Xem mẫu

  1. Giảm nhẹ biến đổi khí hậu trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam Nguyễn Thị Vĩnh Hà Trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Việt Nam là một trong các quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề bởi biến đổi khí hậu (BĐKH). Theo đánh giá tại báo cáo Chỉ số rủi ro khí hậu toàn cầu (Global Climate Risk Index) của tổ chức Germanwatch năm 2021 thì Việt Nam xếp thứ 13 trên thế giới về mức độ rủi ro khí hậu, xếp thứ 15 về số người tử vong và xếp thứ 11 về mức thiệt hại tính theo USD (PPP) do thời tiết cực đoan trong giai đoạn 2000-2019 (Eckstein và các cộng sự, 2021). BĐKH là mối đe dọa nghiêm trọng đối với con người và hệ thống tự nhiên trên phạm vi toàn cầu, đòi hỏi tất cả các nước phải cùng nhau hành động để ứng phó (IPCC, 2014). Vì vậy, Việt Nam cần phải thực hiện các giải pháp nhằm giảm thải khí nhà kính (KNK), góp phần vào công cuộc bảo vệ hệ thống khí hậu Trái Đất cũng như cứu lấy chính mình. Việt Nam là quốc gia có thu nhập trung bình thấp, có mức thải KNK bình quân đầu người khá thấp (3,94 tấn/người năm 2018), xếp thứ 106 trong tổng số 191 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới (theo World Development Indicators, World Bank). Tuy nhiên, với vị trí là nước đông dân thứ 15 trên thế giới, tổng lượng thải KNK năm 2018 của nước ta xếp thứ 24, chiếm 0,82% tổng lượng KNK thải của toàn cầu. Trong vòng gần 30 năm từ 1990 đến 2018, lượng thải KNK của Việt Nam tăng nhanh chóng, với mức tăng cao nhất trong các quốc gia Đông Nam Á (Hình 1). Năm 2018, lượng thải KNK của Việt Nam tăng gấp 5,2 lần so với năm 1990. Mức thải KNK bình quân đầu người tăng 3,7 lần, từ mức 1,07 tấn CO2 tương đương/người vào năm 1990 lên 3,94 tấn CO2 tương đương/người vào năm 2018. 387
  2. 5.5 5 4.5 4 3.5 3 2.5 2 1.5 1 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Vi?t Nam Thái Lan Myanmar Malaysia Lào Indonesia Brunei Campuchia Philippines Hình 1: Mức tăng thải khí nhà kính của các quốc gia Đông Nam Á, giai đoạn 1990-2018 (Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên dữ liệu World Development Indicators, World Bank) Hình 2: Mức thải khí nhà kính (kg CO2 tương đương) cho mỗi USD GDP (PPP, 2017) (Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên dữ liệu World Development Indicators, World Bank) Mức thải KNK cho mỗi đô la GDP (PPP, 2017) có xu hướng giảm trong giai đoạn 1990-2018 (Hình 2), từ 0,62 kg còn 0,52 kg CO2 tương đương cho mỗi USD trong GDP (PPP, 2017). Tuy nhiên, mức thải này vẫn khá cao so với các quốc gia có điều kiện kinh tế xã hội tương đồng như Bangladesh, Malaysia, Indonesia, Philipines, Thái Lan hay bình quân các nước có thu nhập trung bình thấp. Mức thải KNK trên 1 USD của GDP ở Việt Nam cao gần gấp 3 lần so với các nước EU, gấp 2 lần các nước OECD và bằng 1,5 lần so với bình quân thế giới (Hình 3). 388
  3. Hình 3: Mức thải khí nhà kính (kg CO2 tương đương) cho mỗi USD GDP năm 2018 của một số quốc gia, nhóm quốc gia (PPP, 2017) (Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên dữ liệu World Development Indicators, World Bank) Những thông tin trên cho thấy Việt Nam cần phải cắt giảm lượng thải KNK. Ở Việt Nam, ngành nông nghiệp chiếm 14,6% GDP năm 2018, tuy nhiên, ngành này chiếm đến 21,3% tổng lượng thải KNK trong cùng năm (theo số liệu thống kê của FAO). Việc lạm dụng phân bón hóa học, thuốc trừ sâu và nước tưới nhằm gia tăng năng suất đã khiến nông nghiệp trở thành nguồn thải KNK lớn thứ hai sau ngành năng lượng. Do đó, việc giảm thải KNK trong sản xuất nông nghiệp là rất cần thiết. Báo cáo này rà soát các chính sách giảm nhẹ BĐKH và tổng hợp các giải pháp nhằm giảm thải KNK trong ngành nông nghiệp ở Việt Nam. 2. CÁC CHÍNH SÁCH GIẢM NHẸ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM Một trong những động thái sớm nhất của Chính phủ Việt Nam liên quan giảm nhẹ BĐKH là việc ký Nghị định thư Kyoto ngày 03/12/1998 và phê chuẩn Nghị định thư ngày 25/9/2002, sau đó chính thức đệ trình Thông báo đầu tiên của Việt Nam năm 2003. Nghị định thư Kyoto là một thỏa thuận về việc cắt giảm lượng thải KNK, gắn liền với Chương trình Khung Liên Hiệp Quốc về BĐKH (United Nations Framework Convention on Climate Change – UNFCCC). Nghị định thư buộc các nước tham gia phải cam kết đạt được các mục tiêu về thải KNK được xác định cụ thể cho từng nước. Việt Nam không nằm trong nhóm các quốc gia phải cam kết cắt giảm KNK, nhưng có thể tham gia cơ chế thị trường khí thải và cơ chế phát 389
