Xem mẫu

  1. KỈ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2013-2014 ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG CỦA BÃO Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1961 – 2010 Triệu Thị Thắm, Lớp K62TN, Khoa Địa lí GVHD: TS. Đào Ngọc Hùng Tóm tắt: Bão là một loại hình thời tiết nguy hiểm hàng đầu đối với con người và xã hội. Đối với nước ta hoạt động của bão cùng với hệ quả của tai biến thiên nhiên này đã để lại những hậu quả nghiêm trọng về môi trường và thiệt hại nặng nề về kinh tế - xã hội. Đề tài “Đánh giá hoạt động của bão ở Việt Nam giai đoạn 1961 – 2010” sẽ cung cấp thêm những hiểu biết chung về bão, giúp chúng ta thấy được nguyên nhân vì sao nước ta thường xuyên chịu ảnh hưởng của bão, biểu hiện của bão và tác động của bão ở vùng ven biển Việt Nam trong giai đoạn 1961 – 2010, đồng thời tác giả cũng tiến hành tìm hiểu và tổng hợp các biện pháp phòng chống bão ở các vùng miền nước ta. Từ khóa: Bão, Việt Nam I. MỞ ĐẦU Trong bối cảnh biến đổi khí hậu các thiên tai diễn ra ngày càng cực đoan hơn, các cơn bão trên thế giới đã gây thiệt hại lớn về ngƣời và của. Theo số liệu thống kê của Liên hợp quốc hàng năm trên thế giới có khoảng 23.000 ngƣời chết; 2,6 triệu ngƣời mất nhà ở do bão gây ra. Việt Nam với đƣờng bờ biển dài 3260 km, lại nằm trong vùng nhiệt đới nên chịu tổn thất nặng nề bởi bão. Chính vì vậy đề tài “Đánh giá hoạt động của bão ở Việt Nam giai đoạn 1961 – 2010” ngoài việc nâng cao nhận thức của bản thân về bão còn nhằm mục đích tìm hiểu và tổng hợp các biện pháp phòng chống bão hiệu quả. II. NỘI DUNG 1. Những hiểu biết chung về bão Bão là một xoáy thuận nhiệt đới với sức gió mạnh nhất từ cấp 8 trở lên và có thể có gió giật. Bão có thể đƣợc gọi bằng những thuật ngữ khác nhau tùy theo từng khu vực, ở khu vực tây bắc Thái Bình Dƣơng và biển Đông bão đƣợc gọi chung là “Typhoon”. Các thành phần chính của bão bao gồm: các dải mƣa ở rìa ngoài, mắt bão nằm ở chính giữa và thành mắt bão nằm ở ngay sát mắt bão. Thời gian tồn tại trung bình của bão khoảng 7 – 8 ngày đêm tính từ thời điểm bão hình thành cho đến khi đổ bộ vào bờ hoặc tan rã trên biển. Theo Riehl có thể chia quá trình hình thành và phát triển của bão thành bốn giai đoạn: giai đoạn hình thành, giai đoạn trẻ, giai đoạn chín muồi và giai đoạn tan rã. Điều kiện hình thành bão: cơ chế hình thành và phát triển của bão rất phức, tuy nhiên đa số các nhà khoa học thừa nhận những điều kiện thuận lợi cho sự hình thành bão là: khu vực đại dƣơng có diện tích đủ lớn với nhiệt độ mặt biển đủ cao (từ 26º - 27ºC trở lên); vị trí hình thành bão phải có lực Coriolis đủ lớn để tạo xoáy; khả năng làm lạnh nhanh luồng không khí nóng ẩm bay lên tạo ra lƣợng ẩn nhiệt ngƣng tụ đủ để duy trì cơn bão tại thời điểm phát sinh bão (Erik Palmen); ở trên cao trƣờng khí áp phải phân kỳ đủ để đảm bảo giải tỏa khối lƣợng không khí hội tụ ở mặt đất và duy trì bão; ở mặt đất phải có sự nhiễu động áp thấp ban đầu (Riehl). 266
