Xem mẫu
- Châu Phi thuộc
địa
Chủ nghĩa thực dân đã tạo ra những hậu quả gây mất ổn định trên tất cả
những điều mà các bộ tộc châu Phi ngày nay còn cảm nhận được trong hệ thống
chính trị của châu Phi. Trước khi có ảnh hưởng của người châu Âu thì các ranh giới
quốc gia đã không phải là những điều đáng quan tâm nhất, trong đó người Phi
châu nói chung theo các thực tiễn trong các vùng khác của thế giới, chẳng hạn như
ở bán đảo Ả Rập, mà ở đó lãnh thổ của các nhóm dân cư là trùng khít với khu vực
có ảnh hưởng về quân sự và thương mại của họ. Sự cố tình của người châu Âu
trong việc vạch ra các ranh giới xung quanh các lãnh thổ để chia tách họ ra khỏi các
quyền lực khác tại thuộc địa thông thường có ảnh hưởng tới việc chia cắt các nhóm
dân cư hay chính trị liền kề hoặc cưỡng ép các kẻ thù truyền thống phải sống cạnh
nhau mà không có khu vực đệm giữa họ.
- Ví dụ, sông Congo, mặc dù nó dường như là ranh giới địa lý tự nhiên, đã có các
nhóm sắc tộc sống trên hai bờ sông chia sẻ cùng một ngôn ngữ và văn hóa hay các
điều gì đó tương tự. Sự phân chia đất đai giữa Bỉ và Pháp dọc theo con sông này đã
cô lập các nhóm sắc tộc này khỏi nhau. Những người sống ở khu vực Sahara hay
Hạ Sahara là những người buôn bán xuyên châu lục này trong nhiều thế kỷ, thông
thường hay vượt qua các "biên giới" mà thông thường chỉ tồn tại trên các bản đồ
của người châu Âu.
Trong các quốc gia có dân cư là người châu Âu chính gốc như Rhodesia (Zambia và
Zimbabwe ngày nay) và Cộng hòa Nam Phi, các hệ thống công dân hạng hai thông
thường được lập ra để đảm bảo cho quyền lực chính trị của người gốc Âu vượt qua
hạn chế về số lượng của họ (nếu tính theo phổ thông đầu phiếu). Tuy nhiên, các
đường vạch ra thông thường không thể hiện chính xác các ranh giới về chủng tộc.
Tại Liberia, những công dân là hậu duệ của nô lệ Mỹ đã thống trị các hệ thống
chính trị trên 100 năm, làm cho các cựu nô lệ và người bản địa trong khu vực cân
bằng tương đối về quyền lập pháp mặc dù thực tế là những cựu nô lệ này chỉ chiếm
khoảng 10% dân số nói chung. Ý tưởng kỳ quặc cho hệ thống này là của Thượng
viện Hoa Kỳ, nó làm cân bằng quyền lực của các khu vực dân tự do và nô lệ một
cách buồn cười cho dù dân số của dân tự do bản địa là nhiều hơn.
Những người châu Âu thông thường thay đổi cán cân quyền lực, tạo ra các sự phân
chia dân tộc mà trước đó đã không tồn tại, và tạo ra sự phân chia văn hóa gây hại
cho những người dân sống trong khu vực họ kiểm soát được. Ví dụ, trong khu vực
ngày nay là Rwanda và Burundi, hai sắc tộc Hutu và Tutsi đã bị trộn lẫn trong một
nền văn hóa trong thời gian những kẻ thực dân người Bỉ kiểm soát khu vực này
trong thế kỷ 19. Không còn sự phân chia sắc tộc do sự hòa trộn, hôn nhân lai tạp và
sự hòa trộn của các tục lệ văn hóa trong hàng thế kỷ đã xóa bỏ các dấu hiệu đáng
kể để phân biệt về văn hóa, người Bỉ thực hiện chính sách phân loại theo sắc tộc
trong thời gian kiểm soát khu vực này, do sự phân loại và các triết lý dựa theo sắc
tộc đã là những điều không đổi trong văn hóa châu Âu trong thời gian đó. Thuật
ngữ Hutu nguyên thủy nói tới các bộ tộc nói tiếng Bantu sinh sống bằng nông
- nghiệp đã di cư từ phía tây tới Rwandan và Burundi ngày nay, và thuật ngữ Tutsi là
nói tới các bộ tộc sinh sống bằng chăn nuôi bò từ miền đông bắc tới khu vực này
muộn hơn. Các thuật ngữ đối với người bản xứ cuối cùng đã được dùng để chỉ
đẳng cấp kinh tế của một người. Các cá nhân sở hữu từ 10 con bò hoặc nhiều hơn
được coi là người Tutsi, và những người sở hữu ít hơn thì bị coi là người Hutu,
không phụ thuộc vào lịch sử tổ tiên. Điều này không phải là ranh giới chính xác
nhưng nó là quy luật chung cho cách gọi, vì thế một người có thể chuyển từ người
Hutu sang thành người Tutsi hay ngược lại.
Người Bỉ đã đưa vào hệ thống phân biệt chủng tộc. Những cá nhân nào có nhiều
đặc trưng giống người châu Âu khi nhìn - da sáng màu, cao lớn, mũi hẹp v.v. - được
giao cho quyền lực trong số những người dân thuộc địa. Người Bỉ xác định các đặc
trưng này là lý tưởng hơn cả ở người Hamit, người Hamit theo đó là gần giống với
người châu Âu và thuộc về nhóm người có quan hệ gần với người Tutsi theo trực
hệ. Họ đã thực hiện chính sách làm thẻ căn cước dựa trên triết lý này.