  4. triển sạch, trong đó cho phép các quốc gia phát triển tài trợ các dự án giúp giảm lượng thải hoặc tăng hấp thu KNK tại các nước đang phát triển, đổi lại các nước tài trợ sẽ được gia tăng lượng hạn ngạch thải ở nước mình. Đây được xem như một công cụ hiệu quả nhằm giúp các nước đang phát triển như Việt Nam có thể thực hiện giảm nhẹ BĐKH với sự hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật từ các nước phát triển. Trong suốt hai thập kỷ qua, hoạt động ứng phó với BĐKH ở Việt Nam đã có những tiến triển đáng kể thông qua việc phê duyệt một loạt các chương trình nghị sự, chính sách và dự án về BĐKH. Việt Nam chú ý nhiều hơn đến các chính sách nhằm thích nghi BĐKH, chẳng hạn như các Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH ban hành theo Quyết định số 158/2008/QĐ-TTg ngày 02/12/2008 và Quyết định số 1183/QĐ-TTg ngày 30/8/2012, Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững (Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017), Kế hoạch quốc gia thích ứng với BĐKH giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định số 1055/QĐ-TTg ngày 20/7/2020),… Ngoài ra còn có các chính sách liên quan đến hoạt động cải thiện nghiên cứu khoa học và công nghệ nhằm đề xuất các giải pháp ứng phó BĐKH có hiệu quả (các Chương trình Khoa học và Công nghệ Quốc gia về BĐKH giai đoạn 2011-2015 và 2016-2020). Tuy nhiên, các chính sách thúc đẩy lộ trình phát triển tăng trưởng xanh, giảm thải KNK cũng đã được Chính phủ quan tâm. Chiến lược quốc gia về BĐKH ban hành theo Quyết định số 2139/QĐ-TTg ngày 05/12/2011, được cụ thể hóa thông qua Kế hoạch hành động quốc gia về BĐKH giai đoạn 2012-2020 và Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH giai đoạn 2012-2015 tập trung vào mục tiêu thích ứng và có lồng ghép mục tiêu giảm nhẹ. Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng xanh ban hành theo Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 tập chủ yếu trung vào mục tiêu giảm nhẹ tác động BĐKH. Hầu hết các hoạt động trong Kế hoạch hành động quốc gia về Tăng trưởng xanh giai đoạn 2014-2020 đặt trọng tâm vào tăng trưởng xanh, tiến tới nền kinh tế carbon thấp, giảm thải và tăng khả năng hấp thụ KNK. Việt Nam đã đẩy mạnh cam kết với thế giới về giảm thải KNK thông quan việc ban hành Quyết định 2053/QĐ-TTg ngày 28/10/2016 về Kế 390
  5. hoạch thực hiện Thoả thuận Paris về BĐKH và phê duyệt Thoả thuận Paris vào 03/11/2016. Việc đệ trình báo cáo Đóng góp dự kiến do quốc gia tự quyết định (INDC) cho UNFCCC vào tháng 9/2015 và phê chuẩn Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) vào tháng 11/2016 phản ánh những nỗ lực của Việt Nam trong việc giảm thải KNK. Theo NDC của Việt Nam, Chính phủ cam kết cắt giảm lượng KNK trong giai đoạn 2021-2030 khoảng từ 8% đến 25% so với kịch bản phát triển trong điều kiện thông thường (BAU), tùy điều kiện sử dụng nội lực hay có sự hỗ trợ của quốc tế, đặc biệt là về nguồn lực tài chính. Để đạt được các mục tiêu giảm nhẹ tác động BĐKH như đã đề ra trong NDC, các giải pháp cần thực hiện trong lĩnh vực nông nghiệp là giảm thải KNK thông qua phát triển nông nghiệp bền vững, thay đổi sử dụng đất, sử dụng công nghệ đánh giá làm tăng các bể chứa carbon hiện tại thông qua việc bảo vệ rừng bền vững, trồng rừng và tái tạo rừng, phát triển các dịch vụ môi trường rừng (Government of Vietnam, 2015). Nỗ lực mới nhất và rất quan trọng của Việt Nam là đưa ra các quy định về giảm nhẹ thải KNK vào Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020, trong đó thúc đẩy việc xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch giảm nhẹ thải KNK hằng năm trong lĩnh vực năng lượng, nông nghiệp, sử dụng đất và lâm nghiệp, quản lý chất thải, các quá trình công nghiệp. Ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn có Đề án giảm thải KNK trong nông nghiệp, nông thôn đến năm 2020 (Quyết định số 3119/QĐ- BNN-KHCN ngày 16/12/2011), Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững (Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013), Kế hoạch hành động về ứng phó với BĐKH các giai đoạn 2011-2015, 2016-2020 với tầm nhìn 2050 (Quyết định số 543/QĐ-BNN-KHCN ngày 23/3/2011, Quyết định số 819/QĐ-BNN-HCN ngày 14/3/2016) và Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh đến năm 2020 (Quyết định số 923/QĐ-BNN-KH ngày 24/3/2017). Các đề án, kế hoạch này nhằm mục tiêu thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp xanh, bền vững, sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng, tài nguyên thiên nhiên hướng đến nền kinh tế carbon thấp, giảm thải và tăng cường khả năng hấp thụ KNK, tích hợp thích ứng và giảm thiểu để nâng cao hiệu quả, đáp ứng đa mục tiêu trong ứng phó với BĐKH của ngành. Các kế hoạch hoạt động 391