  2. KỈ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2013-2014 2. Biểu hiện, nguyên nhân, tác động của bão ở Việt Nam giai đoạn 1961–2010 2.1. Nguyên nhân nước ta thường xuyên chịu ảnh hưởng của bão Bão ở nƣớc ta hình thành chủ yếu do tác động của dải hội tụ nhiệt đới và xoáy thuận trên đƣờng đứt gãy; vị trí địa lí nƣớc ta nằm trong khu vực nội chí tuyến Bắc bán cầu (8º34´B đến 23º23´B) – khu vực có lực Coriolis đủ lớn để hình thành nên luồng gió đủ mạnh trên cao nhằm tạo xoáy cho các cơn bão; nƣớc ta tiếp giáp với biển Đông và tây Thái Bình Dƣơng - một vùng biển kín, ẩm nóng, ẩm – đây là trung tâm phát sinh bão lớn nhất thế giới. 2.2. Biểu hiện của bão và áp thấp nhiệt đới ở Việt Nam 2.2.1. Đặc điểm hoạt động của bão khu vực ven biển Việt Nam giai đoạn 1961 - 2010 Theo thống kê của Trung tâm Khí tƣợng – Thủy văn Quốc gia, trong giai đoạn 1961 – 2010 đã có 245 cơn bão và áp thấp nhiệt đới (ATNĐ) đổ bộ vào vùng ven biển Việt Nam. Trung bình mỗi năm nƣớc ta chịu ảnh hƣởng của 4,9 cơn bão và ATNĐ. Bảng 1. Số lượng bão ở các khu vực ven biển Việt Nam giai đoạn 1961 - 2010 Vùng ven biển Số lƣợng bão Tỉ lệ (%) Bắc Bộ - Thanh Hóa 86 35,1 Trung Trung Bộ 88 35,9 Nam Trung Bộ 55 22,5 Nam Bộ 16 6,5 Tổng số 245 100 Nguồn: Tính toán từ số liệu thống kê của Trung tâm Khí tượng – Thủy văn Quốc gia Bảng 2. Số lƣợng bão ở các thập kỉ vùng ven biển Việt Nam giai đoạn 1961 - 2010 Các thập kỉ Số lƣợng bão Tỉ lệ (%) 1961 – 1970 43 17,6 1971 – 1980 54 22 1981 – 1990 53 21,6 1991 – 2000 40 16,3 2001 – 2010 55 22,5 Tổng số 245 100 Nguồn: Tính toán từ số liệu thống kê của Trung tâm Khí tượng – Thủy văn Quốc gia Trong đó, riêng các tỉnh từ Nghệ An đến Quảng Bình chịu ảnh hƣởng trực tiếp của 42 cơn bão và ATNĐ, từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi là 46 cơn, chiếm tỉ lệ tƣơng ứng là 17,1% và 18,8% số lƣợng bão của cả nƣớc từ trong 50 năm qua. Trung bình trên tất cả các vùng ven biển cả nƣớc, số lƣợng bão có sự khác nhau rõ rệt giữa các thập kỉ. Nhìn chung số lƣợng bão có sự tăng lên không liên tục theo thời gian. Trong đó, thập kỉ 1991 – 2000 có ít bão nhất (40 cơn) và nhiều nhất là thập kỉ 2001 – 2010 (55 cơn). 267
