Xem mẫu

  1. ĐỊA LÍ LÀO CAI – ĐỊA LÝ TỈNH  LÀO CAI Nếu các bạn tìm trong Wikipedia, google, cổng thông tin điện tử Lào Cai sẽ  thấy nhưng rất chung chung, nay mình xin được dùng chút kiến thức chuyên  môn biên tập thêm cho các bạn cùng tìm hiểu, cảm ơn đã dành thời gian đọc  bài này. Thân ái! I. KHÁI QUÁT CHUNG Lịch sử Lào Cai là một vùng đất cổ, diện mạo địa hình được hình thành cách nay 50­60  triệu năm, trong đợt tạo sơn cuối cùng, vỏ trái đất vặn mình, đứt gẫy. Hơn vạn  năm trước, con người đã có mặt tại địa bàn tại đây. Tổ tiên người bản địa Lào  Cai nay hồi đó cư trú khá tập trung ở các dải đồi ven sông Hồng, sông Chẩy,  các cửa ngòi Mi, ngòi Nhù. Các chủ nhân văn hóa Hòa Bình ở Lào Cai đã biết  làm nông nghiệp. Trong buổi đầu các bộ tộc xác định ranh giới chủ quyền, thời Hùng Vương thuộc 
  2. Tân Hưng, là một trong 15 bộ của Nhà nước Văn Lang. Thời Âu Lạcthì vùng  phía đông và phía nam Lào Cai thuộc bộ lạc Tây Vu, còn một phần đất phía  đông và phía bắc Lào Cai hiện nay thuộc phạm vi của các bộ lạc nhỏ hơn  không chịu thuần phục Lạc Việt. Thời Bắc thuộc, ban đầu là địa phận thuộc huyện Tây Vu, quận Giao Chỉ. Sau  này thuộc là quận Tân Hưng, đất Giao Châu (thời Tây Tấn), sau là đất châu  Đan Đường, Chu Quý thuộc Giao Chỉ (thời Tùy), tiếp đổi Lâm Tây châu, Đức  Hóa châu thuộc phủ An Nam (thời Đường, 679. Sau khi đánh chiếm Lào Cai (tháng 3 năm 1886), đế quốc Pháp cai quản địa  hạt Lào Cai theo chế độ quân sự. Ngày 7 tháng 1 năm 1899, đạo quan binh IV  được thành lập bao gồm Tiểu quân khu Yên Bái và Tiểu quân khu Lào Cai Lào  Cai là đạo lỵ, thủ phủ của đạo quan binh IV.  Để dễ bề kiểm soát và tiến hành khai thác, thực dân Pháp đã chia lại khu vực  hành chính và thay đổi chế độ cai trị. Ngày 12 tháng 7 năm 1907, Toàn quyền  Đông Dương ra nghị định bãi bỏ đạo quan binh IV Lào Cai, chuyển từ chế độ  quân quản sang chế độ cai trị dân sự, thành lập tỉnh Lào Cai. Từ đây địa danh  tỉnh Lào Cai được xác định trên bản đồ Việt Nam. Ngày 12 tháng 7 năm 1907  được xác định là ngày thành lập tỉnh Lào Cai. Trải qua những biến động thăng trầm của lịch sử, địa lý Lào Cai cũng có nhiều  thay đổi Lào Cai là tỉnh vùng cao biên giới nằm phía Tây Bắc Việt Nam cách Hà Nội 296  km theo đường sắt và 345 km theo đường bộ. Phía đông giáp tỉnh Hà Giang; 