  6. giảm nhẹ thải KNK được đưa ra cho các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp, thủy lợi, diêm nghiệp và phát triển nông thôn nhằm giảm thải KNK 20% trong mỗi giai đoạn 10 năm. Trong lĩnh vực lâm nghiệp, các chính sách chính bao gồm Chương trình quốc gia về giảm thải KNK thông qua hạn chế mất và suy thoái rừng; bảo tồn, nâng cao trữ lượng carbon và quản lý bền vững tài nguyên rừng (Chương trình REDD+) giai đoạn 2011-2020 và đến năm 2030 ban hành theo các Quyết định số 799/QĐ-TTg ngày 27/6/2012, Quyết định số 419/QĐ-TTg ngày 05/4/2017. Chương trình REDD+ đưa ra mục tiêu đến năm 2030 góp phần giảm thải KNK thông qua các hoạt động REDD+, ổn định diện tích rừng tự nhiên, nâng cao độ che phủ rừng toàn quốc lên 45%. Các đề án bảo vệ và phát triển rừng ven biển ứng phó với BĐKH giai đoạn 2015-2020, đề án trồng 1 tỉ cây xanh giai đoạn 2021-2025 cũng hướng tới việc gia tăng độ phủ rừng và hấp thu KNK. Danh mục các văn bản chính sách về giảm thải KNK liên quan đến ngành nông nghiệp của Việt Nam được liệt kê trong Bảng 1 Bảng 1. Các văn bản chính sách giảm nhẹ BĐKH liên quan đến sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam STT Số hiệu Ngày Tên văn bản ban hành 1. 03/12/1998 Ký Nghị định thư Kyoto 2. 25/9/2002 Phê chuẩn Nghị định thư Kyoto 3. 2730/QĐ-BNN- 05/9/2008 Khung chương trình hành động thích ứng KHCN với BĐKH của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2008-2020 4. 158/2008/QĐ- 02/12/2008 Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với TTg BĐKH 5. 99/2010/NĐ- 24/9/2010 Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng CP 6. 543/QĐ- BNN- 23/3/2011 Kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH của KHCN ngành nông nghiệp và ptnt giai đoạn 2011- 2015 và tầm nhìn đến năm 2050 7. 2630/QĐ- 29/8/2011 Chương trình Khoa học và công nghệ phục BKHCN vụ Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH 8. 2139/QĐ-TTg 05/12/2011 Chiến lược quốc gia về BĐKH 9. 3119/QĐ-BNN- 16/12/2011 Đề án giảm thải khí nhà kính trong nông KHCN nghiệp, nông thôn đến năm 2020 10. 432/QĐ-TTg 12/4/2012 Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020 392
  7. 11. 799/QĐ-TTg 27/6/2012 Chương trình hành động quốc gia về “giảm thải khí nhà kính thông qua nỗ lực hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, quản lý bền vững tài nguyên rừng, bảo tồn và nâng cao trữ lượng các bon rừng” giai đoạn 2011 – 2020 12. 1183/QĐ-TTg 30/8/2012 Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH giai đoạn 2012-2015 13. 1393/QĐ-TTg 25/9/2012 Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh 14. 1474/QĐ-TTg 05/10/2012 Kế hoạch hành động quốc gia về BĐKH giai đoạn 2012-2020 15. 899/QĐ-TTg 10/6/2013 Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững 16. 1485/QĐ- 17/10/ 2013 Khung hướng dẫn lựa chọn ưu tiên thích ứng KHĐT với BĐKH trong lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 17. 403/QĐ-TTg 20/3/2014 Kế hoạch hành động quốc gia về Tăng trưởng xanh giai đoạn 2014-2020 18. 639/QĐ-BNN- 02/4/2014 Quy hoạch nông nghiệp, nông thôn vùng KH đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 trong điều kiện BĐKH 19. 55/2014/QH13 23/6/2014 Luật Bảo vệ môi trường 2014 20. 120/QĐ-TTg 22/01/2015 Đề án bảo vệ và phát triển rừng ven biển ứng phó với BĐKH giai đoạn 2015-2020 21. 75/2015/NĐ- 09/9/2015 Cơ chế, chính sách bảo vệ và phát triển rừng, CP gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015 – 2020 22. 172/QĐ- 29/01/2016 Chương trình Khoa học và Công nghệ Quốc BKHCN gia về BĐKH 23. 819/QĐ- BNN- 14/3/2016 Kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH KHCN ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến năm 2050 24. 1898/QĐ-BNN- 23/5/2016 Đề án tái cơ cấu ngành lúa gạo Việt Nam TT đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 25. 119/2016/NĐ- 23/8/2016 Một số chính sách quản lý, bảo vệ và phát CP triển bền vững rừng ven biển ứng phó với BĐKH 26. 38/2016/QĐ- 14/9/2016 Một số chính sách bảo vệ, phát triển rừng và TTg đầu tư hỗ trợ kết cấu hạ tầng, giao nhiệm vụ công ích đối với các công ty nông, lâm nghiệp 27. 2053/QĐ-TTg 28/10/2016 Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris về BĐKH 393
