian giữa 2 số mũ 1/3 và 1/5 đã nhắc tới ở phần trước. Trên cơ sở phân tích lại các số liệu của Iversen (1952), LeMehaute và Koh cũng phát hiện ra sự phụ thuộc của chiều cao sóng với độ dốc bãi biển, nhưng điều này lại không được chứng tỏ trong các phân tích tiếp theo. Qua phân tích lại 17 tập số liệu trong phòng thí nghiệm của mình, Kaminsky và Kraus đã đưa ra một phương trình tương quan sử dụng các hệ số kinh nghiệm có dạng như sau: Hb 0,46 = (3.5) H 0 ( H 0 / L0 ) 0, 28 Phương trình tương quan 3.5 đã cho kết quả phù hợp nhất với các số liệu đo đạc hiện có trong phòng thí nghiệm, nhưng có thể thấy trong hình 3-5, khi so sánh với các số liệu thực đo tại hiện trường của Munk (1949) thì tương quan này lại cho kết quả thiên lớn (lớn hơn khoảng 25% so thực tế), chiều cao sóng vỡ dự báo do vậy lớn hơn trong thực tế. Phương trình tương quan (3.4) của Komar và Gaughan (1972) được xem như là phù hợp nhất với các số liệu thực đo trong phòng thí nghiệm và cả ngoài thực địa. Nếu loại bỏ các thành phần không thứ nguyên, phương trình Komar and Gaughan (1972) sẽ có dạng mới như sau 1 2 H b = 0,39 g (3.6) (T H 02 ) 5 5 61
  7. Phương trình này biểu diễn tương quan giữa chiều cao sóng vỡ gần bờ và độ sâu nước tại vùng nước sâu H0 và chu kỳ sóng T. Hệ số hằng số 0,39 là hệ số kinh nghiệm được lấy từ đường tương quan phù hợp nhất với các số liệu thực đo của Munk (1949). Phương trình tương quan này cũng được biểu diễn trên hình 3-6 và có sự so sánh với các số liệu trong phòng thí nghiệm và số liệu thực đo ngoài thực địa của Munk, cũng như các số liệu đo đạc của Weishar và Byrne (1978). Chuỗi số liệu tổng hợp kéo dài gần như trên phạm vi hàm bậc ba của chiều cao sóng vỡ cho thấy được tính xác thực về năng lực tính toán dự báo của các phương trình tương quan trên. Hình 3-6 Kiểm chứng phương trình (3.6) của Komar và Gaughan (1972) tính toán dự báo chiều cao sóng vỡ từ các thông số sóng ở vùng nước sâu, bằng cách so sánh với các liệu trong phòng thí nghiệm và số liệu thực đo ngoài hiện trường 3.2 DÒNG CHẢY HÌNH THÀNH DO SÓNG Ở VÙNG GẦN BỜ K hi sóng chuy ển đ ộ ng tớ i g ần b ờ v à vỡ t rên b ờ b i ể n dố c, chúng t ạo thành dòng ch ảy ở v ùng gầ n bờ , các dòng ch ảy này biến đ ổ i d ướ i nhiều d ạng khác nhau tùy thu ộ c vào đ ặ c đ i ể m sóng và trạ ng thái bờ b i ển (Basco,1982, 1983; Komar and Oltman-Shay,1990). Các dòng ch ảy g ần b ờ có th ể đ ạ t tớ i đ ộ lớ n đáng k ể , gây nguy hiể m cho nh ững ng ườ i b ơ i trong khu vự c mà nó hình thành. Các 62
  8. dòng ch ảy g ần bờ sẽ t r ở n ên đ ặ c bi ệ t quan trọ ng khi chúng k ế t hợ p vớ i sóng và làm v ận chuy ển bùn cát ven bờ . Do đ ó nó là mộ t y ế u tố r ấ t quan trọ ng có vai trò khống ch ế s ự d i ễn bi ến và hình thái củ a bờ b i ển. T heo Komar, có hai h ệ th ố ng dòng ch ảy do sóng tạ o thành ở v ùng ven bờ chính, đ ó là (1) h ệ t hố ng dòng ch ảy tu ần hoàn bao gồ m dòng tiêu (dòng tách bờ ) kế t hợ p v ớ i dòng ch ảy d ọ c bờ và (2) dòng ch ảy dọ c b ờ hình thành khi sóng chuy ển độ ng t ớ i g ần b ờ t heo mộ t góc xiên so vớ i đườ ng bờ . Các h ệ thống dòng ch ảy trên đượ c mô t ả tươ ng ứ ng v ớ i hình 3-7(a) và hình 3-7(c). Hình 3-7(b) mô t ả d ạng dòng ch ảy trung gian giữ a hai h ệ t h ố ng dòng ch ảy đã nêu ở t rên. Tr ường dòng ch ảy có tác d ụ ng chi phố i dòng chảy tu ần hoàn ở g ần b ờ p hụ thuộ c ph ần lớn vào các sóng tớ i theo mộ t góc nghiêng so v ớ i đườ ng bờ . Khi sóng v ỡ v ớ i đườ ng đ ỉnh sóng th ự c sự song song v ớ i hướ ng đườ ng b ờ trung bình, dòng ch ảy đ ượ c hình thành có d ạng dòng tu ần hoàn nh ư hình 3-7(a). Dòng tiêu là mộ t thành ph ần của dòng tu ần hoàn; trong đ ó dòng ch ảy Hình 3-7 Trường dòng chảy quan trắc ở theo hướ ng v ề p hía biển tính từ gần bờ, phụ thuộc phần lớn vào góc sóng v ùng sóng vỗ . N ếu sóng vỡ t ạo vỡ (α b ) thành mộ t góc tươ ng đ ố i lớ n so v ớ i a) Khi góc giữ đường đỉnh sóng song song đườ ng b ờ , trong vùng sóng v ỡ s ẽ với đường bờ (αb = 0), dòng tuần hòa đơn h ình thành dòng ch ảy có hướ ng vị, bị chi phối bởi dòng tiêu có hướng về song song v ớ i đ ườ ng bờ v à b ị g iớ i phía biển. h ạn giữ a b ờ b i ển và d ả i sóng đ ổ c) Khi góc αb l ớ n, dòng ch ả y hình thành n h ư ở h ình 3-7(c). Dòng ch ảy này do sóng v ỡ có h ướ ng song song vớ i đ ặ c bi ệ t rấ t có ý ngh ĩ a khi nó gây đ ường b ờ nên hiện tượ ng v ận chuy ển bùn cát 63