  3. phía tây giáp tỉnh Sơn La và Lai Châu; phía nam giáp tỉnh Yên Bái, phía bắc  giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) với 203 km đường biên giới. Cách ngày nay hơn vạn năm, con người đã có mặt tại địa bàn Lào Cai. Thời  Hùng Vương dựng nước, vùng đất Lào Cai thuộc bộ Tân Hưng, là một trong 15  bộ của Nhà nước Văn Lang ­ là một trung tâm kinh tế chính trị lớn ở thượng  nguồn sông Hồng. Đến đời Đinh, Lý, Trần, Lê có biết bao biến động về địa danh... Đến đời nhà  Nguyễn, vùng đất Lào Cai chủ yếu thuộc đất của châu Thuỷ Vỹ, châu Văn Bàn,  một phần thuộc châu Chiêu Tấn và một phần nhỏ thuộc châu Lục Yên thuộc  phủ Quy Hoá. Đến thời điểm này địa danh Lào Cai chưa được hình thành. Vùng đất thị xã Lào Cai ngày nay xưa kia có một khu chợ, dần dần người ta mở  mang thêm một phố chợ. Vì thế phố chợ đầu tiên này theo tiếng địa phương  được gọi là Lão Nhai (tức Phố Cũ). Sau này người ta mở thêm một phố chợ  khác gọi là Tân Nhai (Phố Mới ngày nay). Theo cố giáo sư Đào Duy Anh, từ  Lão Nhai được biến âm thành Lao Cai và được gọi một thời gian khá dài. Khi  làm bản đồ, người Pháp viết Lao Cai thành Lào Kay. Danh từ Lào Kay đã dược người Pháp sử dụng trong các văn bản và con dấu.  Nhưng trong giao tiếp và dân gian người ta vẫn gọi là Lao Cai. Sau ngày tỉnh  Lao Cai được giải phóng (11­1950), đã thống nhất gọi là Lào Cai cho đến ngày  nay. Sau khi đánh chiếm Lào Cai (3 ­1886) và khi hoàn thành công cuộc bình định 
  4. quân sự, thực dân Pháp cai quản địa hạt Lào Cai theo chế độ quân sự. Ngày  7/01/1899, đạo quan binh IV được thành lập bao gồm Tiểu quân khu Yên Bái và  Tiểu quân khu Lào Cai.  Lào Cai là đạo lỵ, thủ phủ của đạo quan binh IV. Để dễ bề kiểm soát và tiến  hành khai thác bóc lột, thực dân Pháp đã chia lại khu vực hành chính và thay  đổi chế độ cai trị. Ngày 12/7/1907, toàn quyền Đông Dương ra nghị định bãi bỏ  đạo quan binh IV Lào Cai, chuyển từ chế độ quân quản sang chế độ cai trị dân  sự, thành lập tỉnh Lào Cai.  Từ đây địa danh tỉnh Lào Cai được xác định trên bản đồ Việt Nam. Trải qua  những biến động thăng trầm của lịch sử, địa lý Lào Cai cũng có nhiều thay đổi.  Về địa đanh hành chính,qua nhiều lần tách nhập: ­ Thành lập tỉnh dân sự Lào Cai (12/7/1907), phần đất của châu Thuỷ Vỹ bên  hữu ngạn sông Hồng sáp nhập vào Chiêu Tấn, vẫn lấy tên là châu Thuỷ Vỹ. Từ  đó địa danh Chiêu Tấn không còn. Phần đất của châu Thuỷ Vỹ bên tả ngạn  sông Hồng được tách ra lập thành châu Bảo Thắng. Tỉnh Lào Cai gồm hai châu Thuỷ Vỹ, Bảo Thắng và các đại lý Mường Khương,  Phong Thổ, Bát Xát, Bắc Hà (Pa Kha) và thị xã Lào Cai, trong đó có 855 làng  bản, 6.812 hộ, 39.099 nhân khẩu, với 11 dân tộc chủ yếu: Hmông, Dao, Tày,  Giáy... trong đó người Hmông chiếm 26,56%, Dao 22,41%, Tày, Giáy 20,77%,  Kinh 4,52%, Nùng 7,33%, Thái 9,25%, U Ní 2,48%, Hoa Kiều 4,44%, còn lại là  các dân tộc khác.
