Xem mẫu

  1. ĐỊA LÍ NƯỚC ANH Đảo quốc nằm ở tây bắc châu Âu, gồm 4 vùng lịch sử dân tộc: Anh, Scotland và Wales trên đảo Anh, Bắc Ireland chiếm phần đông bắc đảo Ireland. Đảo Man và các đảo Normandy trong eo biển Manche không thuộc Anh quốc, nhưng là sở hữu của vương triều Anh và có quyền tự quản nội bộ. Từ năm 1801 việc thống nhất Anh quốc và Ireland kéo dài cho đến năm 1922, khi đã thành lập quốc gia độc lập Ireland, đất nước có tên gọi chính thức là Liên hiệp Vương quốc Anh và Ireland ( U.K United Kingdom). Nước Anh được bao bọc bởi Đại Tây dương, các biển Bắc và Ireland, các vịnh Bắc, St, George, La Manche, Pas de Calais. Đường bờ biển của Anh bị cắt xẻ bởi các vùng hẹp và eo nhỏ, do đó ở đây không ít vịnh và cũng thuận tiện. Phần bắc đảo chủ yếu là núi. Ở đây trải dài cao nguyên Bắc Scotland ( độ cao tối đa 1.343m), các núi Nam
  2. Scotland, Penin và Cambridge. Phần đông nam đảo, tức là phần lớn nước Anh được phân biệt bởi các bình nguyên đồi thoai thoải. Địa hình phổ biến của Bắc Ireland là thấp, thường là bình nguyên đầm lầy. Ở đây có hồ nước lớn nhất vương quốc, hồ Lough Neagh. Nhờ các biển ấm bao bọc, khí hậu nước Anh đặc trưng có độ ẩm cao, mùa đông dịu và mùa hè mát. Đất canh tác chiếm diện tích đáng kể ( chủ yếu ở Anh và Ireland). Nông nghiệp phát triển mạnh và mức độ cơ giới hóa cao. Khoáng sản đóng vai trò lớn trong việc phát triển kinh tế ở Anh. Vào những thời gian trước Cơ đốc giáo, những người thương nhân Phần Lan mua thiếc khai thác tại các mỏ ở Cornwall. Khoáng sản ở Anh chủ yếu là than đá và quặng sắt, có cả dầu mỏ và khí tự nhiên khai thác ở biển Bắc. Một thời gian dài nước Anh được công nhận là thủ lĩnh của kinh tế thế giới. chính ở đây vào cuối thế kỷ 18 đã diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp. Lịch sử nước Anh bắt đầu từ năm 1707, khi thống nhất Anh và Scotland. Trước đó, số phận lịch sử các vùng trong nước khác nhau rất rõ. Dân cư đến ở đảo Anh quốc bắt đầu vào thời kỳ đồ đá mới. Gần 3.000 năm TCN ở đây đã xuất hiện những người Iberic ( mái chèo dài), họ sinh sống ở miền nam của nước này, và năm 500 năm sau là nước Cubki ( Beaker), bộ lạc có tên như vậy là do những sản phẩm gốm đặc trưng của mình và nổi tiếng nhờ những tượng đá khổng lồ Stonehenge ( cự thạch) có từ 4000 – 2100 TCN. Vào thiên nhiên kỷ thứ nhất TCN người Celt đến đảo. Họ sử dụng công cụ lao động bằng sắt và cả những vũ khí tiến bộ so với thời đó ( xe và các loại khác), họ chinh phục đa số các bộ lạc địa phương. Mặc dù thời xa xưa ở Địa Trung Hải người ta biết những hòn đảo Anh quốc, nhưng La Mã vẫn không vươn tay đến miền đất quá xa xôi này. Chỉ đến năm 55 TCN Juluis Ceasar sau khi chinh phục xứ Gaul “ nhân tiện ghé nhìn” đất Anh. Sau đó một hoàng đế khác là Claudius năm 43 mới xâm nhập đất Anh. Ông phải mất gần 20 năm để đè bẹp sự phản kháng của bộ lạc Celt ở miền nam lãnh thổ. Năm 84 Gnaeus Julius Agricola tiến xa hơn, đến phía nam Scotland, người La Mã gọi đó là
  3. Caledonia. Tuy nhiên các bộ lạc miền bắc tiếp tục bảo vệ đất đai của mình. Sau vài lần cố gắng chinh phục toàn đảo bị thất bại, người La Mã dựng bức tường Adriana dài 177km giữa vịnh Salue – Fert và cửa sông Thames, đánh dấu ranh giới bắc lãnh địa của mình. Sau bốn thế kỷ, người La Mã thành lập ở Anh vài thành phố, trong đó có London và York, làm những con đường tuyệt đối tốt ( vẫn còn tốt nhất cho đến thế kỷ 17), đưa đạo Kito vào. Nhưng suốt thời gia này những hòn đảo vẫn là tỉnh xa xôi đế quốc rộng lớn và ngoại trừ một vài thành