  9. t heo hướ ng dọ c bờ . Nó có th ể v ận chuy ển bùn cát dọ c bờ b i ển trên quãng đườ ng hàng tr ă m kilômét. D ạ ng trườ ng dòng chả y trung gian, hình 3-7(b) th ườ ng xu ấ t hi ện khi sóng vỡ tạo vớ i đườ ng bờ mộ t góc nh ỏ h o ặ c khi tr ườ ng dòng ch ảy ở k hu v ự c gầ n bờ b ị chi phố i mạnh mẽ bở i đ i ều ki ện đ ị a hình đ áy biển. Các dòng chảy này cho biết hướng dịch chuyển vùng cát trên bờ biển và làm thay đổi hình dạng của đường bờ. Hình thái bờ biển thường phản ánh trường dòng chảy, và nó có sự khác biệt đáng kể giữa hai thành phần dòng chảy trong hình (3-7). Hình dạng bờ biển trở thành một yếu tố quan trọng có tác dụng khống chế và chi phối trường dòng chảy khi có mặt cả hai yếu tố là địa hình và dòng chảy. Cơ chế chung của việc hình thành dòng chảy gần bờ sẽ được xem xét ở phần tiếp theo. Nhưng chủ yếu sẽ xem xét việc hình thành dòng chảy theo hướng dọc bờ. Phần tiếp theo cũng sẽ xem xét sự tương tác giữa dòng chảy và hình thái bờ biển, nhưng vai trò của hình thái bờ biển sẽ được nhấn mạnh hơn ở chương tiếp theo DÒNG TIÊU VÀ DÒNG TUẦN HOÀN Mô tả chi tiết về hệ thống dòng chảy tuần hoàn được trình bày trên hình 3-8. Dòng tiêu là dạng dòng chảy có đặc trưng quan trọng nhất và có thể thấy được. Các dòng này thường mạnh và hẹp, có hướng chảy về phía biển và đi qua vùng sóng vỡ, thường có tác dụng vận chuyển các vật trôi nổi và bùn cát tạo thành những luồng dòng chảy có màu sắc hoàn toàn khác biệt với vùng nước ở xung quanh nó. Dòng tiêu có hướng chảy ra biển cũng chịu ảnh hưởng của sóng, do vậy mà sự xuất hiện của dòng tiêu đôi khi có thể thấy rất rõ khi trường sóng khúc xạ bị biến đổi. Dòng chảy trong nội bộ của dòng tiêu có thể đạt tới vận tốc lớn, các quan trắc về dòng chảy này cho thấy dòng chảy có hướng ra phía biển có thể rất mạnh và gây nguy hiểm cho những người đang bơi trong khu vực có dòng chảy. Dòng tiêu được nuôi dưỡng bởi các dòng chảy có hướng dọc bờ bên trong vùng sóng vỡ có độ lớn dòng chảy nhỏ nhất bằng 0 tại điểm giữa của hai dòng tiêu kế tiếp nhau, và đạt tới giá trị lớn nhất ngay tại điểm khi dòng tiêu đổi hướng ra phía biển (hình 3- 8). Dòng chảy dọc bờ Hình 3-8 Hệ thống dòng chảy tuần hoàn ngược lại được nuôi 64
  10. dưỡng bởi dòng chảy yếu hơn có hướng từ biển vào trong bờ bên trong dải sóng vỡ khi xảy ra sóng vỡ. Do vậy mà dòng tuần hoàn gần bờ bao gồm dòng chảy dọc bờ có tác dụng nuôi dưỡng các dòng tiêu; kéo dài qua dải sóng vỡ; khuyếch tán tại phần mũi dòng tiêu, và dòng chảy hồi quy từ ngoài vào trong bờ sẽ thay thế phần nước bị dịch chuyển khỏi bờ dưới tác dụng của dòng tiêu (Shepard and Inman, 1950a,1950b). Dạng lý tưởng nhất của dòng tuần hoàn là dòng chảy được hình thành trong đó có dòng tiêu có hướng vuông góc với bờ, dòng chảy trong vùng sóng vỡ có hướng dọc bờ nuôi dưỡng các dòng tiêu đều theo cả hai phía (hình 3-8). Tuy nhiên, các dòng tiêu thường cắt ngang dải sóng vỡ theo một đường chéo (hình 3-7(b)), và dòng chảy nuôi dưỡng dòng dọc bờ hoặc có hướng khác nhau hoặc có cường độ dòng chảy khác nhau. Các quan trắc đầu tiên về dòng tiêu được thực hiện bởi Shepard, Emery, và LaFond (1941). Các quan trắc này đã phát hiện ra rằng vận tốc của dòng tiêu và quãng đường mà nó chảy ra phía biển có quan hệ với chiều cao của sóng