  5. ­ Sau khi tỉnh Lào Cai được giải phóng lần thứ nhất, Lào Cai được chia thành 8  huyện: Bắc Hà, Mường Khương, Bản Lầu, Bảo Thắng, Sa Pa, Bát Xát, Phong  Thổ và thị xã Lào Cai. ­ Ngày 7/5/1955, khu tự trị Thái Mèo được thành lập, huyện Phong Thổ của tỉnh  Lào Cai chuyển sang khu tự trị Thái Mèo, sau này thuộc tỉnh Lai Châu. ­ Ngày 27/3/1975, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa V đã nghị quyết hợp nhất ba  tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ thành tỉnh mới lấy tên là Hoàng Liên Sơn. ­ Ngày 17/4/1979, Hội đồng Chính phủ ra quyết định hợp nhất thị xã Lào Cai và  Cam Đường thành thị xã Lào Cai trực thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn. ­ Ngày 12/8/1991 kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII ra Nghị quyết chia tỉnh Hoàng  Liên Sơn thành hai tỉnh Yên Bái và Lào Cai. Ngày 10/10/1991 tỉnh Lào Cai được  tái lập, trên cơ sở vùng đất Lào Cai (cũ) và bổ sung thêm ba huyện: Bảo Yên,  Văn Bàn (thuộc Yên Bái cũ), Than Uyên (thuộc Nghĩa Lộ cũ) bao gồm 8 huyện,  hai thị xã. ­ Ngày 9/6/1992, Hội đồng Bộ trưởng quyết định tách thị xã Lào Cai thành hai  thị xã Lào Cai và Cam Đường. ­ Ngày 30/12/2000, huyện Bắc Hà được tách thành hai huyện Si Ma Cai và Bắc  Hà. ­ Ngày 31/01/2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định sáp nhập thị xã  Lào Cai và thị xã Cam Đường thành thị xã tỉnh lỵ Lào Cai.
  6. ­ Ngày 1/01/2004, huyện Than Uyên được tách ra thuộc tỉnh Lai Châu (mới). ­ Ngày 30/11/2004, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 195/2004/NĐ­ CP về việc thành lập thành phố Lào Cai thuộc tỉnh Lào Cai. Hiện nay, tỉnh Lào Cai gồm thành phố Lào Cai và 8 huyện: Bảo Thắng, Bảo  Yên, Bắc Hà, Si Ma Cai, Mường Khương, Sa Pa, Bát Xát, Văn Bàn. Diện tích tự  nhiên 6.383,88 km2. Đơn vị hành chính Lào Cai bao gồm 1 thành phố trực thuộc và 8 huyện Thành phố Lào Cai 12 phường và 5 xã Huyện Bảo Thắng 3 thị trấn và 12 xã Huyện Bảo Yên 1 thị trấn và 17 xã Huyện Bát Xát 1 thị trấn và 22 xã Huyện Bắc Hà 1 thị trấn và 20 xã Huyện Mường Khương 1 thị trấn và 15 xã Huyện Sa Pa 1 thị trấn và 17 xã Huyện Si Ma Cai 13 xã Huyện Văn Bàn 1 thị trấn và 22 xã Tỉnh Lào Cai có 164 đơn vị cấp xã gồm 12 phường, 9 thị trấn và 143 xã. II. VỊ TRÍ ĐỊA LÍ­ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN­TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
  7. 1.Vị trí địa lí Vị trí địa lý: Lào Cai là tỉnh vùng cao biên giới, nằm chính giữa vùng Đông Bắc  và vùng Tây Bắc của Việt Nam, cách Hà Nội 296 km theo đường sắt và 345 km  theo đường bộ. Tỉnh Lào Cai được tái lập tháng 10/1991 trên cơ sở tách ra từ  tỉnh Hoàng Liên Sơn. Từ ngày 01/01/2004 (sau khi tách huyện Than Uyên sang tỉnh Lai Châu) diện  tích tự nhiên: 6.383,88 km2 (chiếm 2,44% diện tích cả nước, là tỉnh có diện tích  lớn thứ 19/64 tỉnh, thành phố cả nước). Phía Đông giáp tỉnh Hà Giang, phía Nam giáp tỉnh Yên Bái, phía Tây giáp tỉnh  Lai Châu, phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam ­ Trung Quốc với 203 km đường biên  giới. 2. Điều kiện tự nhiên Địa hình Địa hình: Địa hình Lào Cai rất phức tạp, phân tầng độ cao lớn, mức độ chia cắt  mạnh. Hai dãy núi chính là dãy Hoàng Liên Sơn và dãy Con Voi cùng có hướng  Tây Bắc ­ Đông Nam nằm về phía đông và phía tây tạo ra các vùng đất thấp,  trung bình giữa hai dãy núi này và một vùng về phía tây dãy Hoàng Liên Sơn.  Ngoài ra còn rất nhiều núi nhỏ hơn phân bố đa dạng, chia cắt tạo ra những tiểu  vùng khí hậu khác nhau.
