Xem mẫu

  1. Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2020. ISBN: 978-604-82-3869-8 ĐÁNH GIÁ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA SỐ LƯỢNG TRẠM ĐO MƯA TRONG VIỆC TÍNH TOÁN LƯU LƯỢNG BẰNG MÔ HÌNH SWAT Đào Thị Huệ1, Vũ Đức Tùng2 1 Trường Đại học Thủy lợi, email: hue.dt@tlu.edu.vn 2 Tổng cục Phòng chống thiên tai 1. GIỚI THIỆU CHUNG hình SWAT cho toàn bộ lưu vực sông Hồng (giới hạn bởi đầu nguồn của sông tại Trung Dòng chảy được biết đến là một quá trình Quốc và trạm Sơn Tây ở Việt Nam) để xác tích hợp của các quá trình khí quyển và địa định dòng chảy lưu vực trong 2 trường hợp hình [1], đóng vai trò chính trong lĩnh vực khác nhau về trạm đo mưa để xem xét ảnh tài nguyên nước, môi trường và thủy văn của hưởng của số liệu mưa đầu vào trong việc lưu vực sông [2]. Đó cũng là nền tảng để tính toán lưu lượng trong khu vực. giúp các nhà nghiên cứu có thể hiểu được về vận chuyển trầm tích và xây dựng hệ thống 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU cảnh báo lũ. Để hiểu được các vấn đề này, việc ứng dụng các mô hình thủy văn được Trong bài báo này, nhóm tác giả lựa chọn cho là một trong những giải pháp hữu hiệu mô hình thủy văn SWAT để tính toán lưu nhất. Trong số các mô hình thủy văn, mô lượng trên toàn bộ lưu vực sông Hồng. Dữ hình SWAT đã được áp dụng rộng rãi trong liệu đầu vào được thu thập bao gồm: (1) Các nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, nhất là dữ liệu không gian như bản đồ địa hình lưu ứng dụng trong nghiên cứu thủy văn và vận vực dưới dạng mô hình số độ cao DEM chuyển trầm tích ở các lưu vực nhỏ và lớn. (nguồn: https://earthexplorer.usgs.gov), bản Các nghiên cứu [3], [4] vào năm 2011 và đồ thổ nhưỡng (nguồn: FAO), bản đồ sử 2018 đã mô phỏng việc xả thải và vận dụng đất của lưu vực năm 2007 (nguồn: Bộ chuyển trầm tích trong lưu vực tại Pháp và tài nguyên môi trường) và (2) các dữ liệu lưu vực sông Wadi Harraza. Các ứng dụng thuộc tính bao gồm vị trí địa lý các trạm thủy tương tự của mô hình SWAT trong nghiên văn và số liệu khí tượng (nguồn: Bộ nông cứu dòng chảy và vận chuyển trầm tích được nghiệp và phát triển nông thôn). giới thiệu bởi Abbaspour vào năm 2007 [5] Mô hình được thiết lập với một cửa ra tại và Chantha và cộng sự vào năm 2011 [6]. Kết quả từ các nghiên cứu đã chỉ ra rằng trạm Sơn Tây cho toàn bộ lưu vực với thời việc sử dụng mô hình SWAT có thể giúp mô lượng tính toán và hiệu chỉnh trong 7 năm từ phỏng khá chính xác dòng chảy và dòng 1/1/2003 đến 31/12/2009. Sau đó mô hình sẽ trầm tích, phù hợp với dữ liệu quan trắc. được kiểm định, xác thực lại các thông số Ngoài ra, mô hình cũng có hiệu quả trong sau khi đã hiệu chỉnh trong khoảng thời gian mô phỏng dòng chảy mưa và quá trình thủy tử 1/1/2010 đến 31/12/2013. Các quá trình văn. Tuy nhiên ảnh hưởng của số lượng trạm hiệu chỉnh và kiểm định được thực hiện tại 4 đo mưa và vị trí các trạm tới kết quả của mô trạm đo dọc theo các sông chính của lưu vực hình SWAT chưa được quan tâm. Do đó, bao gồm trạm Lai Châu, Hòa Bình, Gành mục tiêu chính của bài báo là áp dụng mô Gà, Sơn Tây. 448
  2. Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2020. ISBN: 978-604-82-3869-8 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Trường hợp 1: Kết quả từ mô hình đã chỉ ra rằng dòng chảy đã được mô phỏng khá Do mục tiêu chính của bài báo là đánh giá chính xác, đúng theo xu hướng dòng chảy sự ảnh hưởng của vị trí các trạm đo mưa thực tế và thậm chí cả các khoảng thời gian trong tính toán lưu lượng nên việc chạy mô xuất hiện lũ (hình 3). Tuy nhiên sự khác biệt hình sẽ được thực hiện trong 2 trường hợp: giữa kết quả tính toán và số liệu thực đo được trường hợp 1 bao gồm 19 trạm đo mưa và thể hiện rất rõ ràng khi tính toán ở trạm đo trường hợp 2 bao gồm 61 trạm đo mưa. Lai Châu (hình 4). Sự chênh lệch về lưu lượng có thể lên đến 200-300% mỗi năm. Thiếu các trạm đo mưa ở khu vực thượng nguồn có thể là nguyên nhân gây ra sự thiếu chính xác trong việc tính toán lưu lượng ở Lai Châu. Hình 1. Vị trí các trạm đo dùng cho hiệu chỉnh và kiểm định mô hình Hình 4. Lưu lượng tại trạm Lai Châu Trường hợp 2: Trong trường hợp tăng số trạm đo mưa lên, nhất là ở các khu vực thượng nguồn, mặc dù lưu lượng mô phỏng lớn hơn số liệu thực đo tại các đỉnh lũ nhưng mô hình cũng được đánh giá cao trong tính toán lưu lượng ở trạm Sơn Tây (hình 6). Điều khác biệt so với tính toán trong trường hợp 1 là kết quả mô phỏng ở trạm Lai Châu (hình 7) Hình 2. Vị trí 19 trạm đo mưa được ghi nhận là rất tốt. Việc có thể xuất hiện trong trường hợp dòng chảy chuyển hướng và tỷ lệ bốc hơi nước quá thấp so với tổng lượng mưa (nguyên nhân là do thiếu các trạm đo nhiệt độ và việc phân loại đất sử dụng chưa chính xác có thể làm giảm khả năng thoát hơi nước) được cho là 2 nguyên nhân chính gây ra sự sai khác trong việc tính toán dòng chảy. Từ đó có thể thấy việc SWAT cho ra kết quả tính dòng chảy tốt hơn khi tại lưu vực cần tính có ít nhất một trạm đo lượng mưa. Trong trường hợp 1 là có trạm đo mưa gần khu điểm ra Sơn Tây, và trong trường hợp 2 Hình 3. Lưu lượng tại trạm Sơn Tây là có trạm đo mưa gần điểm ra Lai Châu. 449
  3. Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2020. ISBN: 978-604-82-3869-8 chuỗi số liệu từ đầu năm 2003 đến cuối năm CX KM 2009 và kiểm định lại trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến năm 2014. Kết quả đã chỉ ra mô hình đã mô phỏng tốt MZ các xu hướng của dòng chảy trong năm mặc XL PT MK PN CB dù có một vài thời điểm, lưu lượng tính toán TT NH SH MM MN MT NG LC BL TU CDBC DH TG vượt quá so với lưu lượng đo đạc thực tế tại các trạm. Trong trường hợp giảm số trạm đo TG PL MS DT VH MAPD VY DB TC MT TD mưa trong đầu vào của mô hình có thể giúp TB TH PY NB MC SM CN VY SC TL CK VS MC mô phỏng chính xác lưu lượng tại các trạm ở YC hạ lưu (trạm Sơn Tây) nhưng lại không đảm bảo được sự chính xác trong việc mô phỏng Hình 5. Vị trí 61 trạm đo mưa lưu lượng tại các trạm thượng nguồn. Việc trong trường hợp 2 kiểm tra đánh giá tại các nhánh phía trên thay vì chỉ tập trung vào 1 điểm đầu ra tại nhánh phía dưới là rất quan trọng trong việc đảm vảo sự chính xác của mô hình để đánh giá chế độ thủy văn cho lưu vực. 5. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Kahya, E., & Dracup, J.A. 1993. US stream flow patterns in relation to the El Nino/southern oscillation. Water Resources Research 28(8), pp. 491-503. [2] Carolyne, W.L.D.A., Suzana, M.G.L.M., Hình 6. Lưu lượng tại trạm Sơn Tây Abelardo, A.A.M., Jose, R.D.S.L., Raghavan, S., Charles, A.J. 2018. Soil moisture and discharge modeling in a representative watershed in northeastern Brazil using SWAT. Ecohydrology and Hydrobiology. In press. [3] Chantha, O., Sabine, S., Jose, M.S.P. 2011. Assessment of hydrology, sediment and particulate organic carbon yield in a large agricultural catchment using SWAT model. Journal of hydrology 401, pp. 145-153. [4] Faiza, H., Mohamed, M., Gil, M., Salaheddine, A., Abdelkader, K. 2018. Hình 7. Lưu lượng tại trạm Lai Châu Modeling of discharge and sediment transport through the SWAT model in the 4. KẾT LUẬN basin of Harraza (Northwest of Algeria). Water Science 32, pp. 79-88. Nghiên cứu này đã cố gắng mô phỏng lại [5] Abbaspour, K.C. 2007. User Manual for dòng chảy trên toàn bộ lưu vực sông Hồng SWAT-CUP, SWAT Calibration and (giới hạn bởi đầu nguồn của sông tại Trung Uncertainty Analysis Programs. Swiss Quốc và trạm Sơn Tây ở Việt Nam) bằng mô Federal Institute of Aquatic Science and hình SWAT. Mô hình được hiệu chỉnh với Technology, Eawag, Dübendorf, Switzerland. 450
nguon tai.lieu . vn