tới. Các nghiên cứu sau này còn cho thấy vị trí của dòng tiêu có thể bị chi phối bởi địa hình đáy vùng ngoài khơi, dòng tiêu nhìn chung thường xuất hiện bên ngoài vùng hội tụ sóng, bên ngoài vùng xuất hiện các sóng cao nhất. Shepard and Inman (1950a, 1950b) qua một loạt các quan trắc toàn diện ngoài hiện trường về dòng chảy tuần hoàn, đã nhận thấy rằng, mặc dù địa hình đáy biển và các ảnh hưởng của nó tới hiện tượng khúc xạ sóng có thể có những chi phối rất lớn tới vị trí của dòng tiêu dọc theo bờ biển, nhưng các dòng tiêu vẫn có thể xuất hiện tại các bờ biển thẳng, dài với địa hình đáy đồng đều. CƠ CHẾ HÌNH THÀNH DÒNG TIÊU Hình 3-9 Sơ đồ minh họa sự hình thành của dòng tuần hoàn do sự biển đổi chiều cao sóng vỡ theo hướng dọc bờ. Nó sinh ra sự biến thiên tương ứng của cao trình mực nước dâng do sóng trong dải sóng vỡ. Dòng chảy dọc bờ, chảy từ nơi có sóng và nước dâng cao tới nơi có sóng và nước dâng thấp. Đây là điểm hội tụ của dòng chảy và có sự đổi hướng của dòng tiêu chảy ra biển 65
  11. Sự hình thành của dòng tiêu được giải thích theo phương pháp hiện đại trên cơ sở phát triển các khái niệm về ứng suất tỏa của năng lượng sóng (radiation stress) của Longuet-Higgins và Stewart (1964). Theo những phân tích và giải thích đầu tiên của Bowen (1969a), dòng tuần hoàn chính là kết quả do sự biến thiên của chiều cao sóng theo hướng dọc bờ, sự biến thiên này sẽ sinh ra sự chênh lệch về mực nước tại các vị trí khác nhau dọc theo bờ biển. Cách giải thích này được hinh họa ở hình 3-9. Hay nói một cách đơn giản là dòng chảy dọc bờ sẽ chảy từ nơi có mực nước cao, ở vùng có chiều cao sóng và nước dâng lớn nhất tới nơi có có chiều cao sóng và độ cao nước dâng do sóng nhỏ hơn, tại nơi này dòng chảy dọc bờ sẽ hội tụ và đổi hướng chảy về phía biển để tạo thành dòng tiêu. Các phân tích của Bowen có xét tới cả việc khảo sát sự biến thiên của chiều cao sóng dâng và sóng rút theo dọc bờ biển cũng như thành phần dọc bờ của ứng suất tỏa (Syy). Chiều cao nước dâng do thành phần Sxx về phía bờ của ứng suất tỏa được cân bằng với gradient áp lực của của độ dốc mặt nước có hướng về phía biển ở vùng ven bờ. Biểu thức cân bằng lực được viết như sau: ∂η ⎛ 8 ⎞ ∂h = − ⎜1 + 2 ⎟ (3.7) ⎝ 3γ ⎠ ∂x ∂x trong đó độ dốc trên mặt cắt ngang của chiều cao nước dâng được ký hiệu bằng η, có tương quan trực tiếp với độ dốc của bãi biển S0 = ∂h/∂x, nhưng không phụ thuộc trực tiếp vào chiều cao sóng tới Tuy vậy, do các sóng lớn sẽ vỡ tại vùng nước sâu hơn các sóng nhỏ và do đó sóng dâng sẽ xuất hiện xa hơn về phía biển trên các vị trí dọc theo bờ biển nơi xuất hiện các sóng lớn hơn. Sự phụ thuộc của sóng dâng vào chiều cao sóng được phát hiện trên cơ sở các thí nghiệm tại máng sóng của Bowen (1969a). Mặc dù gradients trên mặt cắt ngang của sóng dâng được xấp xỉ bằng nhau cho cả các sóng lớn và các sóng nhỏ qua các tính toán theo phương trình (3.7), nhưng thực tế sóng dâng sẽ đạt tới cao trình lớn hơn về phía bờ đối với các sóng vỡ có chiều cao sóng lớn. Trong vùng sóng vỡ, mực nước trung bình về phía bờ, do các sóng lớn hơn khi vỡ tạo thành, sẽ cao hơn so với các sóng nhỏ. Do vậy, gradient áp lực sẽ hình thành và tạo thành dòng chảy dọc bờ biển từ nơi có sóng và nước dâng cao đến nơi có sóng thấp hơn ở lân cận. DÒNG CHẢY DỌC BỜ HÌNH THÀNH DO SÓNG TÁC DỤNG THEO HƯỚNG XIÊN GÓC VỚI ĐƯỜNG BỜ Dòng chảy dọc bờ hình thành khi sóng tác dụng theo hướng xiên góc so với đường bờ là vấn đề được quan tâm một cách đáng kể vì nó có vai trò rất lớn tới quá trình vận chuyển bùn cát dọc bờ biển. Hơn nữa, hệ thống dòng chảy này ít phức tạp hơn so với dòng tuần hoàn như đã xét tới ở trên, hiện tượng dòng chảy phù hợp với các mô tả toán 66