  8. Do địa hình chia cắt nên phân đai cao thấp khá rõ ràng, trong đó độ cao từ  300m ­ 1.000m chiếm phần lớn diện tích toàn tỉnh. Điểm cao nhất là đỉnh núi  Phan Xi Păng trên dãy Hoàng Liên Sơn có độ cao 3.143m so với mặt nước biển,  Tả Giàng Phình: 3.090m. Dải đất dọc theo sông Hồng và sông Chảy gồm thành phố Lào Cai ­ Cam  Đường ­ Bảo Thắng ­ Bảo Yên và phần phía đông huyện Văn Bàn thuộc các  đai độ cao thấp hơn (điểm thấp nhất là 80 m thuộc địa phận huyện Bảo Thắng),  địa hình ít hiểm trở hơn, có nhiều vùng đất đồi thoải, thung lũng ruộng nước  ruộng, là địa bàn thuận lợi cho sản xuất nông lâm nghiệp hoặc xây dựng, phát  triển cơ sở hạ tầng. Khí hậu Khí hậu: Lào Cai có khí hậu nhiệt đới gió mùa, song do nằm sâu trong lục địa  bị chia phối bởi yếu tố địa hình phức tạp nên diễn biến thời tiết có phần thay  đổi, khác biệt theo thời gian và không gian. Đột biến về nhiệt độ thường xuất  hiện ở dạng nhiệt độ trong ngày lên cao hoặc xuống thấp quá (vùng Sa Pa có  nhiều ngày nhiệt độ xuống dưới 00C và có tuyết rơi). Khí hậu Lào Cai chia làm hai mùa: mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10,  mùa khô bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình nằm ở  vùng cao từ 150C ­ 200C (riêng Sa Pa từ 140C ­ 160C và không có tháng nào  lên quá 200C), lượng mưa trung bình từ 1.800mm ­ >2.000mm. Nhiệt độ trung  bình nằm ở vùng thấp từ 230C ­ 290C, lượng mưa trung bình từ 1.400mm ­ 
  9. 1.700mm. Sương: Sương mù thường xuất hiện phổ biến trên toàn tỉnh, có nơi ở mức độ rất  dày. Trong các đợt rét đậm, ở những vùng núi cao và các thung lũng kín gió còn  xuất hiện sương muối, mỗi đợt kéo dài 2 ­ 3 ngày. Đặc điểm khí hậu Lào Cai rất thích hợp với các loại cây ôn đới, vì vậy Lào Cai  có lợi thế phát triển các đặc sản xứ lạnh mà các vùng khác không có được như:  hoa, quả, thảo dược và cá nước lạnh. 3. Tài nguyên thiên nhiên Tài nguyên đất: Có 10 nhóm đất chính, được chia làm 30 loại đất. 10 nhóm đất là: đất phù sa,  đất lầy, đất đen, đất đỏ vàng, đất mùn vàng đỏ, đất mùn alit trên núi, đất mùn  thô trên núi, đất đỏ vàng bị biến đổi do trồng lúa, đất sói mòn mạnh trơ sỏi đá  và đất dốc tụ. Xin giới thiệu một số nhóm đất đang được sử dụng thiết thực: ­ Nhóm đất phù sa: diện tích nhỏ, chiếm 1,47% diện tích tự nhiên, phân bố chủ  yếu dọc sông Hồng và sông Chảy, có độ phì tự nhiên khá cao, thích hợp đối với  các loại cây lương thực, cây công nghiệp. ­ Nhóm đất đỏ vàng: thường có màu nâu đỏ, đỏ nâu, đỏ vàng hoặc vàng đỏ rực  rỡ. Hình thành và phân bố rộng khắp trên địa bàn toàn tỉnh ở độ cao 900m trở 