  8. 28. 93/NQ-CP 31/10/2016 Phê duyệt Thỏa thuận Paris thực hiện Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH 29. 147/2016/NĐ- 02/11/2016 Bổ sung chính sách chi trả dịch vụ môi CP trường rừng 30. 923/QĐ-BNN- 24/3/2017 Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh của KH ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2020 31. 419/QĐ-TTg 05/4/2017 Chương trình quốc gia về giảm thải khí nhà kính thông qua hạn chế mất và suy thoái rừng; bảo tồn, nâng cao trữ lượng carbon và quản lý bền vững tài nguyên rừng đến năm 2030 32. 622/QĐ-TTg 10/5/2017 Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững 33. 1670/QĐ-TTg 31/10/2017 Chương trình mục tiêu ứng phó với BĐKH và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020 34. 324/QĐ-TTg 02/3/2020 Chương trình tổng thể phát triển nông nghiệp bền vững thích ứng với BĐKH vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 35. 891/QĐ-BNN- 17/3/2020 Kế hoạch thực hiện thỏa Thuận Paris về KHCN BĐKH của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2021-2030 36. 72/2020/QH14 17/11/2020 Luật Bảo vệ môi trường 2020 (Nguồn: Tổng hợp của tác giả) 3. CÁC GIẢI PHÁP GIẢM NHẸ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM Khái niệm “Nông nghiệp thông minh với khí hậu” (CSA) do Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hiệp quốc (FAO, 2013) đề xuất đang được đưa vào áp dụng tại Việt Nam. CSA được định nghĩa là phương thức sản xuất nông nghiệp có khả năng ứng phó (cả giảm thiểu và thích ứng) với tác động tiêu cực của BĐKH để ổn định an ninh lương thực và phát triển bền vững. CSA dựa trên ba trụ cột chính là: tăng trưởng bền vững về năng suất và thu nhập của người sản xuất; thích ứng với sự thay đổi của khí hậu; giảm thiểu (hoặc loại trừ) thải KNK. Hai mục tiêu chính của CSA là năng suất (an ninh lương thực) và thích ứng và giảm thiểu tác động của BĐKH (bao gồm cả cân bằng carbon cũng như giảm thải KNK). Việt Nam đã có một số hoạt động nhằm giảm thải KNK trong sản xuất nông nghiệp, ở các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản và lâm nghiệp. 394
  9. 3.1. Giảm thải KNK trong lĩnh vực trồng trọt Trong trồng trọt, đặc biệt là canh tác lúa nước, khi ruộng ngập nước ở chế độ yếm khí sẽ phân giải chất hữu cơ thải ra khí methane. Đất nông nghiệp khi bón phân đạm bị chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác cũng thải khí nitơ. Đốt nương làm rẫy và đốt rơm rạ thải khí carbonic. Đây là các nguồn thải KNK từ trồng trọt. Do nỗ lực thúc đẩy tăng năng suất cây trồng nên lĩnh vực trồng trọt ở Việt Nam phụ thuộc nhiều vào sự thâm dụng các yếu tố đầu vào như giống, nước, phân bón, thuốc trừ sâu. Tuy nhiên, ước tính có đến một nửa hoặc hai phần ba lượng chất dinh dưỡng từ phân bón không được cây trồng hấp thụ. Việc sử dụng quá nhiều phân bón gây ra một lượng lớn khí nitơ oxit thải vào môi trường (World Bank, 2016). Việc chuyển đổi trồng trọt từ dựa vào đất sang dựa vào công nghệ, kỹ thuật để làm tăng năng suất, chất lượng cây trồng giúp làm giảm các áp lực sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu, năng lượng, từ đó giúp giảm thải KNK. Quản lý cây trồng tổng hợp (Integrated Crop Management – ICM) thúc đẩy các kỹ thuật canh tác giảm nguồn đầu vào, chẳng hạn các kỹ thuật 2 giảm 3 tăng (2G3T), hoặc 3 giảm 3 tăng (3G3T), 1 phải 5 giảm (1P5G) hay 1 phải 6 giảm (1P6G), trong đó các yêu cầu phải, giảm, tăng bao gồm: phải dùng giống cây trồng được xác nhận, giảm lượng phân hoá học bón thừa trên đồng ruộng, giảm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, giảm lượng nước tưới ở mức vừa đủ, giảm thất thoát sau thu hoạch, giảm lượng giống gieo sạ, giảm khí thải nhà kính, tăng năng suất cây trồng, tăng chất lượng sản phẩm, tăng hiệu quả kinh tế. Việc giảm sử dụng đầu vào sản xuất giúp lượng thải KNK cũng giảm theo. Hệ thống canh tác lúa cải tiến (System of Rice Intensification – SRI) là phương pháp canh tác lúa sinh thái, mang lại hiệu quả và năng suất cao, giảm thải KNK dựa trên những tác động kỹ thuật nhằm giảm chi phí đầu vào như giống, phân bón, thuốc trừ sâu, tiết kiệm nước tưới. Những kỹ thuật tác động bao gồm: thay đổi lịch gieo trồng, giảm mật độ gieo sạ/cấy thưa, quản lý nước, làm cỏ sục bùn, bón phân hữu cơ. Nghiên cứu cho thấy so với biện pháp canh tác lúa thông thường, việc áp dụng SRI giúp giảm 70-90% thóc giống, 20-25% phân bón, 30% nhu cầu nước tưới; năng suất 395