  12. học và kết quả đo đạc tại hiện trường. Có thể nói rằng, tới nay các hiểu biết về sự hình thành của dòng dọc bờ và khả năng tính toán vận tốc dòng chảy dọc bờ là khá hoàn chỉnh. Tuy vậy, các nghiên cứu chi tiết về sự hình thành dòng chảy dọc bờ vẫn còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu. Các quan trắc trên các bãi biển tự nhiên cũng như tại các bể sóng (wave basins) trong phòng thí nghiệm đã xác nhận rằng, dòng chảy dọc bờ có tác dụng chi phối rất lớn đối với vùng ven bờ và vận tốc của nó giảm rất nhanh bên ngoài dải sóng vỡ (hình 3-7(c)). Các quan trắc này cũng cho thấy rằng, dòng chảy được tạo ra khi sóng vỗ bờ, hay các dòng chảy khác như dòng chảy do gió (trong điều kiện thời tiết bình thường), dòng triều và dòng hoàn lưu trên biển nhìn chung không có vai trò quan trọng chi phối diễn biến đường bờ mạnh như dòng chảy dọc bờ. Qua nhiều năm, đã có nhiều lý thuyết nghiên cứu về sự hình thành dòng chảy dọc bờ khi sóng tác dụng theo hướng xiên góc với đường bờ được đề xuất. Các phân tích hiện đại về sự hình thành dòng chảy dọc bờ đều được xuất phát từ những kết quả nghiên cứu của Bowen (1969b), Longuet-Higgins (1970a, 1970b), và Thornton (1970). Các nghiên cứu này đều sử dụng ứng suất tỏa để mô tả mạch động của động lượng sóng, kết hợp với sự hình thành dòng chảy dọc bờ với các thành phần của ứng suất tỏa có hướng dọc theo bờ biển khi sóng vỡ tạo với bờ một góc xiên. Tuy nhiên, ba khảo sát trên lại sử dụng các công thức lực kéo ma sát khác nhau và các mô hình hỗn hợp theo phương ngang trên bề rộng của dải sóng vỡ. Phân tích của Longuet-Higgins (1970a, 1970b) đã đưa ra các lời giản đơn giản nhất và là điểm xuất phát chính cho nhiều nghiên cứu tiếp theo. Chính vì vậy, dưới đây sẽ chủ yếu giới thiệu các phân tích của Longuet-Higgins, trước tiên là tính toán vận tốc trung bình của dòng chảy dọc bờ và sau đó là sự phân bố của dòng chảy dọc bờ trên chiều rộng của dải sóng vỡ. TÍNH TOÁN VẬN TỐC DÒNG CHẢY DỌC BỜ Khi sóng vỡ song song với bờ, như đã xét tới ở phần trên, sẽ có một ứng suất tỏa có hướng vào bờ (Sxx), thành phần mạch động của động lượng có liên quan tới sóng, và ứng suất tỏa có hướng dọc theo bờ biển (Syy), là kết quả do tác động áp suất thủy động tới chuyển động của nước. Khi sóng tiến tới gần bờ với một góc xiên so với đường bờ biển, mỗi một thành phần của ứng suất tỏa có thành phần có hướng dọc bờ, được kết hợp lại thành: S xy = En sin α cos α (3.8a) ⎛ sin α ⎞ S xy = ( ECn cos α ) ⎜ (3.8b) ⎟ ⎝C⎠ 67
  13. Trong đó E là mật độ năng lượng sóng, n là tỷ số giữa nhóm sóng và vận vận tốc pha, còn α là góc giữa đường đỉnh sóng với đường bờ. Như vậy, Sxy là ứng suất tỏa có hướng dọc bờ (thành phần theo phương y) mà chuyển động hướng từ ngoài khơi vào bờ (theo hướng x). Như trong phương trình (3.8b), Sxy có thể được viết lại là tích số của mạch động năng lượng sóng trên một đơn vị chiều dài bờ biển (ECn cos α), nhân với sinα/C, là hệ số hằng số lấy theo luật Snell, nếu các đường đồng mức đáy song song với đường bờ. Vì thế, nếu ma sát đáy là không đáng kể, mạch động năng lượng là hằng số và do đó mà Sxy = hằng số không đổi. Do đó, khi chuỗi sóng từ vùng nước sâu di chuyển tới gần bờ thì thành phần, Sxy gần như không thay đổi và bị tiêu biến khi sóng vỡ trên bờ biển. Sự tiêu tán của Sxy ở vùng gần bờ là nguyên nhân trực tiếp hình thành nên dòng dọc bờ. Cần lưu ý rằng, khi α = 0, Sxy = 0, theo phương trình (3.8), sẽ không có lực tác dụng tạo thành dòng chảy dọc bờ. “Lực đẩy” thực sự tạo thành dòng chảy dọc bờ là gradient có hướng về phía bờ ∂Sxy/∂x, đó là, sự tiêu tán cục bộ của thành phần Sxy khi sóng phát triển cắt ngang qua bãi biển. Áp dụng lý thuyết sóng tuyến tính khi đánh giá mật độ năng lượng sóng (E = ρ gH2/8), đạo hàm phương trình (3.8) theo biến x, thu được ∂S xy 5 ςρ ghS sin α cosα = (3.9a) ∂x 4 trong đó h là độ sâu nước cục bộ, và S= d h/dx l à đ ộ dố c bãi bi ển ( khi đ ạo hàm, gi ả thiế t cosα ≈ hằng