Kể từ khi độc lập, các nước châu Phi đã thường xuyên bị cản trở bởi sự bất
ổn định, nạn tham nhũng, bạo lực và chủ nghĩa độc tài. Phần lớn các nước châu Phi
là các nước cộng hòa hoạt động theo một số kiểu của chế độ tổng thống. Có một ít
quốc gia ở châu Phi có chính thể dân chủ, nhưng bị nối tiếp bởi những vụ đảo
chính tàn bạo hay các chế độ độc tài quân sự.
Có không ít thủ lĩnh chính trị của châu Phi hậu thuộc địa là những người ít học và
dốt nát trong việc điều hành công việc nhà nước; nguyên nhân chính gây bất ổn
chủ yếu là do kết quả của sự cách ly của các nhóm sắc tộc và sự tham nhũng của
các thủ lĩnh này.
Ngoài ra, nhiều thủ lĩnh chính trị còn sử dụng vị trí quyền lực để kích động các
mâu thuẫn sắc tộc, làm cho nó trầm trọng hơn, hay thậm chí là tạo ra những luật lệ
thuộc địa. Tại nhiều nước, lực lượng quân sự đã từng là các nhóm duy nhất có thể
- đảm báo duy trì ổn định và trật tự ở phần lớn các nước châu Phi trong thập niên
1970 và đầu những năm thập niên 1980.
Trong giai đoạn từ đầu thập niên 1960 tới cuối thập niên 1980 ở châu Phi đã có
trên 70 vụ đảo chính và 13 vụ ám sát tổng thống.
Các mâu thuẫn chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ và Liên Xô cũng đóng vai trò trong sự
bất ổn này. Khi các quốc gia giành được độc lập, thông thường nó sẽ nghiêng về
một trong hai siêu cường. Nhiều nước ở Bắc Phi nhận sự trợ giúp quân sự của Liên
Xô, trong khi nhiều nước ở Trung và Nam Phi đã được Hoa Kỳ và/hoặc Pháp hỗ trợ.
Trong thập niên 1970 đã có sự leo thang do các quốc gia mới giành độc lập như
Angola và Mozambique nghiêng về phía Liên Xô còn vùng Tây và Nam Phi tìm kiếm
sự ngăn cản ảnh hưởng của Xô viết.
Các tranh cãi về biên giới và lãnh thổ là phổ biến với các biên giới do người châu
Âu áp đặt đối với nhiều quốc gia bị tranh giành thông qua các vụ xung đột vũ trang.
Các chính sách nhà nước sai lầm và sự mục nát của hệ thống chính trị đã tạo ra hậu
quả là nhiều nạn đói lan tràn và một phần đáng kể châu Phi vẫn còn các hệ thống
phân phối không có khả năng cung cấp đủ lương thực hay nước uống cho dân cư
để sống sót. Sự lan tràn của bệnh tật cũng rất phổ biến, đặc biệt là sự lan tràn của
HIV và bệnh AIDS, nó đã trở thành một đại dịch nguy hiểm đối với châu lục này.
Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng đã có một số dấu hiệu cho thấy châu lục này
còn có hy vọng ở tương lai. Các nhà nước dân chủ dường như bắt đầu mở rộng,
mặc dù vẫn chưa phải là chủ yếu (National Geographic cho rằng có tới 13 quốc gia
châu Phi có thể coi là dân chủ thực sự). Ngoài ra, nhiều quốc gia đã có ít nhất là các
nền tảng được công nhận trên danh nghĩa của quyền con người cho mọi công dân,
mặc dù trên thực tế những quyền này không phải lúc nào cũng được thừa nhận, và
đã tạo ra hệ thống tư pháp độc lập tương đối hợp lý.
- Có các dấu hiệu rõ ràng của sự gia tăng quan hệ giữa các tổ chức hay quốc gia châu
Phi. Trong nội chiến ở Cộng hòa Dân chủ Congo (tên cũ Zaire), không phải là các
nước giàu, ngoài châu Phi can thiệp vào mà là khoảng một nửa tá các quốc gia châu
Phi láng giềng đã tham gia (xem thêm Chiến tranh Congo lần 2). Số người bị chết
ước tính lên tới 3,5 triệu kể từ khi xung đột mới nổ ra năm 1998. Nó thể hiện
những gì tương tự như những điều đã diễn ra trong giai đoạn đầu của Thế chiến
thứ hai ở châu Âu, mà sau đó người dân ở các nước láng giềng quyết định tham dự
vào theo những cách thức mà cuộc chiến giữa họ trở nên không giống như cuộc
chiến giữa Pháp và Đức (nếu có ngày nay).
Các liên minh chính trị như Liên minh châu Phi cũng là một niềm hi vọng cho hợp
tác và hòa bình lớn hơn giữa nhiều nước của châu lục này.
Sự lạm dụng trong quyền con người vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi của châu Phi,
thông thường là dưới sự giám sát của nhà nước. Phần lớn các vi phạm như thế
diễn ra vì các lý do chính trị, như là 'hiệu ứng phụ' của nội chiến. Các nước bị liệt
kê là có nhiều vi phạm lớn bao gồm (nhưng không bị giới hạn chỉ có vậy): Cộng hòa
Dân chủ Congo, Sierra Leone, Liberia, Sudan, Côte d'Ivoire.
nguon tai.lieu . vn