  10. tăng 9-15%; hạn chế dịch, bệnh, hại phát triển, nhất là bệnh khô vằn, ốc bươu vàng, bệnh nghẹt rễ, bó gốc, bọ trĩ…, đồng thời tăng khả năng chống chịu sâu, bệnh của cây lúa; giá thành sản phẩm (thóc) giảm do tiết kiệm được giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, chi phí về thủy lợi… Áp dụng SRI giúp cho cây lúa cứng, khỏe hơn nên ít bị đổ ngả trong điều kiện mưa bão. Việc không giữ nước ngập mặt ruộng thường xuyên hạn chế thải KNK (Ngô Tiến Dũng, 2014). Biện pháp canh tác này được công nhận là tiến bộ kỹ thuật ở Việt Nam, đạt giải thưởng Bông lúa vàng năm 2012. Các mô hình trồng rau an toàn, thực hành nông nghiệp tốt VietGAP và GlobalGAP đảm bảo chất lượng sản phẩm trồng trọt, giảm lượng thuốc bảo vệ thực vật, sử dụng phân bón hợp lý, từ đó giảm thải KNK. Kỹ thuật canh tác nông nghiệp hữu cơ, sử dụng phân ủ hữu cơ (compost), phân vi sinh trong canh tác lúa và các loại cây trồng không những làm tăng năng suất cây trồng mà còn cắt giảm chi phí sử dụng phân bón hóa học và làm giảm tổng lượng thải KNK. Các kỹ thuật bảo vệ đất trồng trọt, làm đất tối thiểu, che phủ đất bằng thảm thực vật và kỹ thuật nâng cao hiệu quả sử dụng phân đạm giúp hạn chế thải khí N2 O. Các mô hình tưới tiết kiệm, rút nước mặt ruộng trong canh tác lúa, phương pháp tưới nhỏ giọt và tưới phun mưa cho các vùng sản xuất cà phê, cây ăn quả, cây trồng cạn và rau màu có giá trị kinh tế cao tại các vùng chuyên canh, đồng thời giảm tiêu hao năng lượng phục vụ tưới tiêu. Ngoài ra, các mô hình xã hội hóa thu gom, xử lý và tái sử dụng chất thải trong trồng trọt (rơm rạ, thân ngô, lõi ngô, bã mía, lá mía, vỏ cà phê, vỏ sắn,...) làm phân bón hữu cơ, than sinh học (biochar), biogas, vật liệu, chất độn,... giảm ô nhiễm môi trường và giảm thải KNK. Việc tái sử dụng rơm rạ để trồng nấm, hoặc cày lật ngay tại ruộng giúp giảm tình trạng đốt rơm rạ sau các vụ thu hoạch. 3.2. Giảm thải KNK trong lĩnh vực chăn nuôi Trong lĩnh vực chăn nuôi, nguồn thải KNK quan trọng gồm sản xuất thức ăn và chế biến (45%), chất thải trong quá trình tiêu hóa của gia súc nhai lại (39%) và sự phân hủy của phân (10%). Phần còn lại là từ việc xử lý và vận chuyển sản phẩm động vật (Gerber và các cộng sự, 2013). Khí sinh học là hỗn hợp khí methane (CH4) và một số khí khác phát sinh từ sự 396
  11. phân huỷ các vật chất hữu cơ. Methane tạo ra hiệu ứng nhà kính gấp 21 lần hơn khí carbonic (CO2). Theo ước tính của Bộ Năng lượng Hoa Kỳ, nếu sử dụng tất cả nguồn nguyên liệu có thể tạo ra khí sinh học để dùng trong vận chuyển thì lượng năng lượng này có thể làm giảm 500 triệu tấn khí carbonic hàng năm, tương đương với số lượng 90 triệu xe dùng trong một năm. Công nghệ khí sinh học (biogas) được sử dụng trong xử lý chất thải chăn nuôi, đạt được lợi ích kép về sản xuất năng lượng sạch, làm phân bón hữu cơ sinh học hướng đến chăn nuôi an toàn, giảm ô nhiễm môi trường và giảm thải khí nhà kính. Chăn nuôi trên nền đệm lót sinh học là một hình thức nuôi nhốt gia súc, gia cầm trên một nền đệm lót được làm bằng nguyên liệu có độ trơ cao (không bị nước làm nhũn nát như: trấu, mùn cưa, phoi bào, rơm, rạ….) trộn với một hệ sinh vật (men vi sinh) để phân hủy phân, nước tiểu giảm khí độc và mùi hôi chuồng nuôi tạo môi trường trong sạch không ô nhiễm. Hệ vi sinh vật trong chuồng nuôi luôn giúp duy trì cân bằng hệ sinh thái theo hướng có lợi cho vật nuôi, luôn đảm bảo đủ số lượng một mặt phân giải chất thải, mặt khác ức chế vi sinh vật gây bệnh hoặc có hại bảo vệ đàn vật nuôi. Các vi sinh vật trong độn lót đồng hóa chất hữu cơ từ chất thải của vật nuôi tạo thành protein của chính vi sinh vật, nguồn protein này được vật nuôi sử dụng một phần. Các chất hữu cơ được oxy hoá tạo ra CO2, giảm lượng thải CH4. Phương thức chăn nuôi này hiện đang được khuyến khích phát triển, được coi là hướng đi bền vững của ngành chăn nuôi ở Việt Nam (Đỗ Hương, 2014). Các công nghệ xử lý và tái sử dụng phụ phẩm, phế phẩm nông nghiệp để tạo thức ăn chăn nuôi, sản xuất thức ăn chăn nuôi giàu dinh dưỡng giúp tăng khả năng hấp thu, giảm thải khí nhà kính, tăng chất lượng sản phẩm chăn nuôi sạch và nâng cao hiệu quả kinh tế. Các loại thức ăn bổ sung, chế phẩm sinh học (pre và probiotic, enzyme,...) kháng sinh từ thực vật để thay thế kháng sinh trong thức ăn chăn nuôi, giảm thải khí nhà kính từ đường tiêu hóa, giảm bài tiết nitơ, phốt pho trong phân và nước tiểu, tăng tiêu hóa và hấp thu thức ăn, nâng cao năng suất gia súc gia cầm, rút ngắn thời gian nuôi và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. 3.3. Giảm thải KNK trong lĩnh vực thủy sản 397