  10. xuống, diện tích chiếm trên 40% diện tích tự nhiên. Nhóm đất này có độ phì  nhiêu khá cao, thích hợp với cây công nghiệp dài ngày, cây hàng năm. ­ Nhóm đất mùn vàng đỏ: chiếm trên 30% diện tích tự nhiên, phân bố tập trung  tại các huyện Sa Pa, Mường Khương, Bắc Hà, Bát Xát, Văn Bàn. Nhóm đất này  thích hợp trồng các loại cây dược liệu quý, cây ăn quả và nhiều loại rau ôn đới  quan trọng của tỉnh. Đồng thời, nhóm đất này có thảm thực vật rừng phong  phú, đa dạng bậc nhất của tỉnh. ­ Nhóm đất mùn alit trên núi: chiếm 11,42% diện tích tự nhiên, tập trung ở  huyện Sa Pa, Văn Bàn... có thảm rừng đầu nguồn khá tốt, thích hợp với một số  loại cây trúc cần câu, đỗ quyên, trúc lùn, rừng hỗn giao. ­ Nhóm đất đỏ vàng bị biến đổi màu do trồng lúa: đây là các loại đất feralitic  hoặc mùn feralitic ở các sườn và chân sườn ít dốc được con người bỏ nhiều  công sức tạo thành các ruộng bậc thang để trồng trọt hoa màu. Diện tích chiếm  khoảng 2% diện tích tự nhiên phân bố rải rác ở các huyện tạo nên những cảnh  quan ruộng bậc thang rất đẹp mà tiêu biểu là hai huyện Bắc Hà và Sa Pa. * Với đặc diểm đất đai nói trên, trong quá trình quản lý, sử dụng được chia như  sau: ­ Đất nông nghiệp: 76.930 ha bao gồm: + Đất trồng cây hàng năm: 59378 ha, trong đó đất lúa có 28.215 ha + Đất trồng cây lâu năm: 12.668 ha + Đất cỏ dùng vào chăn nuôi: 3.363 ha
  11. + Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản: 1.521 ha ­ Đất lâm nghiệp: 307.573 ha, trong đó rừng tự nhiên có 24943 ha. ­ Đất ở: 3.307 ha. ­ Đất chuyên dùng: 31.330 ha. ­ Đất chưa sử dụng và sông suối, núi đá: 219.249 ha. Tài nguyên nước: Lào Cai có hệ thống sông suối dày đặc được phân bố khá đều trên địa bàn tỉnh  với 2 con sông lớn chảy qua là sông Hồng (130 km chiều dài chảy qua tỉnh) và  sông Chảy bắt nguồn từ Vân Nam (Trung Quốc) có chiều dài đoạn chảy qua  tỉnh là 124 km. Ngoài 2 con sông lớn, trên địa bàn tỉnh còn có hàng nghìn sông,  suối lớn nhỏ (trong đó có 107 sông, suối dài từ 10 km trở lên). Đây là điều kiện  thuận lợi cho Lào Cai phát triển các công trình thuỷ điện vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, nguồn nước nguồn ước tính có trữ lượng xấp xỉ 30 triệu m3, trữ  lượng động khoảng 4.448 triệu m3 với chất lượng khá tốt, ít bị nhiễm vi khuẩn. Theo các tài liệu điều tra, trên địa bàn tỉnh có bốn nguồn nước khoáng, nước  nóng có nhiệt độ khoảng 400C và nguồn nước siêu nhạt ở huyện Sa Pa, hiện  chưa được khai thác, sử dụng. Tài nguyên rừng: ­ Rừng: 307.573 ha, trong đó có 249.434 ha rừng tự nhiên và 58.139 ha rừng 