phố, toàn bộ đất nước này vẫn là của người Celt. Vào thế kỷ thứ 3 – 4 khắp mọi miền của đế quốc đều cảm nhận được sự sụp đổ của đế chế La Mã, đồng thời các dân tộc khác sinh sống ở châu Âu đang tập trung sức lực. Sau khi La Mã rút lui ( năm 410) những bộ lạc German tấn công vào đất Anh. Angle, Saxon, Jute và các bộ lạc khác. Đè bẹp sự phản kháng của người Celt, đến thế kỷ thứ 7 người Angle và Saxon thành lập ở Anh vài vương quốc: Celt, Sussex, Essex, Wessex, Northumbria . v. v…Lúc đầu cơ đốc giáo bị người German đuổi đến lãnh thổ Wales ngày nay, cho đến năm 644 mới được công nhân trên toàn đất Anh. Đầu thế kỷ thứ 6 phía bắc đảo bị người Celt từ bắc Ireland xâm chiếm. Ở miền nam Scotland ngày nay khoảng vào thời gian đó xuất hiện vương quốc Strathclyde do người Celt chạy trốn người German thành lập.Trong vòng vài năm thế kỷ đã diễn ra cuộc đấu tranh kiên trì giành quyền lực trên toàn bộ lãnh thổ, trong đó có sự tham gia của người Pict, Saxon từ Northumbria và người Viking từ Scandinavia. Năm 1081 vua tất cả các vùng đất phía bắc vịnh Salue – Fert, có tên Scotland, Duncan I. Năm 871 Alfred trở thành vua xứ Wessex. 7 năm sau ông chiến thắng người Đan Mạch xâm nhập vào nước Anh, nhưng cuối cùng người Đan Mạch giành được Wessex, Đông Anh và Northumbria. Alfred kịp cải tổ quân đội, xây dựng hạm đội, sau đó ông cố gắng đuổi những người xâm lược ra khỏi đất Anh. Sự nghiệp do
  4. Alfred bắt đầu được con trai ông là Athelstan kết thúc thắng lợi. Sau khi đuổi người Đan Mạch, toàn bộ lãnh thổ nước Anh ngày nay trở thành một quốc gia thống nhất. Đầu thế kỷ thứ 11 người Đan Mạch vẫn còn chiếm giữ nước Anh. Tuy nhiên năm 1066 một nhà chinh phục mới là Wilhelm – công tước xứ Normandy, trở thành vua Wilhelm Chinh phục I. Đương thời của ông, nước Anh tổ chức mới về xã hội và chính trị theo kiểu mẫu và tương tự Pháp. Con trai thứ 3 của Wilhelm là Henry ! bắt đầu điều khiển nước Anh ( năm 1100) sau cái chết của anh mình là Wilhelm II, sau khi chiến thắng một người anh em khác – Robert, ông điều khiển cả Normandy. Thời kỳ nội chiến tương tàn kết thúc vào năm 1154, khi Henry Plantagenet, công tước xứ Anjui lên nắm chính quyền, ông thâu tóm hơn nửa nước Pháp, Anh, Scotland và Ireland. Con trai của Henry II, Richard Sư tử tâm I nổi tiếng nhờ những cuộc hành quân hải ngoại, nhưng ông không được thành công lắm. Em trai của ông là John lên nối ngôi, John bị mất vùng Normand năm 1204. 11 năm sau các lãnh chúa ép John ( Joan không đất) ký Đại Hiến chương Tự do, nó trở thành một trong những cơ sở lập pháp của nước Anh hiện nay. Vào thế kỷ 13 nước Anh thịnh vượng. Nông nghiệp, chăn cừu và buôn bán len phát triển nhanh. Luân Đôn và các thành phố khác trở thành trung tâm lớn về tiểu công nghiệp và buôn bán. Edward I, con trai của Henry III thực hiện vài cải cách quan trọng, có ý nghĩa nhất là việc phê chuẩn nghị viện, lúc đầu chỉ là Hội đồng của vương triều. Sau đó nghị viện chia thành viện Nguyên lão ( Thượng viện) và viện Bình dân ( Hạ viện), bắt đầu kiểm soát hệ thống thuế vào việc lập pháp. Vào cuối thế kỷ 13 Edward I thống nhất xứ Wales. Cùng thời gian đó ở Scotland gia tăng sự bất bình do Anh thường xuyên can thiệp vào công việc của Scotland. Năm 1296 đã nổ ra cuộc chiến tranh giành độc lập. Dưới sự lãnh đạo của Sir Williams Wales và sau khi ông mất là Robert Bruce, nhân dân Scotland giáng cho người Anh một đòn thất bại thảm hại và buộc họ phải ký hiệp ước Northampton ( năm 1328), theo đó Scotland được công nhận là vương quốc độc lập.