  12. Hoạt động khai thác thuỷ sản có thể tham gia thực hiện giảm nhẹ BĐKH bằng cách giảm lượng xăng, dầu tiêu hao. Một số loại ngư cụ đánh bắt chủ động như lưới kéo làm tăng thời gian chạy tàu, do đó tăng thải KNK. Chính phủ cần giảm trợ cấp nhiên liệu cho tàu khai thác thuỷ sản, thậm chí tăng thu thuế nhiên liệu, để khuyến khích sử dụng hiệu quả năng lượng; khuyến khích sử dụng các loại ngư cụ khai thác thuỷ sản tĩnh như lưới vây, lưới rê, cho phép sử dụng ít nhiên liệu hơn các ngư cụ khai thác thuỷ sản động, như lưới kéo hay lưới cào; tăng cường hoạt động đăng kiểm tàu cá để hạn chế máy thuỷ cũ tiêu hao nhiều nhiên liệu. Việc tổ chức khai thác thuỷ sản xa bờ có thể cơ cấu lại theo hướng phát triển hai loại đội tàu: tàu khai thác thuỷ sản và tàu hậu cần khai thác thuỷ sản. Các tàu khai thác thuỷ sản có thể hạn chế thời gian chạy ra vào bờ bằng cách tăng cường sử dụng các dịch vụ của tàu hậu cần khai thác thuỷ sản: thu mua thuỷ sản xa bờ, cung cấp hàng hoá, nhu yếu phẩm cho tàu khai thác thuỷ sản xa bờ,... Các tàu hậu cần cũng cung cấp các dịch vụ bảo quản, chế biến thuỷ sản chuyên nghiệp để tăng chất lượng thuỷ sản. Việc xây dựng chỗ neo đậu, trú bão ở xa bờ,... để giảm thời gian chạy tàu ra vào bờ cũng giúp giảm tiêu hao nhiên liệu. Trồng rừng ngập mặn, thảm cỏ biển có thể tăng cường hấp thu khí carbonic. Do đó, Chính phủ cần tăng cường các dự án hỗ trợ (chẳng hạn sử dụng nguồn vốn ODA, vốn tài trợ của các tổ chức phi chính phủ) phục hồi rừng ngập mặn, thảm cỏ biển và bảo vệ các rạn san hô để giúp hấp thu khí carbonic, bảo vệ bờ biển, nghề cá và sinh kế. Nuôi trồng rong biển cũng giúp tăng cường hấp thu khí carbonic. Áp dụng các phương thức, quy trình nuôi thủy sản tiên tiến có thể tiết kiệm và sử dụng hiệu quả thức ăn, nguồn nước tự nhiên, năng lượng và giảm thải ra môi trường. Việc đẩy mạnh hoạt động bảo quản, chế biến, phát triển và ứng dụng các công nghệ xử lý chất thải sau chế biến thuỷ sản để sản xuất năng lượng sinh học có giá trị kinh tế cao, xử lý và tái sử dụng bùn thải trong nuôi trồng thủy sản cũng giúp giảm lượng thải KNK. 3.4. Giảm thải KNK trong lĩnh vực lâm nghiệp Rừng có tác dụng rất lớn trong việc hấp thu khí carbonic. Vì vậy, tất cả các chương trình trồng rừng, bảo tồn rừng đều có tác dụng giảm nhẹ 398
  13. BĐKH. Để khuyến khích trồng rừng, quản lý và bảo vệ rừng, Việt Nam đã và đang triển khai thực hiện các giải pháp đa dạng: - Thực hiện chi trả dịch vụ môi trường rừng (PES) - Phát triển thị trường carbon từ rừng; - Xây dựng phát triển mô hình lâm sản ngoài gỗ dưới tán rừng, mô hình nông lâm kết hợp, mô hình kết hợp sản xuất lương thực và năng lượng trong lâm nghiệp (IFES) để nâng cao hiệu quả kinh tế rừng. - Triển khai thực hiện các chương trình trồng rừng, trồng cây xanh; khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư vào trồng rừng kinh tế; áp dụng tiến bộ kỹ thuật, đưa các giống mới vào trồng rừng nhằm nâng cao năng suất, chất lượng rừng. Cho đến nay, việc mở rộng trồng rừng đã bù đắp lượng thải từ hoạt động chặt phá rừng và giải phóng mặt bằng trong nông nghiệp. Kết quả là đã chuyển đổi trạng thái của hoạt động sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp từ nguồn thải thành nguồn hấp thụ thải (CIAT và World Bank, 2017). 3.5. Các giải pháp tích hợp giảm thải KNK trong sản xuất nông - lâm - thuỷ sản Kinh tế tuần hoàn trong trong sản xuất nông nghiệp là giải pháp giúp sản xuất nông nghiệp theo chu trình khép kín, giảm thiểu các tác nhân gây ô nhiễm môi trường, giảm lượng tài nguyên sử dụng đầu vào, tăng tỉ lệ tuần hoàn các chất thải nông nghiệp là giải pháp quan trọng giúp giảm thải KNK. Đặc biệt, các chất thải nông nghiệp có thể tăng cường chuyển hoá thành năng lượng để cải thiện cơ cấu chất đốt ở nông thôn để giảm thải và nâng cao chất lượng sống cho dân cư nông thôn. Ở Việt Nam, các mô hình kinh tế tuần hoàn đang phổ biến là kiểu mô hình nông nghiệp sinh thái, trong đó khai thác các mối quan hệ sinh thái của các loại cây trồng, vật nuôi. Nông nghiệp sinh thái (như nông nghiệp bảo tồn, nông lâm kết hợp, nông nghiệp cảnh quan, thâm canh lúa bền vững, hệ thống tổng hợp chăn nuôi và trồng trọt, canh tác hữu cơ...) giúp hạn chế chuyển đổi rừng sang đất trồng trọt, hạn chế sử dụng vật tư (phân bón, 399