số) và ς xét tới sự biến đổi chiều cao nước dâng do sóng của độ sâu nước so với độ sâu nước ở trạng thái tĩnh. Tương quan này còn có thể được biển diễn dưới dạng vận tốc quỹ đạo lớn nhất theo phương ngang của sóng, um trong đó um = gh (theo lý thuyết sóng tuyến tính trong vùng nước nông),do v ậy ∂S xy 5 ςρ um S sin α cosα = (3.9b) 2 ∂x 4 Ở cả hai phương trình quan hệ trên ς = 1/[1 +(3γ2/8)], thì γ là tỷ số giữa chiều cao sóng với độ sâu nước cục bộ. Trong phân tích này, cả γ cũng như ς được giả thiết là hằng số khi sóng vỡ và chuyển động cắt ngang bãi biển. Độ sâu nước h và vận tốc quỹ đạo sóng um đều giảm khi sóng cắt ngang qua bãi biển và tiến tới gần bờ. Do sự phản xạ sóng trên phần nước tràn lên bãi biển nên sinα và h cũng giảm dần, và do vậy mà “lực đẩy cục bộ” (local thrust) ∂Sxy/∂x trong phương trình (3.9a) sẽ giảm trên mặt cắt ngang bãi biển, và đạt giá trị lớn nhất tại vùng sóng vỡ và bằng 0 tại bờ biển. Mô hình dòng chảy dọc bờ đơn giản nhất ở trên coi lực đẩy là cân bằng với lực cản do ma sát kéo của dòng dọc bờ. Lực cản do ma sát kéo được Longuet-Higgins (1970a) biểu diễn bằng phương trình sau: 68
  14. 2 C ρu v Ry = (3.10) π f mL Trong đó νL là vận tốc của dòng chảy dọc bờ và Cf là hệ số ma sát kéo không thứ nguyên. Cân bằng hai lực có chiều ngược nhau trong phương trình (3.9b) và (3.10) cho dòng ổn định, và giải phương trình cân bằng, thu được νL 5π ς S um sin α b cos α b vL = (3.11a) 8 Cf 5π ς S ghb sin α b cos α b vL = hay (3.11b) 8 Cf là độ lớn của vận tốc dòng chảy có hướng dọc bờ. Để thuận tiện hơn khi tính toán vận tốc dòng chảy dọc bờ, phương trình (3.11b) được dùng với các tham số sóng được xác định tại tại vùng sóng vỡ, trong đó hb là độ sâu nước tại vùng sóng vỡ, αb là góc sóng vỡ; và um được lấy bằng ghb tương ứng độ sâu nước hb . Đơn giản hóa phương trình (3.11a), từ lý thuyết của Longuet-Higgins, có thể thấy rằng, vận tốc dòng chảy dọc bờ thì tỷ lệ với um sinαb cosαb, với độ dốc bãi biển S và hệ số ma sát kéo Cf , đây là các hệ số chủ yếu có liên quan tới độ lớn của dòng chảy dọc bờ. Komar và Inman (1970) đã độc lập phát triển và thu được một tương quan giống nhau có dạng sau vL = 2, 7 um sin α b cos α b (3.12) trên cơ sở so sánh các biểu thức được sử dụng để ước tính suất chuyển bùn cát dọc bờ nhưng cũng kiểm tra theo kinh nghiệm có sử dụng số liệu dòng chảy dọc bờ. Ở phương trình (3.12), νLlà vận tốc dòng chảy đặc trưng được đo tại điểm ở giữa vùng sóng vỗ, tại điểm chính giữa tính từ dải sóng vỡ tới đường bờ, trong khi đó u m và αb là các giá trị được xác định tại điểm sóng vỡ. Dòng chảy dọc bờ hầu như thường được đo tại điểm ở giữa vùng sóng vỡ, và độ lớn của dòng chảy này cũng được lấy xấp xỉ bằng giá trị lớn nhất của dòng chảy dọc bờ kéo dài trên cả chiều rộng của vùng sóng vỡ. Cũng như các kết quả được Komar trình bày sau này, khi theo lý thuyết sóng tuyến tính um = ghb = gH b / γ , dạng phương trình thường hay được sử dụng là vL = 1.17 gH br sin α b cos α b (3.13a) Nó được biểu diễn dưới dạng căn bậc hai của chiều cao sóng vỡ, Hbr hay chiều cao của các sóng đồng dạng trong phòng thí nghiệm. So sánh với số liệu thực tế và số liệu trong phòng thí nghiệm được trình bày tại hình 3-11. Đối với các sóng ngẫu nhiên, tương quan giữa chiều cao sóng vỡ có nghĩa H bs có thể được lấp xấp xỉ như sau vL = 1.0 gH bs sin α b cos α b (3.13b) 69