  5. Năm 1337 Edward III tuyên bố là mình có quyền lên ngôi vua nước Pháp, bắt đầu cuộc chiến tranh Thế kỷ. Sau những thắng lợi đầu tiên, quân đội Anh dậm chân tại chỗ và thấy rõ là chiến tranh sẽ lâu dài. Năm 1349 ở Anh có dịch hạch, 1/3 dân số bị chết, năm 1399 Henry Bolingbroke, công tước xứ Landcaster trở thành vua Henry IV. Ông và cả những người thừa kế của mình đều không thiết lập được ngai vàng ở Pháp. Nhưng con của ông là Henry V đã thắng trận Azencur (năm 1415) đã buộc vua Pháp Charles VI trở thành nhạc phụ của mình và thiết lập quyền kiểm soát nước Pháp. Năm 1422 cả hai vua đều chết, để lại vương quyền của hai nước cho Henry VI mới 9 tháng tuổi. Năm 1429 dưới sự lãnh đạo của Jeanne D’ Arc người Pháp bắt đầu giành lại đất đai của mình. Đến năm 1453 thì thực tế Anh mất hết những vùng đất hải ngoại La Manche, dẫn đến nội chiến ngay trên đất Anh. Cuộc chiến tranh Bông hồng trắng và Bông hồng đỏ ( 1455- 1485) bùng nổ do mâu thuẫn giữa hai nhánh của vương gia – nhánh Landcaster ( Henry VI) và nhánh York do Richard, công tước xứ York lãnh đạo. Cuối cùng Bông hồng trắng giành thắng lợi, và năm 1471 con trai của Richard lên làm vua nước Anh, tức là Edward IV. Sau thời gian cầm quyền ngắn ngủi của Edward V và Richard III, triều đại Tudor lên ngôi. Năm 1485 Henry VII lên ngôi vua. Ông biết cách khôi phục sức mạnh của Anh. Khác với đa số tiền vương của mình, Henry VII không gây chiến với các lân bang, do đó ông thành công rất nhiều trong việc buôn bán với họ. Con trai của ông là Henry VIII nổi tiếng trong lịch sử chủ yếu là nhiều vợ. Người vợ đầu tiên của Henry là Catherine d’ Aragon chỉ cho ra đời toàn con gái. Việc ly hôn bị Giáo hoàng La Mã từ chối. Tự ái, vua liền cắt đứt với giáo hội La Mã và thành lậo giáo hội của riêng mình, giáo hội Anh. Lập tức nhà thờ cho phép vua ly hôn. Anne Boleyn, người vợ thứ hai kịp sinh cho vua một con gái, sau đó bị tố giác là phản bội chồng và chịu tội xử trảm. Chưa tròn một tháng kể từ ngày ra án tử hình, vua lấy Jane Seymour bà sinh ra cậu bé Henry Edward và chết ngay trong lúc sinh.