  14. thuốc trừ sâu), giảm thiểu khí thải nhà kính từ nông nghiệp và góp phần tăng lưu trữ carbon. Việc chuyển đổi sang nông nghiệp sinh thái cũng góp phần đa dạng hóa cây trồng, nâng cao năng lực của nông dân trong việc bảo đảm an ninh lương thực, cung ứng sản phẩm an toàn thực phẩm và tăng cường đa dạng sinh học nông nghiệp, cải thiện khả năng phục hồi của hệ thống sản xuất trước BĐKH, góp phần giúp Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế về giảm thiểu BĐKH (Đào Thế Anh và các cộng sự, 2020). Mô hình Vườn - Ao - Chuồng (VAC) đã được áp dụng phổ biến ở Việt Nam từ những năm 1980 và được coi là hình thức nông nghiệp tuần hoàn đơn giản nhất. VAC đã tạo ra một mô hình sản xuất nông nghiệp tổng hợp, gắn kết trồng trọt với chăn nuôi, hạn chế chất thải, thuận theo tự nhiên và hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc của kinh tế tuần hoàn. Sau này, mô hình VAC đã được cải tiến thành Vườn - Ao - Chuồng - Biogas (VACB); Vườn - Ao - Chuồng - Rừng (VACR) ở các tỉnh miền núi; Vườn - Ao - Hồ (VAH) ở các tỉnh miền Trung. Mô hình nông nghiệp này vừa đem lại hiệu quả kinh tế cao, vừa giúp giảm thải khí nhà kính. Đặc biệt, mô hình VACB đã giúp quản lý chất thải nông nghiệp, sử dụng hợp lý phế, phụ phẩm nông nghiệp làm phân bón trả lại độ phì cho đất, xử lý an toàn chất thải động vật, tạo năng lượng tái sinh, tạo nguồn chất đốt phục vụ sinh hoạt, chống ô nhiễm môi trường và góp phần giảm thải, giảm hiệu ứng nhà kính. Mô hình VAC lúc đầu nhỏ lẻ, quy mô nông hộ với mục tiêu góp phần bảo đảm an ninh lương thực, xóa đói giảm nghèo. Hiện nay, mô hình VAC đã phát triển rộng khắp trên cả nước với các hình thức đã được cải tiến cùng những ứng dụng linh hoạt trong quá trình tổ chức sản xuất và kinh doanh tại nhiều hộ gia đình, trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn. Mô hình lúa - tôm được áp dụng từ đầu những năm 2000 ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, mô hình lúa - cá được thực hiện ở các tỉnh vùng trũng, hay ngập úng ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng. Trong các mô hình này, khi nuôi tôm hoặc cá trong ruộng lúa, phân của tôm, cá và thức ăn còn dư (của tôm, cá) sẽ làm phân bón bổ sung dinh dưỡng cho cây lúa; ngược lại, khi gặt lúa xong, thả tôm (cá) vào ruộng, gốc rạ, thóc rơi vãi trở thành nguồn thức ăn cho tôm, cá. Với mô hình luân canh này hầu như cây trồng, vật nuôi không phải dùng thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kháng sinh, tạo ra 400
  15. sản phẩm sạch và bảo vệ môi trường. Đến nay, mô hình này đang được cải biến thành mô hình “lúa thơm - tôm sạch” và “lúa thơm - cá sạch”. Trong mô hình cải biến này, chất thải sau vụ nuôi tôm, cá là nguồn phân bón để sản xuất lúa thơm, đồng thời, kết hợp sử dụng nấm xanh để trừ sâu rầy trong canh tác lúa thơm hữu cơ. Khi vùng nuôi tôm liên kết với nhà máy chế biến tôm thì vỏ tôm được tận dụng để sản xuất chitin (chất có tác dụng giúp kéo dài thời gian bảo quản rau quả, thịt; phụ gia dùng trong chế biến một số đồ uống), qua đó, tận dụng phụ, phế phẩm trong nuôi trồng thủy sản, nâng cao hiệu quả kinh tế, giảm thiểu tối đa tác động xấu lên môi trường, hệ sinh thái, cộng đồng dân cư (Vũ Mưa, 2020). Mô hình trồng lúa - trồng nấm - sản xuất phân hữu cơ - trồng cây ăn quả được phổ biến ở hầu khắp các tỉnh, thành trong cả nước. Trong mô hình này, người nông dân đã tận dụng nguyên liệu từ phụ phẩm rơm rạ trong trồng lúa để trồng nấm, bã rơm rạ sau khi thu hoạch nấm được tận dụng để bón cho cây trồng (cây ăn quả, rau màu) rất tốt. Thực tế cho thấy, lượng rơm rạ từ một ha trồng lúa có thể tạo ra được 200m mô nấm và sau khi trồng nấm từ 25-30 ngày có thể thu được 250-300kg nấm tươi (Lê Thoa, 2014). Mô hình sản xuất tổng hợp bò - trùn quế - cỏ/ngô - gia súc, gia cầm - cá tận dụng phụ phẩm chăn nuôi (phân) để nuôi trùn quế; lấy phân trùn quế bón cỏ/ngô; trùn quế làm thức ăn cho gia súc, gia cầm, cá, đem lại hiệu quả kinh tế cao, giảm thải khí nhà kính, bảo vệ môi trường (Vũ Bá Quan, 2020). Mô hình chăn nuôi an toàn sinh học 4F (Farm - Food - Feed - Ferlitizer: trồng trọt - thực phẩm - chăn nuôi - phân bón) (Cao Tiến, 2020) có thể coi là mô hình kinh tế tuần hoàn đúng nghĩa đầu tiên trong nông nghiệp của Tập đoàn Quế Lâm, bắt đầu áp dụng từ 2020. Mô hình là chu trình sản xuất khép kín, gồm: chăn nuôi lợn hữu cơ, sản xuất các chế phẩm sinh học, sản xuất thức ăn chăn nuôi hữu cơ và sản xuất phân bón vi sinh. Trong mô hình này, chất thải trong trang trại được thu gom và xử lý để sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh phục vụ trồng trọt, tạo thành quy trình sản xuất nông nghiệp khép kín từ chăn nuôi đến trồng trọt, từ cây đến đất. Thực hiện mô hình chăn nuôi an toàn sinh học 4F vừa tăng hiệu quả kinh tế, phòng ngừa dịch bệnh, vừa góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, giảm thải khí nhà kính. 401