  3. KỈ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2013-2014 2.2.2. Đặc điểm hoạt động của bão ở các khu vực ven biển Việt Nam theo thời gian Dựa trên đặc điểm mùa bão trong năm và tần suốt bão xuất hiện ở từng khu vực, có thể chia vùng bờ biển nƣớc ta từ bắc xuống nam thành 4 khu vực sau: Vùng bờ biển Bắc Bộ - Thanh Hóa (phía bắc vĩ tuyến 19º50´B). Vùng bờ biển Trung Trung Bộ (từ 19º40´B đến 15º50´B). Vùng bờ biển Nam Trung Bộ (từ 15º40´B đến 11º50´B). Vùng bờ biển Nam Bộ (dƣới 11º40´B). Bảng 3. Số bão và ATNĐ ảnh hưởng đến các khu vực ven biển Việt Nam trung bình tháng và năm giai đoạn 1961 - 2010 Vùng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Cả năm Bắc 0,2 0,54 0,46 0,4 0,1 0,02 1,72 Bộ- Thanh Hóa Trung 0,04 0,1 0,1 0,34 0,66 0,44 0,06 0,02 1,76 Trung Bộ Nam 0,02 0,02 0,04 0,02 0,02 0,04 0,44 0,42 0,08 1,1 Trung Bộ Nam 0,06 0,08 0,18 0,32 Bộ Tổng 0,06 0,02 0,02 0,04 0,34 0,66 0,82 1,1 1,06 0,68 0,1 4,9 cộng Nguồn: Tính toán từ số liệu của Trung tâm Khí tượng Thủy văn Quốc gia Nếu quy định mùa bão bao gồm những tháng có số bão trung bình đạt từ 8% số bão trung bình năm trở lên thì mùa bão ở Việt Nam bắt đầu từ tháng 6 và kết thúc vào tháng 11. Thời gian có bão, thời gian bão mạnh có sự khác nhau ở các khu vực ven biển nƣớc ta. - Hoạt động của bão ven biển Bắc Bộ - Thanh Hóa (từ Móng Cái – Quảng Ninh đến Thanh Hóa): Mùa bão kéo dài khoảng 4 tháng, bắt đầu từ tháng 6 và kết thúc vào tháng 9, thời gian có bão nhiều nhất từ tháng 7 đến tháng 9. Trung bình trong 50 năm qua, mỗi năm khu vực này chịu tác động của 1,72 cơn bão. Từ năm 1961 đến năm 2010, số lƣợng bão có sự chênh lệch lớn giữa các thập kỉ. Trong đó thập kỉ 1971 – 1980 có nhiều bão nhất với 23 cơn bão (Bảng 3). - Hoạt động của bão ở vùng ven biển Trung Trung Bộ (từ Nghệ An đến mũi Ba Làng An – Quảng Ngãi): Mùa bão kéo dài khoảng 3 tháng, bắt đầu từ tháng 8 và kết thúc vào tháng 10. Trong đó số lƣợng bão tập trung nhiều nhất vào tháng 9 với 0,66 cơn. Trung bình mỗi năm khu vực này chịu tác động của 1,76 cơn bão – đây là vùng thƣờng xuyên chịu tác 268
  4. KỈ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2013-2014 động của bão nhất nƣớc ta. Nhìn chung số lƣợng bão có giảm đi trong 1 – 2 thập kỉ gần đây nhƣng không liên tục. Thập kỉ 1981 – 1990 có nhiều bão nhất với 23 cơn bão, thập kỉ có ít bão nhất là từ 1991 – 2000 với 11 cơn (Bảng 4). Bảng 4. Số lượng bão ở các khu vực ven biển nước ta theo thập kỉ, giai đoạn 1961 - 2010 Số lƣợng bão Số lƣợng bão Các thập kỉ Bắc Bộ - Trung Các thập kỉ Nam Nam Bộ Thanh Hóa Trung Bộ Trung Bộ 1961 – 1970 17 17 1961 – 1970 7 2 1971 – 1980 23 20 1971 – 1980 10 1 1980 – 1991 15 23 1980 – 1991 13 2 1991 – 2000 13 11 1991 – 2000 12 5 2001 – 2010 19 17 2001 – 2010 12 7 Tổng số 87 88 Tổng số 54 17 Nguồn: Tính toán từ số liệu của Trung tâm Khí tượng Thủy văn Quốc gia - Hoạt động của bão vùng ven biển Nam Trung Bộ (từ mũi Ba Làng An – Quảng Ngãi đến Mũi Dinh – Ninh Thuận): Mùa bão của vùng bị lệch vào thu – đông, bắt đầu từ tháng 10 và kết thúc vào tháng 11. Các tháng còn lại, tần suất bão xuất hiện không đáng kể. Trung bình mỗi năm vùng chịu tác động của 1,1 cơn bão, ít hơn khá nhiều so với khu vực phía bắc. Cùng với sự suy giảm về tần số bão của khu vực, sự chênh lệch về số lƣợng bão giữa các thập kỉ của vùng cũng không lớn (Bảng 4). - Hoạt động của bão vùng ven biển Nam Bộ (từ Mũi Dinh – Ninh Thuận đến Hà Tiên – Kiên Giang): Mùa bão của khu vực bắt đầu từ tháng 10 và kết thúc vào tháng 1, bão tập trung chủ yếu vào tháng 10, tháng 11. Đây là khu vực ít chịu ảnh hƣởng của bão nhất trên cả nƣớc với tổng số bão trong 50 năm qua là 16 cơn, trung bình mỗi năm chỉ có khoảng 0,32 cơn. Có tới 35 năm trên tổng số 50 năm gần đây vùng không có bão đổ bộ trực tiếp vào. Từ năm 1961 đến nay, số lƣợng bão tăng lên trong hai thập kỉ từ năm 1991 đến năm 2010. Đây là dấu hiệu cho thấy số lƣợng bão ngày càng có xu hƣớng xuất hiện nhiều hơn ở khu vực ven biển phía nam (Bảng 4). 2.2.3. Đặc điểm của các yếu tố trong bão Chế độ gió trong bão: Tƣ liệu lịch sử về bão cho thấy rằng ở ven biển Việt Nam gió bão có thể mạnh tới cấp 12 cấp 13. Ở ven biển Việt Nam, bão có cƣờng độ mạnh từ cấp 12 trở lên thƣờng xuất hiện ở các tỉnh ven biển miền Bắc và Bình - Trị - Thiên. Vùng ven biển từ Quảng Nam tới Ninh Thuận gió bão mạnh nhất thƣờng đạt tới cấp 10 – 11. Các siêu bão xuất hiện nhiều hơn. Đặc điểm khí áp trong bão: Ngƣời ta đã chứng minh đƣợc rằng ở biển thoáng, khí áp tăng 1mb sẽ làm cho mực nƣớc biển giảm xuống 1cm và ngƣợc lại. Những cơn bão đổ bộ vào Việt Nam thƣờng có trị số khí áp thấp nhất vào khoảng 970 – 1000mb. Trị số kỉ lục 269
  5. KỈ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2013-2014 của khí áp trong bão trong giai đoạn 1961 – 2010 là 959,9mb đo đƣợc trong cơn bão CECIL – cơn bão số 8 năm 1985. Đặc điểm quỹ đạo của bão: Hƣớng di chuyển trung bình của bão khác nhau theo mùa. Thời kì nửa đầu mùa bão, quỷ đạo bão có hƣớng tây bắc, bắc và đông bắc, thƣờng đổ bộ vào đông nam Trung Quốc, Nhật Bản. Thời kì sau, quỷ đạo thiên hƣớng tây về phía Việt Nam. Trung bình, từ tháng 1 đến tháng 5, bão ít có khả năng ảnh hƣởng đến Việt Nam. Từ tháng 9 đến tháng 11, bão có nhiều khả năng ảnh hƣởng đến Trung Bộ. Ở nửa đầu mùa bão, quỷ đạo của bão ít phức tạp, và ngƣợc lại bão thƣờng di chuyển phức tạp trong nửa cuối mùa bão. Chế độ mưa trong bão: Khi đổ bộ vào ven biển nƣớc ta, bão thƣờng gây ra mƣa lớn kéo dài từ 2 – 4 ngày, tuy nhiên khi bão kết hợp với không khí lạnh thì diện