  15. Hình 3-11 Số liệu thực đo và số liệu trong phòng thí nghiệm của dòng chảy dọc bờ hình thành khi sóng vỡ với một góc xiên so với đường bờ được sử dụng để kiểm tra trong phương trình (3.13a). Trong rất nhiều phương trình đã được xây dựng để tính toán dự báo vận tốc dòng chảy dọc bờ do sóng tác dụng với một góc nghiêng so với bờ biển, thì chỉ có phương trình (3.12) và (3.13) và cho kết quả tốt nhất so với số liệu thực đo tại điểm giữa của vùng sóng vỗ. Giá trị này cũng rất phù hợp kể cả với vận tốc dọc bờ lớn nhất khi sóng tạo với đường bờ một góc 45° (Komar,1975) Trong cuốn Hướng Dẫn Bảo Vệ Bờ Biển của quân đội Mỹ (Shore Protection Manual) - CERC,1984, một công thức có dạng tương tự cũng đã được gợi ý dùng vL = 20.7 S gH b sin ( 2α b ) (3.14) Công thức này khác với công thức 3.13 ở chỗ nó có xét tới độ dốc bãi biển S. Tương quan này được xây dựng dựa trên cách giải của Longuet-Higgins, [công thức (3.11)] nhưng sử dụng thêm một giả thiết là lấy hệ số ma sát kéo Cf = 0.01. Công thức 3.14 của CERC mới chỉ được kiểm chứng bằng các số liệu thực đo của Putnam, Munk, và Traylor (1949) và số liệu đo trong phòng thí nghiệm của Galvin and Eagleson (1965). Từ hình 3-12, có thể thấy rằng, hai chuỗi số liệu này thực tế chỉ phù hợp rất ít với phương trình (3.14), cụ thể là các kết quả đo đạc của Galvin and Eagleson thấp hơn vận tốc tính toán. Tiếp đó, Komar (1979) đã tiếp tục chứng minh sự không phù hợp của công thức (3.14) khi bổ sung thêm các chuỗi số liệu vận tốc thực đo vào hình 3-12, bao gồm các kết quả trong phòng thí nghiệm của Putnam và cộng sự (1949); của Brebner và Kamphuis (1963); và các số liệu thực đo của Komar và Inman (1970). S ự sai khác giữa 70
  16. số liệu th ực đo và kết quả tính toán bằng công thức (3.14) có thể trực tiếp quy cho việc bao hàm độ dốc bãi biển vào trong công thức này. Hình 3-12 Số liệu thực đo và số liệu đo đạc dòng chảy dọc bờ trong phòng thí nghiệm được dùng để kiểm chứng công thức (4.14) trong Cuốn Sổ Tay Hướng dẫn Bảo vệ bờ biển (CERC, 1984. Sự phù hợp rất kém của công thức có liên quan trực tiếp tới độ dốc của bãi biển. Điều này đã được minh chứng bằng các chuỗi số liệu đo đạc trong phòng thí nghiệm của Putnam và cộng sự, khi một loạt các giá trị độ dốc bãi biển được sử dụng ; độ dốc bãi biển càng lớn, thì sai số của công thức (3.14) cũng càng lớn. Điều này cũng xét tới sự phân kỳ khá lớn của số liệu thực đo của Komar và Inman (như hình 3-12), với các đo đạc được tiến hành trên một bãi biển tương đối dốc, có cấu tạo cát thô. Điều này có thể dẫn tới kết luận là sự tin cậy của vận tốc dọc bờ không có liên quan trực tiếp tới độ dốc bãi biển như đã được xét tới trong công thức (3.14), và việc sử dụng công thức này trong tính toán có thể dẫn tới những sai số vượt quá mức cho phép. PHÂN BỐ VẬN TỐC DÒNG CHẢY DỌC BỜ Phần trên đã trình bày các tính toán vận tốc trung bình của dòng chảy dọc bờ tại vùng sóng vỡ. Tuy nhiên trong thực tế, hầu hết các ứng dụng và nghiên cứu trong vùng sóng vỡ đều cần biết được sự phân bố lưu tốc, dạng phân bố lưu tốc, cũng như sự biến thiên của dạng phân bố lưu tốc trên toàn bộ chiều rộng của dải sóng vỡ. Bowen (1969b), Longuet-Higgins (1970b), và Thornton (1970) đã phân tích dạng phân bố lưu tốc này trên cơ sở xét tới giá trị cục bộ ∂Sxy/∂x của lực đẩy và lực ma sát kéo, sự biến thiên của các lực này theo phương x của hệ tọa độ trên mặt cắt ngang. Các nghiên cứu của họ còn bao gồm cả quá trình hòa trộn theo phương ngang, có tác dụng là trơn hình dạng của mặt cắt ngang. Các trường phân bố lưu tốc của dòng chảy dọc bờ thường biến thiên rất khác nhau tùy thuộc vào cách xác định hệ số rối động (eddy coefficient) theo phương ngang. Bowen (1969b) đã giả thiết rằng, hệ số rối động này là hằng số, trong khi Longuet- Higgins (1970b) sử dụng một dạng hàm ρ.x.um . Trong đó độ dài x được biểu diễn bằng khoảng cách tính từ điểm ngoài khơi cho tới đường bờ, điều này sẽ dẫn tới giới hạn độ 71