  16. Mô hình “vòng tuần hoàn xanh” trong các trang trại bò sữa của Công ty Vinamilk xây dựng và vận hành hệ thống trang trại bò sữa theo tiêu chuẩn quốc tế (Global GAP) và tiêu chuẩn hữu cơ châu Âu (EU Organic) với quy trình chăn nuôi khép kín: từ làm đất, trồng cỏ, chăm sóc bò đến xử lý chất thải để tạo “vòng tuần hoàn xanh”. Nhờ công nghệ biogas, chất thải gia súc được xử lý để tiếp tục bón cho đồng cỏ, cải tạo đất và một phần khác được biến đổi thành khí metan dùng để đun nước nóng dùng cho hoạt động của trang trại. Việc tái tạo và tái sử dụng năng lượng vừa mang lại hiệu quả về kinh tế, vừa giảm thiểu đáng kể lượng thải CO2. 4. THAY LỜI KẾT Biến đổi khí hậu ảnh hưởng ngày càng nghiêm trọng đối với con người và hệ thống Trái Đất. Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người ở mức trung bình thấp, nhu cầu tăng trưởng kinh tế cao. Tuy nhiên, nếu Việt Nam, cũng như các quốc gia đang phát triển khác, không tập trung thay đổi cách thức sản xuất, thực sự quan tâm đến giảm thải khí nhà kính và tăng lưu trữ carbon, thì nỗ lực chung của thế giới trong ứng phó biến đổi khí hậu khó đạt được thành công. Những thay đổi trong mô hình, kỹ thuật sản xuất nông nghiệp thông minh với khí hậu có thể giúp Việt Nam đạt được mục tiêu kép về tăng năng suất, tăng chất lượng sản phẩm nông nghiệp, đồng thời giảm nhẹ biến đổi khí hậu. TÀI LIỆU THAM KHẢO CIAT; World Bank (2017). Climate-Smart Agriculture in Viet Nam. CSA Country Profiles for Asia Series. International Center for Tropical Agriculture (CIAT); The World Bank. Washington, D.C. 28 p. Cao Tiến (2020). Ra mắt “Tổ hợp chăn nuôi an toàn sinh học 4F” đầu tiên tại Việt Nam. Báo Dân sinh. https://baodansinh.vn. Truy cập ngày 25/8/2021. Ðào Thế Anh, Lê Thành Ý, Chu Tiến Quang (2020). Phát triển nền nông nghiệp sinh thái gắn với phát triển nông thôn bền vững. Báo Nhân dân. https://nhandan.vn/. Truy cập ngày 25/8/2021 Đỗ Hương (2014). Đệm lót sinh học: Hướng đi bền vững của ngành Chăn nuôi. Báo Chính phủ http://baochinhphu.vn. Truy cập 25/8/2021. Eckstein, D., Künzel, V., & Schäfer, L. (2021). Global Climate Risk Index 2021: Who Suffers Most from Extreme Weather Events, 2000-2019. 402
  17. FAO (2013). Climate-smart agriculture: sourcebook. Gerber, P.J., Steinfeld, H., Henderson, B., Mottet, A., Opio, C., Dijkman, J., Falcucci, A. & Tempio, G (2013). Tackling climate change through livestock – A global assessment of emissions and mitigation opportunities. Food and Agriculture Organization of the United Nations (FAO), Rome. Government of Viet Nam (2015). Nationally Determined Contribution of Viet Nam. IPCC. (2014). Climate Change 2014: Synthesis Report. Contribution of Working Groups I, II and III to the Fifth Assessment Report of the Intergovernmental Panel on Climate Change (C. W. Team, R. K. Pachauri, & L. Meyer Eds.) Lê Thoa (2014). Biến rơm rạ thành tiền: Trồng nấm, chế biến phân hữu cơ. Báo Nông nghiệp. https://nongnghiep.vn. Truy cập ngày 25/8/2021. Ngô Tiến Dũng (2014). Tóm tắt tình hình và kết quả ứng dụng SRI. Cục Bảo vệ Thực vật. http://www.icerdvietnam.com. Nguyễn Thị Miền (2021). Phát triển kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp ở Việt Nam: Một số vấn đề đặt ra và khuyến nghị. Tạp chí Lý luận Chính trị, số 3-2021. Nguyễn Xuân Hồng (2020). Cơ cở thực tiễn và động lực thúc đẩy phát triển nông nghiệp tuần hoàn Việt Nam: kinh tế VAC. https://kinhtenongthon.vn/. Truy cập ngày 25/8/2021. Vũ Bá Quan (2020): Sản xuất tuần hoàn - nội dung mới trong tái cơ cấu nông nghiệp, https://soctrang.dcs.vn. Truy cập ngày 25/8/2021. Vũ Mưa (2020). Xây dựng mô hình “lúa thơm - cá sạch”. Tạp chí Thủy sản Việt Nam (thuysanvietnam.com.vn). Truy cập ngày 25/8/2021. World Bank (2016). Viet Nam development report 2016. Transforming Vietnamese agriculture: Gaining more for less. World Bank. Washington, DC. World Bank; Ministry of Planning and Investment of Vietnam (2016). Vietnam 2035: Toward Prosperity, Creativity, Equity, and Democracy. Washington, DC: World Bank. X.H (2020). Vinamilk vận dụng kinh tế tuần hoàn phát triển trang trại bò sữa thân thiện với môi trường. https://baodautu.vn. Truy cập ngày 25/8/2021. FAO Statistics: http://www.fao.org/faostat/en/#data Thư viện pháp luật: https://thuvienphapluat.vn/ 403
nguon tai.lieu . vn