Xem mẫu
- Chất độc màu da cam huỷ diệt môi trường ở Việt Nam
như thế nào?
Chất độc màu da cam có chứa dioxin, là một chất độc cực mạnh, rất bền
vững, khó phân huỷ. Do đó chúng tồn tại rất lâu trong môi trường, tích luỹ
sau nhiều lần sử dụng, làm cho đất và nước bị ô nhiễm nặng, cây rừng bị huỷ
diệt.
Tổng cộng đế quốc Mỹ đã rải 72 triệu lít chất diệt cỏ (bao gồm 44 triệu lít
chất độc màu da cam, 20 triệu lít chất trắng, 8 triệu lít chất xanh) lên 1,7
triệu ha đất trồng và rừng ở miền Nam Việt Nam, ít nhất có 12% diện tích
rừng, 5% diện tích đất trồng trọt bị rải chất độc màu da cam một hay nhiều
lần.
Các chất diệt cỏ, làm trụi lá lần đầu tiên trong lịch sử loài người, được dùng
với quy mô lớn ở miền Nam Việt Nam đã gây ra hậu quả nghiêm trọng cho
môi trường sinh thái và con người.
Hàng triệu ha rừng ở nội địa và rừng ngập mặn ở ven bờ bị rải chất độc màu
da cam nhiều lần. Ngay sau khi bị rải chất diệt cỏ với nồng độ cao lần thứ
nhất, đã có 10 - 20% số cây thuộc tầng cao nhất (chiếm 40 - 60% sinh khối
của rừng) bị chết. Hậu quả là khí hậu ở tầng thấp bị thay đổi, vì độ ẩm giảm,
cường độ chiếu sáng tăng, nên các cây non dù có sống sót cũng khó phát
triển. Ðến mùa khô, lửa rừng do bom đạn lan đến diệt luôn cả cây con. Tiếp
theo mùa mưa đất bị xói mòn, thoái hoá dần, chỉ có một số loài thực vật ưa
sáng như chíp, chè vè, lau, tre, nứa, là những loài cây có bộ rễ phát triển
- mạnh, thân ngầm khoẻ, chịu được khô cằn có thể mọc được. Nhiều vùng
rừng bị nhiễm chất độc quá nặng, cho đến nay, vẫn chưa có cây gì mọc lại.
Cây rừng bị trụi lá và nước bị ô nhiễm cũng ảnh hưởng đến động vật. Ðộng
vật chết vì thiếu thức ăn, vì không có nơi trú ẩn, vì uống nước bị nhiễm độc.
Những con sống sót phải di chuyển tới những nơi khác, cho dù điều kiện
sống ở những nơi mới đó không hoàn toàn thuận lợi cho chúng. Có thể nói
rằng hệ sinh thái rừng mưa phong phú đã hoàn hoàn biến mất, thay vào đó là
hệ sinh thái nghèo kiệt xơ xác. Những nơi rừng mọc lại, bụi lau, tre, nứa là
nơi ẩn nấp tốt cho họ hàng nhà chuột. Thiên địch của chuột là cầy, cáo còn
lại rất ít, hơn nữa sức sinh sản của chúng không thể so sánh được với sức
sinh sản của chuột. Kết quả những nơi đó chuột chiếm ưu thế. Tóm lại, chất
diệt cỏ làm mất cân bằng sinh thái môi trường.
Hệ thống rừng ngập mặn ở miền Nam, đặc biệt là rừng Sát (ở phía Ðông Bắc
thành phố Hồ Chí Minh) và rừng ở huyện Năm Căn (Minh Hải) bị phá huỷ
nặng nề. Nguồn cung cấp gỗ cho người không còn, động vật không có nơi
sinh sống, vai trò to lớn của rừng ngập mặn trong giữ đất, lấn biển bị giảm
sút.
Chất diệt cỏ còn tác động rất xấu đến con người. Nhân dân sống trong vùng
bị rải chất diệt cỏ thiếu ăn vì mùa màng, cây cối bị phá huỷ. Nhiều dân
thường, bộ đội sống trong vùng bị rải chất độc hoá học đã bị mắc các bệnh
hiểm nghèo, đặc biệt là ung thư. Nhiều phụ nữ bị sảy thai, đẻ non. Nguy
hiểm hơn cả là chất độc màu da cam đã để lại di chứng cho đời sau, con cái
của những người bị nhiễm chất độc hoá học, mặc dù sinh ra sau chiến tranh,
thậm chí ở rất xa nơi có chiến sự, cũng mắc các bệnh hiểm nghèo như câm,
mù, điếc, tâm thần... hoặc có hình hài dị dạng. Sự tồn tại của hàng loạt các
- trẻ em dị tật trong các vùng bị nhiễm chất độc và trong các gia đình cựu
chiến binh có bố hoặc mẹ từng công tác, chiến đấu trong vùng bị nhiễm chất
độc màu da cam, đang trở thành nỗi đau và gánh nặng to lớn không chỉ riêng
cho các em và gia đình, mà còn cho cả xã hội. Ngay nay, Nhà nước, nhân
dân Việt Nam cùng nhiều tổ chức tiến bộ trên thế giới đã có những đồng
cảm, quan tâm giúp đỡ nhất định đối với các em bé bị dị tật bất hạnh này.
Tuy nhiên, có thể nói là đã quá muộn.
Nói tóm lại, hậu quả của việc sử dụng chất độc màu da cam trong chiến
tranh hoá học của Mỹ ở Việt Nam là to lón, lâu dài, phức tạp, chưa được
nghiên cứu đầy đủ và chưa có cách nào khắc phục được hoàn toàn nhanh
chóng.
nguon tai.lieu . vn