  6. Vào thời Henry VI, giáo hội Anh thuộc đạo Tin Lành. Edward mất lúc 16 tuổi. Maria I chị của Edward, con gái của Henry VIII trong cuộc hôn nhân đầu tiên lên ngai vàng. Maria lấy chồng là người bà con với mình – Philip II của Tây Ban Nha và khôi phục đạo Thiên Chúa. Cả hai công việc này đều không được lòng dân. Người Anh không ưa người ngoại quốc mà nhất là người Tây Ban Nha, hơn nữa hơn 20 năm trời họ đã quen với đạo Tin Lành. Để loại trừ kẻ bất phục, Maria áp dụng tử hình và tra tấn. Vài trăm người, kể cả Tổng giám mục Canterbury, Thomas Cranmer đã bị lên giàn hỏa. Maria nhận được biệt anh là Nữ hoàng khát máu. Ngoài ra, theo yêu cầu của chồng, Maria tiến hành cuộc chiến tranh với Pháp, bị thua và mất luôn đất Charles, mảnh đất cuối cùng của Anh trên lục địa. Năm 1559 Elizabeth I, con gái của Henry VIII với Anne Boleyn bị tử hình lên kế vị Maria. Bà noi gương theo người anh cả, lựa trọn đạo Tin Lành. Trong quyết định này tình cảm nhiều hơn là sự tính toán sáng suốt về chính trị. Tầm nhìn của nữ hoàng làm kinh ngạc tất cả những ai biết bà. Elazabeth, nữ hoàng cuối cùng của triều đại Tudor, bà không có con và không bao giờ lấy chồng. Bà có biệt hiệu Nữ hoàng Đồng trinh. Người ta còn gọi bà theo cách khác. Nữ hoàng Bess nhân hậu. Triều đại của bà là một trong những triều đại rực rỡ nhất trong lịch sử nước Anh. Cầm quyền ở Scotland là Maria Steward người bà con của Elizabeth, là đối thủ chính và nguy hiểm của bà. Là đồng minh của Pháp và La Mã, Maria bài trừ đạo Tin Lành ở Scotland và có tham vọng ngai vàng nước Anh. Cuộc chiến giữa tín đồ Công giáo và Tin Lành, mà Elizabeth ủng hộ đạo Tin Lành, kết thúc bằng sự thất bại và cầm tù của Maria. Maria trốn thoát, nhưng âm mưu giành ngaai vàng của bà không thành công. Sau thời gian dài bị giam giữ ở Anh, năm 1587 Maria - nữ hoàng Scotland bị tử hình. Trong những năm cai trị của Elazabeth, nước Anh trở thành một đại cường quốc trên biển. Chiến hạm Anh bắt đầu kiểm soát không chỉ các vùng biển Anh mà còn làm Tây Ban Nha tức giận. Lúc đó Tây Ban Nha là cường quốc mạnh nhất, kiểm soát không chỉ các bờ biển châu Âu mà cả châu Mỹ, nơi người Tây Ban Nha đặt
  7. chân đến đầu tiên. Sự truy đuổi các tín đồ Tin Lành ở Âu lục buộc Elizabeth tham chiến. Nữ hoàng cử quân đội đến giúp những tín đồ Tin Lành Pháp, những người trung thành nhất của mình ở Scotland và các nước châu Âu. Anh ủng hộ Bỉ trong cuộc đấu tranh giành độc lập chống Tây Ban Nha. Sau lần Elizabeth từ chối lấ Philip II. Tây Ban Nha đưa hạm đội bách chiến bách thắng đến bờ biển nước Anh, để loại trừ khỏi chính trường đối thủ của chính Tây Ban Nha trên biển và trên thế giới. Lực lượng không tương quan, nhưng Anh khéo léo lợi dụng tính cơ động kém của hạm đội Tây Ban Nha, đã đánh bại kẻ thù. Hạm đội Tây Ban Nha hoàn toàn thất bại khi bất ngờ gặp trận bão trên đường về. Nước Anh trở thành chủ nhân của biển cả, những nhà hàng nổi tiếng Francis Jack và Walter Paley làm tăng thêm sự hùng mạnh và vinh quang cho nữ hoàng và đất nước mình. Và còn hùng hồn hơn nữa khi nói về thời đại của Elizabeth, rằng Spencer, Marlowe và Shakespeare đã sáng tác trong những năm này. Năm 1603 sau khi Elizabeth mất, Jacob I, con trai của Mari Steward bị tử hình lên làm vua nước Anh và Scotland. Thế kỷ 17 là thời kỳ của những trấn động tàn khốc trên các đảo Anh quốc. Những tín đồ Thanh giáo, một nhánh cấp tiến của đạo Tin Lành, thất vọng vì giáo hội Anh, cho rằng họ vẫn còn nặng Công giáo. Mâu thuẫn giữa quyền hành của vua và nghị viện tăng lên. Năm 1628 nghị viện vua Charles I ký Đơn thỉnh cầu về quyền hạn chế sự toàn quyền của vua. Charles cố gắng thoát khỏi nghị viện, giải tán nghị viện ( năm 1640). Tín đồ Thanh giáo kêu gọi những người ủng hộ mình cầm vũ khí và năm 1642 nội chiến bắt đầu. Oliver Cromwell lãnh đạo cuộc đấu tranh chống lại vua, đưa Thanh giáo đến thắng lợi. Năm 1649 vua Charles bị tử hình, nước Anh tuyên bố là Khối liên minh. Năm 1649 – 1651 Cromwell sáp nhập Scotland và Ireland vào khối liên minh. Sau khi Cromwell mất năm 1658, trong chính phủ Anh không tìm được người có thế tiếp tục công việc của ông. Sau đó Scotland tách khỏi Anh.