mƣa lớn sẽ mở rộng và thời gian mƣa lớn sẽ kéo dài từ 3 đến 5 ngày. Lƣợng mƣa một ngày đêm ở vùng có bão đạt khoảng 150 – 300 mm, có cơn bão gây mƣa tới 400 mm, thậm chí còn lớn hơn. Mƣa lớn trong bão tập trung trong bán kính 100 – 200 km, nhƣng phạm vi mƣa lớn không hoàn toàn đồng đều quanh tâm bão. Thông thƣờng ở phần phía bắc của bão mƣa lớn hơn phần phía nam. 2.3. Tác động của bão ở Việt Nam giai đoạn 1961 - 2010 Gió mạnh trong bão: Trong tổng số 245 cơn bão đổ bộ vào Việt Nam thời kì 1961 – 2010 đƣợc phân thành 4 nhóm có gió mạnh nhất khác nhau: 60 cơn có gió mạnh nhất đạt cấp 8 - cấp 9 (chiếm 24,5% ); 44 cơn có gió đạt từ cấp 10 - cấp 11 (chiếm 18 % ); 27 cơn có gió đạt từ cấp 12 - cấp 13 (chiếm 11% ); 114 cơn là áp thấp nhiệt đới (chiếm 46,5%). Gió bão không những mạnh, kéo dài mà còn có đặc tính giật và xoay chiều phá hoại các công trình kiên cố nhƣ nhà cửa, cột điện, cầu cống và lật đổ cây to. Gió bão còn gây sóng lớn và nƣớc dâng, lật úp tàu thuyền, phá vỡ đê biển, làm ngập mặn đất đai. Mưa trong bão: mƣa do bão hoặc những quá trình mƣa có liên quan tới bão chiếm khoảng 50% tổng lƣợng mƣa cả năm của nhiều địa phƣơng thuộc Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Theo số liệu mƣa bão thời kì 1957 – 1986: có khoảng 45% bão và ATNĐ đổ bộ vào Việt Nam có tổng lƣợng mƣa 200 – 300 mm, 20% bão và ATNĐ có tổng lƣợng mƣa trên 300 mm, 20% bão và ATNĐ có tổng lƣợng mƣa 150 – 200 mm, chỉ có khoảng 15% bão và ATNĐ có tổng lƣợng mƣa dƣới 150 mm. Mƣa bão thƣờng gây ngập úng cho nhiều khu vực, lũ lớn trên nhiều triền sông. Trung bình có 30% đợt lũ trên các lƣu vực sông Bắc Bộ, từ 80 – 90% lũ trên các lƣu vực sông Bắc Trung Bộ là do mƣa bão hoặc áp thấp nhiệt đới gây ra. Nước biển dâng do bão: Nƣớc biển dâng do bão là một thiên tai nghiêm trọng đối với vùng ven biển Việt Nam. Tổng độ cao lớn nhất của thủy triều và nƣớc biển dâng do bão ở vịnh Bắc Bộ và vùng ven biển có thể lên đến 5 – 7 m. Vùng ven biển từ Đà Nẵng trở vào có thể cao từ 3 – 5 m. Mực nƣớc đó làm nền cho những con sóng con 5 – 8 m có khả năng hủy diệt tất cả những gì tồn tại ở nơi chúng tràn qua. Vì vậy, bão đổ bộ vào lúc triều cƣờng là cực kỳ nguy hiểm, ngƣợc lại khi bão đổ bộ vào lúc triều kém thì mức độ nguy hiểm về nƣớc biển dâng do bão giảm đi. Tố lốc, vòi rồng và một số hiện tƣợng khác khi có bão và áp thấp nhiệt đới. 270