  17. lớn của rối động, và vận tốc dòng chảy được biểu diễn bằng đại lượng um. Dạng hàm này sau này được sử dụng trong rất nhiều các nghiên cứu kế tiếp như của Madsen, Ostendorf và Reyman (1978) và Kraus hay Sasaki (1979). Theo Longuet-Higgins (1970b) thì hình dạng của trường phân bố lưu tốc dòng chảy dọc bờ trên chiều rộng của dải sóng vỡ sẽ có dạng như sau: ⎧ B1 X P1 + A X khi 0 < X < 1 V =⎨ (3.15a) khi 1 < X < ∞ P2 ⎩ B2 X trong đó: - X = x /X b, v ớ iXb là khoảng cách từ bờ biển tới đường sóng vỡ, - V = ν/ν0, với v là đại lượng biểu thị độ lớn của dòng chảy dọc bờ tại điểm ngoài khơi cách bờ 1 khoảng cách là x, và v0 là vận tốc dòng chảy dọc bờ tại điểm sóng vỡ, được xác định bằng công thức sau : 5π S 1 ( gH b ) 2 sin α b cos α b γς 2 v0 = (3.15b) 16 Cf nó phụ thuộc vào trạng thái sóng (chiều cao, chu kỳ, góc sóng) và có dạng giống như công thức (3.12) đã được kiểm chứng ở phần trên. Sự biến thiên của các hệ số trong hệ phương trình (3.15a) đối với một mặt cắt ngang hoàn chỉnh có dạng như sau: 1 3 ⎛9 1⎞ 2 p1 = − + ⎜ + (3.15c) ⎟ 4 ⎝ 16 ς P ⎠ 1 3 ⎛9 1⎞ 2 p2 = − − ⎜ + (3.15d) ⎟ 4 ⎝ 16 ς P ⎠ π NS P= (3.15e) γCf ⎛ 2⎞ 1 A= ⎜P≠ (3.15f) ⎟ ⎡1 − ( 5ς P / 2 ) ⎤ 5ς ⎠ ⎝ ⎣ ⎦ p1 − 1 B1 = (3.15g) A p1 − p2 p2 − 1 B2 = (3.15h) A p1 − p2 Lời giải theo phương pháp của Longuet-Higgins đưa ra một dạng phân bố lưu tốc của dòng chảy dọc bờ khá quen thuộc, và nó được minh họa tại hình 3-13, mỗi giá trị của P cho một dạng phân bố lưu tốc khác nhau. Theo phương trình (3.15e), P là tham số không thứ nguyên đại diện cho tầm quan trọng của quá trình hòa trộn theo phương ngang, có kể tới hệ số N, so với hệ số ma sát kéo Cf. Nếu như không có quá trình xoáy trộn theo phương ngang, thì N = 0 và P = 0, lúc này dạng phân bố lưu tốc của dòng chảy dọc bờ sẽ có hình răng cưa và gián đoạn tại đường sóng vỡ (như hình 3-13). Qua dạng 72
  18. phân bố trên có thể thấy rằng, dòng chảy dọc bờ do lực đẩy ∂Sxy/∂x tạo thành chỉ xuất hiện trong phạm vi dải sóng vỡ, ở bên ngoài dải sóng vỡ về phía biển, sẽ không còn thành phần lực đẩy này nữa. Nếu quá trình rối động dẫn tới hiện tượng hòa trộn và khuyếch tán tăng lên thì hệ số P cũng tăng, dạng đường phân bố lưu tốc chuyển thành đường cong trơn và gần với thực tế hơn, đồng thời điểm có vận tốc lớn nhất trên biểu đồ phân bố lưu tốc dọc bờ sẽ dịch chuyển dần về phía bờ với độ lớn của lưu tốc lớn nhất giảm dần. Quá trình rối động hỗn hợp cùng làm liên kết phần nước bên ngoài vùng sóng vỡ với dòng chảy bên trong vùng sóng vỡ, tạo thành một dòng chảy dọc bờ bên ngoài vùng sóng vỡ mà không có sự gián đoạn tại dải sóng vỡ. Hình 3-13 Phân bố lưu tốc dọc bờ xây dựng từ công thức (4.15), biểu diễn dưới dạng không thứ nguyên, trong đó X = x/xb, và V = ν/ν0,. Nếu P (công thức 4.15e) có giá trị càng lớn thì quá trình rối hỗn hợp theo phương ngang xảy ra càng mạnh CÁC GIẢ THIẾT CỦA LONGUET-HIGGINS Lời giải theo phương pháp của Longuet-Higgins (1970a,1970b) bao gồm một số giả thiết sau: coi góc sóng đến gần bờ là nhỏ và ν/um < 1, do vậy mà độ lớn của dòng chảy dọc bờ được hình thành do sóng là nhỏ so với vận tốc quỹ đạo sóng. Việc kiểm chứng giả thiết thứ 2 có thể được thực hiện bằng cách lấy xấp xỉ theo công thức (3.12), trong đó đã chỉ ra rằng nếu muốn có tỷ số v/um < 1 thì góc sóng vỡ αb < 24°. Góc sóng vỡ thông thường là nhỏ hơn giá trị này, và khi phương trình (3.12) cho thấy nó phù hợp với thực tế khi góc sóng vỡ tăng dần tới giá trị bằng 45°. Một giả thiết khác được Longuet- Higgins sử dụng là tỷ số giữa chiều cao sóng và độ sâu nước γ là hằng số. Giả thiết này tương đương với việc coi như khi xảy ra quá trình sóng vỡ cũng như khi khối nước do sóng vỡ sinh ra chuyển động ngang qua vùng sóng vỡ, thì sự phân rã năng lượng sóng có tương quan tuyến tính với độ sâu nước. Smith và Kraus (1987) đã kiểm tra giả thiết trên và đã chứng minh được rằng, quá trình phân rã năng lượng sóng không tuân theo quy luật tuyến tính mà có dạng hàm mũ H = γb hb (h/hb)f trong đó chỉ số mũ f là hệ số kinh nghiệm có quan hệ với độ dốc bãi biển, và γb được xác định tại điểm sóng vỡ. 73