  8. Nghị viện đã giải tán năm 1640 lại tập hợp. Năm 1660 con trai của Charles I trở về sau cuộc lưu đày và trở thành vua Charles II. Trong thời gian của ông, nghị viện thành lập hai đảng ( đảng Whig ủng hộ Steward). Charles mất vào năm 1685 và Jocob II lên nắm quyền. Ba năm sau các đối thủ thay đổi ông, giành ngai vàng cho Wilhelm Oran, con rể của charles I. Jacob II chạy trốn khỏi đất nước. Năm 1689 theo quyết định của nghị viện, Wilhelm và vợ bước lên ngai vàng. Để tỏ lòng cảm ơn, tân quân vương phê duyệt luật dự thảo về quyền phê sự vi phạm luật của tiền vương. Năm 1701 nghị viện thông qua đạo luật, theo đó triều đại các tín đồ Công giáo – Steward thực tế bị trục suất khỏi ngai vàng nước Anh. Sáu năm sau. Anh và Scotland thống nhất thành Đại vương quốc Anh, đặt thủ đô ở London. Giờ đây trong nước có một nghị viện thống nhất, hệ thống hành chính thống nhất, một hệ thống thuế và hệ thống và hệ thống đo lường chung. Trong khi đó ở Anh và Scotland vẫn tồn tại những hệ thống lập pháp và giáo hội riêng biệt, ở Scotaland là giáo hội Tin Lành, còn ở Anh và Wales là giáo hội Anh. Hầu như suốt thế kỷ 18 trước Anh nằm trong tình trạng chiến tranh. Đầu thế kỷ cuộc chiến tranh vì quyền lực thừa kế của Tây Ban Nha kết thúc với hiệp ước Utrecht ( năm 1713), theo đó Anh công nhận dòng họ Bourbon có quyền lên ngai vàng Tây Ban Nha. Pháp trả cho Anh các lãnh thổ ở Bắc Mỹ ( New Foundland), New Scotia và vùng bờ vịnh Hudson), còn Tây Ban Nha nhượng Gibraltar, đảo Mennorca cho Anh và cho Pháp. Anh buôn bán với thuộc địa của Tây Ban Nha ở Mỹ. Như vậy, không tham gia chiến tranh thì Anh được nhiều hơn mất. Năm 1739 Anh chiến đấu chống Tây Ban Nha, năm sau đứng về phía Áo tham chiến chống Pháp, Phổ và Tây Ban Nha. Vào những năm 50 quyền lợi của Anh và Pháp ở Bắc Mỹ và Ấn Độ mâu thuẫn nhau. Năm 1756 bắt đầu cuộc chiến Bảy năm giữa Anh, Phổ là một bên và Pháp trong khối liên minh với Áo và Nga là một bên và sau đó có cả Tân Ban Nha. Hiệp ước Paris ( 1763) xác nhận thắng lợi hoàn toàn của Anh. Anh có quyền ở tất cả các lãnh thổ tranh chấp ( với Pháp ), kể cả Florida. Tuy vậy 13 năm sau Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ tuyên bố độc lập. Cuộc chiến tranh với
  9. thuộc địa của mình cách đây không lâu kết thúc với thất bại của Anh. Và cuối cùng, vào cuối thế kỷ. Anh cùng với Áo, Phổ và Nga tham chiến chống Pháp, cuộc chiến tranh Napoleon mà ở đó Nga và đồng minh thường bị thua. Tuy nhiên, chiến tranh kết thúc bằng việc chiếm Paris năm 1814, sau đó khi Napoleon từ Elbe trở về thì phe liên minh giành thắng lợi hoàn toàn ở trận Weterloo. Trong thời gian chiến tranh Ireland liên kết vào Anh. Đồng thời ở Anh diễn ra cuộc cách mạng công nghiêp. Các phát minh làm tăng thêm năng suất lao động lên nhiều lần. Trong vòng vài thập niên, các xí nghiệp tăng sản phẩm dệt lên 12 lần, nấu gang và khai thác than đá tăng 4 lần. Công nghiệp đóng tàu biển phát triển, đường sắt được xây dựng, xuất hiện các phương tiện thông tin mới. Tất cả các sự kiện này đi kèm với sự phát triển nhanh chóng các thành phố, đặc biệt là ở Tây Bắc nước Anh, ở Scotland và ở Wales. Đến năm 