  6. KỈ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2013-2014 3. Các biện pháp phòng chống bão tại các vùng miền ở Việt Nam Công tác phòng, chống bão là hoạt động phòng ngừa, chống và khắc phục hậu quả gây hại của bão nhằm giảm nhẹ thiệt hại, nhanh chóng ổn định đời sống của nhân dân, bảo vệ và phục hồi sản xuất, hạn chế ảnh hƣởng xấu đến môi trƣờng sinh thái. Nội dung phòng chống bão: Theo “Pháp lệnh phòng, chống bão” do Quốc hội ban hành năm 1993, nội dung phòng chống bão bao gồm: Phòng ngừa lâu dài, phòng chống khẩn cấp và khắc phục hậu quả do bão gây ra. Phát hiện, theo dõi và dự báo bão Phát hiện và theo dõi bão: đầu thế kỉ XX, bão đã đƣợc phát hiện và theo dõi thông qua việc phân tích các bản đồ thời tiết dựa trên các số liệu khí áp, gió, mây, mƣa… Dự báo bão: các phƣơng pháp dự báo bão chính bao gồm phƣơng pháp phân tích Sy – Nốp, phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp động lực học, phán đoán bão hoặc gió mạnh theo kinh nghiệm dân gian (trạng thái bầu trời, trạng thái mặt biển, dấu hiệu khác thƣờng của gió và sinh vật). Các loại tin bão: để tránh những thiệt hại đáng lẽ không xảy ra, cần nắm đƣợc ý nghĩa của các bản tin phát báo về bão, bao gồm các loại sau: tin theo dõi bão, tin bão xa, tin bão gần, tin bão khẩn cấp, tin bão vào đất liền, tin cuối cùng về bão. Phòng tránh, chống bão cho tàu thuyền hoạt động trên biển Tàu thuyền đang ở trên biển: phòng tránh bão từ xa là cách tốt nhất để có thể tránh hoặc hạn chế thiệt hại do bão gây (thƣờng xuyên theo dõi tin dự báo thời tiết, hệ thống tín hiệu báo động, quan sát trạng thái bầu trời và mặt biển để nhận biết thời tiết). Khi nhận đƣợc tin bão kịp thời cho tàu thuyền vào bờ hoặc tránh xa vùng ảnh hƣởng của bão. Tuyệt đối không cho tàu, thuyền ra khơi khi có tin bão khẩn cấp hoặc tin bão gần bờ. Tàu thuyền đang ở xa bờ biển: Cần điều khiển tàu thuyền tránh xa vùng bão, ATNĐ có khả năng đi tới; điều khiển tàu thuyền thoát ra khỏi vùng bão, ATNĐ; điều khiển tàu thuyền chống đỡ với sóng cao, gió mạnh trong vùng gần tâm bão, ATNĐ. Tàu thuyền đang ở ven bờ, gần bờ biển và trên sông: phải di chuyển vào bờ, vào bến cảng tìm nơi trú ẩn an toàn, neo đậu tàu thuyền đúng kĩ thuật; tuyệt đối không để ngƣ dân, thuyền viên ở lại trên tàu thuyền trong thời gian có bão, ATNĐ. Phòng, chống bão trên đất liền: Trên đất liền, bão thƣờng gây ra chết ngƣời hoặc thƣơng tích, đổ nhà cửa, úng lụt, làm mất mùa, tắc nghẽn giao thông… Vì vậy, để phòng tránh, hạn chế những thiệt hại nói trên cần có kiến thức, kinh nghiệm và biện pháp thích hợp để chủ động, đối phó với các tình huống xảy ra (dự trữ thức ăn, nƣớc uống cho gia đình tối thiểu 07 - 10 ngày; chuẩn bị các thiết bị đảm bảo ánh sáng; chuẩn bị thuốc chữa bệnh thông thƣờng; chủ động thu hoạch các sản phẩm nông nghiệp, sản phẩm nuôi trồng thủy, hải sản trƣớc khi bão, ATNĐ đổ bộ để giảm thiểu thiệt hại...). Phòng chống gió mạnh: Trƣớc mùa bão cần kiểm tra cây cối, kiểm tra độ an toàn của cột điện, nhà cửa, kho tàng… Khẩn trƣơng sơ tán dân cƣ ra khỏi vùng nguy hiểm; chằng chống nhà cửa, giăng buộc mái, đặc biệt là mái tranh và mái tôn. 271