  12. trồng. ­ Thực vật rừng: rất phong phú cả về số lượng loài và tính điển hình của thực  vật. Riêng tại khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên Sơn đã phát hiện được 847  loài thực vật thuộc 164 họ, 5 ngành, trong đó có nhiều loại quý hiếm như: Lát  Hoa, Thiết Sam, Đinh, Nghiến,... ­ Động vật rừng: theo các tài liệu nghiên cứu, Lào Cai có 442 loài chim, thú, bò  sát, ếch nhái. Trong đó thú có 84 loài thuộc 28 họ, 9 bộ; chim có 251 loài thuộc  41 họ, 14 bộ; bò sát co 73 loài thuộc 12 họ,.. . Tài nguyên khoáng sản: Tới nay đã phát hiện được 150 mỏ và điểm mỏ với trên 30 loại khoáng sản,  trong đó có một số mỏ khoáng sản đã được thăm dò, đánh giá trữ lượng, chất  lượng thuộc loại quy mô lớn nhất nước và khu vực như: mỏ A Pa Tit Cam Đường  với trữ lượng 2,5 tỷ tấn,  mỏ sắt Quý Sa trữ lượng 124 triệu tấn, mỏ đồng Sin Quyền trữ lượng 53 triệu  tấn, mỏ Molipden Ô Quy Hồ trữ lượng 15,4 nghìn tấn. Nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú và đa dạng là cơ sở để ngành công  nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản khẳng định là ngành công nghiệp mũi  nhọn của tỉnh. Tài nguyên du lịch: Trọng tâm là khu du lịch nghỉ mát Sa Pa ­ một trong 21 trọng điểm du lịch của 
  13. Việt Nam. Sa Pa nằm ở độ cao trung bình từ 1.200m ­ 1.800m, khí hậu mát mẻ  quanh năm, có phong cảnh rừng cây núi đá, thác nước và là nơi hội tụ nhiều  hoạt động văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc như chợ vùng cao,  chợ tình Sa Pa,... Đỉnh núi Phan Xi Păng ­ nóc nhà của Việt Nam có dãy núi Hoàng Liên Sơn và  khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên hấp dẫn nhiều nhà khoa học, khách du  lịch. Lào Cai có nhiều địa danh lịch sử, hang động tự nhiên và các vùng sinh thái  nông nghiệp đặc sản như mận Bắc Hà, rau ôn đới, cây dược liệu quý, cá hồi  (Phần Lan), cá tầm (Nga)...Và đặc biệt, đây còn là nơi mang đậm nét đặc trưng  văn hoá độc đáo của nhiều dân tộc anh em. Cửa khẩu Quốc tế Lào Cai ­ Hà Khẩu cũng là một điểm du lịch thú vị mà điểm  dừng chân không thể là nơi nào khác ngoài thành phố Lào Cai. Và đặc biệt, là tỉnh miền núi cao, đang phát triển nên Lào Cai còn giữ được  cảnh quan môi trường đa dạng và trong sạch. Đây sẽ là điều quan trọng tạo  nên một điểm du lịch lý tưởng đối với du khách trong và ngoài nước. Tài nguyên nhân văn: Với hơn 20 nhóm dân tộc cùng sinh sống, Lào Cai trở thành mảnh đất phong  phú về bản sắc văn hoá, về truyền thống lịch sử, di sản văn hoá,... Theo kết  quả điều tra, hiện dân tộc Thái còn lưu trữ hơn 100 bộ sách bằng chữ Pali ra đời 
  14. từ thế kỉ XIII; dân tộc Tày, Dao, Giáy có hàng nghìn bản sách cổ bằng chữ  Nôm.  Đặc biệt tại huyện Sa Pa có bãi đá cổ được chạm khắc hoa văn thể hiện các  hình tượng, bản đồ, chữ ký, ký hiệu,...Hơn nữa, những biến động trong lịch sử  đã để lại cho Lào Cai nhiều di tích nổi tiếng như đền Bảo Hà, đền Thượng, kiến  trúc nhà Hoàng A Tưởng,... Không chỉ nhiều di sản vật thể và phi vật thể được  phát hiện, bảo tồn mà một kho tàng văn học dân gian đồ sộ đến nay vẫn chưa  được khám phá hết.
nguon tai.lieu . vn