1851 dân số London đạt tới 2,5 triệu người, trở thành thành phố lớn nhất thế giới, trung tâm thương mại, tài chính, giao thông của thế giới. Nửa thế kỷ 19, đối với Anh là thời kỳ tích cực tham gia vào phân chia lại lãnh thổ thế giới, Ấn Độ, Ai Cập, Đông Nam Á, Nam Phi - đó là danh sách còn rất nhiều các vùng mà ở đó vị trí của Anh đặc biệt mạnh. Năm 1882 Đức, Áo và Ý thành lập cái gọi là Liên minh 3 nước. Đổi lại, vào năm 1907 xuất hiện khối đồng minh gồm Anh, Pháp, Nga. Sau đó hai khối đã cùng với rất nhiều đồng minh của mình lao vào cuộc chiến đẫm máu 4 năm. Kết quả của Thế chiến thứ nhất là Anh có được một số phần thuộc địa mà trước đó là của Đức. Phần lớn Ireland tách khỏi Anh vào năm 1921. Trong thành phần của vương quốc chỉ còn lại Bắc Ireland với trung tâm ở Belfast. Sự thăng bằng kinh tế ngắn ngủi của những năm 20 nhường chỗ cho cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vào những năm 30. Đến lúc đó Anh không còn là thủ lĩnh kinh tế thế giới, nhường chỗ cho Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Trong Thế chiến thứ hai đồng minh và kẻ thù của Anh vẫn là nước cũ. Và kết cục chiến tranh vẫn như vậy – nước Đức bị thất trận. Những năm sau chiến tranh phong trào giành độc lập của các nước thuộc địa vẫn tiếp tục. Những nỗ lực ngoại giao nhằm bảo vệ ảnh hưởng ở các thuộc địa cũ không phải lúc nào cũng mang lại kết quả tích cực.
  10. Vào những năm 1960 quan hệ với những tín đồ Công giáo ở Bắc Ireland căng thẳng đến mức tột độ. Cuộc khủng hoảng Falkland năm 1982 kết thúc bằng cuộc chiến tranh thực sự ở vùng biển Argentina. Năm 1979 bà Margaret Thatche – người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử châu Âu trở thành thủ tướng. Bà tiến hành đường lối cứng rắn trong chính sách đối nội và đối ngoại ( quan hệ với những người khủng bố từ quân đội cách mạng Ireland, cách xử lý trong thời gian khủng hoảng ở Falkland), cũng như trong kinh tế ( tư hữu hóa hàng loạt các nghành công nghiệp). Quyền ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Anh là được tham gia thực tế vào tất cả các quyết định lớn do Mỹ tiến hành, ví dụ trong cuộc đối đầu với Mỹ - Irak ( 1991 – 1998). Người Anh đồng ý với vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ. Tên gọi: Liên hiệp vương quốc Anh và Bắc Ireland. Diện tích. 244.820km2. Dân số ( năm 1999) 58.610.000 người. Sáu tín ngưỡng chính. Anh giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành, đạo Islam, Ấn Độ Giáo. Cơ cấu nhà nước. nước Anh theo chế độ quân chủ nghị viện có hiến pháp không thành văn, thực tế gồm một số tài liệu lịch sử. Đại hiến chương tự do ( 1215) Đơn thỉnh cầu về quyền ( 1628) và Luật dự thảo về các quyền ( 1689), các biên bản luật pháp, pháp lệ hôn nhân ( quyền phổ thông - common law) truyền thống. Nguyên thủ quốc gia. Quốc vương ( hiện nay là nữ hoàng Elizabeth II từ triều đại Windsor) Đứng đầu chính phủ. Thủ tướng ( thường là thủ lĩnh đa số ở hạ viện) Quyền lập hiến. Nghị viện hai viện ( viện Nguyên lão và viện Bình dân). Đơn vị hành chính. 47 hạt, 7 hạt thủ đô, 26 tỉnh và 3 lãnh thổ đảo. Thủ đô. London ( 6. 967.500 người)
nguon tai.lieu . vn