  7. KỈ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2013-2014 Phòng, chống mưa lớn, lũ lụt: Tiến hành tu bổ đê điều, kè cống, trồng mới và bảo vệ rừng, nhất là rừng phòng hộ đầu nguồn; chuẩn bị sẵn vật tƣ, phƣơng tiện và lực lƣợng để có thể ứng cứu kịp thời khi xảy ra sự cố đê điều, miền cần đề phòng lũ quét, lũ ống, hiện tƣợng bào mòn rửa trôi… Giáo dục phòng chống bão: Một vấn đề rất quan trọng trong công tác phòng tránh thiên tai là công tác giáo dục cộng đồng các kiến thức cơ bản về các hiện tƣợng khí tƣợng thủy văn nguy hiểm nhƣ bão, ATNĐ và cách phòng tránh các hiện tƣợng này. Cần tổ chức các lớp bồi dƣỡng, phổ biến giáo dục về các biện pháp phòng chống bão để nâng cao nhận thức cộng động. Điều này đƣợc thực hiện thông qua rất nhiều hoạt động nhƣ tổ chức công tác cứu hộ, phổ biến kiến thức thông qua các phƣơng tiện thông tin đại chúng… Lồng ghép kiến thức phòng, chống bão vào chƣơng trình của các cấp học thông qua các hoạt động vui chơi, sinh hoạt tập thể, hoạt động ngoài giờ lên lớp, thông qua các xêmina khoa học, thảo luận nhóm theo chủ đề… III. KẾT LUẬN Cùng với những thay đổi bất thƣờng của thời tiết và khí hậu trên quy mô toàn cầu, các cơn bão nhiệt đới hình thành trong khu vực tây Thái Bình Dƣơng và Biển Đông trực tiếp đổ bộ vào đất liền nƣớc ta ngày càng gia tăng với tần suốt ngày càng lớn và có nhiều diễn biến thất thƣờng. Việc phân tích các đặc điểm của bão ở Việt Nam và các biện pháp phòng, chống bão đã cho thấy hoạt động của bão ở nƣớc ta giai đoạn 1961 – 2010 có nhiều diễn biến dị thƣờng so với quy luật chung của bão (dị thƣờng ở đƣờng đi của bão, ở cấp bão, ở thời gian bão, ở phạm vi ảnh hƣởng của bão và đây chính là biểu hiện của biến đổi khí hậu). Trong bối cảnh biến đổi khí hậu có nhiều diễn biến bất thƣờng, vì vậy cần kết hợp các biện pháp phòng chống bão hiệu quả để hạn chế tác động từng mặt của bão. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bùi Thị Lan, Bước đầu nghiên cứu về bão và hạn hạn ở Việt Nam, Luận văn tốt nghiệp ngành Sƣ phạm Địa lí, 2003. [2] Vũ Tự Lập, Địa lí tự nhiên Việt Nam, NXB Đại học Sƣ phạm, 2009. [3] Trƣơng Nguyễn Mân, Ngôi nhà và gió bão, NXB Xây dựng, 1999. [4] Tổng cục Khí tƣợng – Thủy Văn, Quy chế bão bão, lũ và thông tư hướng dẫn chi tiết thi hành quy chế báo bão, lũ, 1998. [5] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tài liệu phổ biến kiến thức, giáo dục kĩ năng về phòng, chống thiên tai cho các trung tâm giáo dục thường xuyên, 2013. 272
nguon tai.lieu . vn