  19. Các phân tích trên đây cho thấy, đối với dạng phân bố lưu tốc của dòng chảy dọc bờ, khi bãi biển thoải, có độ dốc nhỏ, thì giá trị của f sẽ lớn và phân bố lưu tốc sẽ có đỉnh lớn hơn (Vmax sẽ lớn), và điểm xuất hiện Vmax sẽ gần với đường sóng vỡ. Khi f tiến gần tới 1, thì kết quả sẽ giống như công thức của Longuet-Higgins (1970b). SO SÁNH PHÂN BỐ LƯU TỐC DỌC BỜ LÝ THUYẾT VÀ THỰC ĐO Một số nghiên cứu đã so sánh giữa phân bố lưu tốc dọc bờ theo phương ngang trên lý thuyết với phân bố lưu tốc dọc bờ đo đạc được tại các bể sóng trong phòng thí nghiệm, cũng như tại các bãi thực nghiệm ở bờ biển tự nhiên. Trên cơ sở so sánh với các kết quả đo đạc của Galvin and Eagleson (1965), Longuet-Higgins (1970b) đã đi đến kết luận rằng P ≈ 0.1-0.4. Hình 3-14 So sánh giữa dạng phân bố lưu tốc theo lý thuyết của Longuet-Higgins (1970b) với các kết quả đo đạc trong phòng thí nghiệm của Mizuguchi, Oshima, và Horikawa (1978). Đường liền nét, đường đứt nét là dạng đường phân bố theo lý thuyết, các chấm là kết quả thực đo Kraus and Sasaki (1979) so sánh dạng phân bố lưu tốc theo lý thuyết với phân bố lưu tốc xây dựng từ các số liệu đo đạc trong phòng thí nghiệm của Mizuguchi, Oshima, and Horikawa (1978). Kết quả được trình bày trên hình (3-14), trong đó các đường đứt nét thể hiện dạng phân bố lưu tốc theo lý thuyết tính toán từ công thức (3.15) của Longuet- Higgins (1970b), đường liền nét là các kết quả tính toán trên cơ sở các sửa đổi của Kraus và Sasaki. Trong phạm vi dải sóng vỡ, kết quả giữa lý thuyết và thực đo tương đối phù hợp, nhưng ngoài vùng sóng vỡ thì tương quan giữa lý thuyết và thực đo lại phân tán; theo như Krau và Sasaki, sự không phù hợp giữa đo đạc với lý thuyết của phân bố lưu tốc dọc 74
  20. bờ ở ngoài dải sóng vỡ có khả năng là do kết quả đo đạc chưa chính xác, nhất là khi dòng chảy dọc bờ ở ngoài dải sóng vỡ có vận tốc nhỏ nhưng nó lại chịu tác động mạnh của chuyển động sóng. Kraus và Sasaki (1979) cũng đã so sánh phân bố lưu tốc dọc bờ giữa lý thuyết với số liệu đo đạc thực tế trong vùng sóng vỡ. Các số liệu trong nghiên cứu được đo đạc tại bãi biển Urahama, Nhật bản. Có thể thấy tương quan giữa đo đạc và tính toán ở phía ngoài dải sóng vỡ và vùng ngoài khơi khá tốt (xem hình 3-15), nhưng bên trong vùng sóng vỡ thì tương quan lại rất kém. Đó là do theo lý thuyết thì bãi biển được giả thiết là phẳng và chiều cao sóng giảm tuyến tính theo độ sâu. Nhưng trong thực tế thì mặt cắt ngang bãi biển Uraham- Nhật Bản lại có dạng bậc thang tạo thành một vùng sóng vỡ thứ hai cách đường bờ biển một đoạn xấp xỉ 20m và tạo thành vùng hình thành dòng chảy dọc bờ thứ hai như trên hình 3-15. Hình 3-15 So sánh giữa dạng phân bố lưu tốc của dòng chảy dọc bờ thực đo tại biển Urahama, Nhật bản, với dạng phân bố lý thuyết theo công thức (3.15) của Longuet-Higgins (1970b). Sự sai lệch giữa lý thuyết và thực đo bên trong vùng sóng vỡ là do bãi biển đo đạc có hình dạng mặt cắt ngang PHÂN BỐ LƯU TỐC DỌC BỜ CỦA MỘT PHỔ SÓNG Các nghiên cứu về phân bố lưu tốc của dòng chảy dọc bờ trong vùng sóng vỡ trình bày ở trên đều dựa trên giả thiết các sóng khi tác động đến bờ biển có chiều cao sóng như nhau, và vỡ tại một điểm cố định trên mặt cắt ngang của bãi biển. Tuy nhiên trong thực tế, một phổ sóng bao gồm nhiều sóng có chiều cao sóng khác nhau và do vậy các sóng này có thể bị vỡ tại nhiều điểm có độ sâu khác nhau trên mặt cắt ngang. Lúc này, nó tạo thành một dải (một vùng) sóng vỡ chứ không còn là đường sóng vỡ như giả thiết nêu trên. Trong dải sóng vỡ, số sóng vỡ tăng dần về phía bờ cho tới điểm mà hầu hết các sóng đều vỡ khi chuyển động sát bờ. Phổ sóng do vậy, sẽ có ảnh hưởng tới phân bố của dòng chảy dọc bờ. Battjes (1972) đã khảo sát ảnh hưởng này bằng việc sử dụng mô tả tương tác giữa các sóng không đều. Mặc dù giả thiết rằng trao đổi động lượng với miền lân cận do hiện 75
nguon tai.lieu . vn