- Trang Chủ
- Môi trường
- Bước đầu sử dụng chất nhầy tách chiết từ vỏ quả thanh long trong quá trình keo tụ - tạo bông xử lý độ đục của nước
Xem mẫu
- VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 38, No. 2 (2022) 13-20
Original Article
Application of Dragon Fruit Peel’s Mucilage
in Coagulation – Flocculation Process
to Remove Turbidity from Water
Le Thi Hoang Oanh*, Pham Vu Hoang, Đoan Thi Van, Nguyen Huu Huan
VNU University of Science, 334 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, Vietnam
Received 05 August 2020
Revised 22 February 2021; Accepted 18 June 2021
Abstract: The study determined flocculation activity of mucilage extracted from dragon fruit peel
(Hylocereus undatus) and its ability in reducing synthetic coagulant polyaluminium chloride (PAC)
used in coagulation – flocculation process to remove turbidity of different types of water.
Investigated waters were turbid waters made from kaolin suspension (KS), suspension of river water
with hill soil (FW), and To Lich river water (TL). Turbidity removal was assessed in a sequent
coagulation and flocculation model using PAC and mucilage extracted from dragon fruit peel in Jar-
tests. Optimal coagulation conditions of PAC with PAC dosage of 20-50 mg/L and pH range of 6-8
regardless of water types and resulted in maximum turbidity removal of about 98%. In order to
obtain a comparable turbidity removal, 50%-68% of the required PAC was reduced if mucilage was
used. The presence of mucilage enhanced turbidity removal of PAC by 13-22% total efficiency.
Mucilage extracted from dragon fruit peel has shown its flocculation ability and its potential as a
green material in water treatment.
Keywords: Mucilage, dragon fruit peel, water treatment, coagulation, flocculatio.
________
Corresponding author.
E-mail address: hoangoanh.le@hus.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4659
13
- 14 L. T. H. Oanh et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 38, No. 2 (2022) 13-20
Bước đầu sử dụng chất nhầy tách chiết từ vỏ quả thanh long
trong quá trình keo tụ - tạo bông xử lý độ đục của nước
Lê Thị Hoàng Oanh*, Phạm Vũ Hoàng, Đoàn Thị Vân, Nguyễn Hữu Huấn
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội,
334 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 05 tháng 8 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 22 tháng 02 năm 2021; Chấp nhận đăng ngày 18 tháng 6 năm 2021
Tóm tắt: Nghiên cứu xác định hiệu quả trợ keo tụ của chất nhầy tách chiết từ vỏ quả thanh long
(Hylocereus undatus) và khả năng giảm lượng chất keo tụ hóa học poly aluminum clorua (PAC) sử
dụng trong quá trình keo tụ tạo bông để xử lý độ đục của các loại nước khác nhau. Các mẫu nước
nghiên cứu gồm nước đục nhân tạo từ huyền phù cao lanh (KS), huyền phù từ nước sông và đất đồi
(FW) và nước sông Tô Lịch (TL). Hiệu quả loại bỏ độ đục được nghiên cứu trên hệ keo tụ - tạo bông
sử dụng PAC và chất nhầy từ vỏ quả thanh long theo mô hình Jar-test. Kết quả cho thấy điều kiện
keo tụ tối ưu của PAC đạt được ở liều PAC là 20-50 mg/L và pH trong khoảng 6-8 (không phụ thuộc
vào loại nước), với hiệu quả làm giảm độ đục cao nhất khoảng 98% đối với các mẫu nước đục. Khi
sử dụng chất nhầy kết hợp với PAC thì lượng PAC sử dụng được giảm đi 50-68% để đạt được cùng
hiệu quả làm giảm độ đục so với trường hợp chỉ sử dụng riêng PAC. Khi có mặt của chất nhầy, hiệu
quả làm giảm độ đục của PAC được tăng cường 13-22%. Chất nhầy tách chiết từ vỏ quả thanh long
đã thể hiện khả năng trợ keo tụ và có tiềm năng là một vật liệu xanh trong xử lý nước.
Từ khóa: Chất nhầy, vỏ quả thanh long, xử lý nước, keo tụ, tạo bông
1. Mở đầu1* như chi phí khá cao, gây tác hại cho sức khỏe con
người, tạo ra lượng bùn lớn và thường ảnh hưởng
Keo tụ - tạo bông là một biện pháp được sử đến pH của nước sau xử lý [1, 3, 4]. Tồn dư nhôm
dụng rộng rãi như một khâu xử lý sơ cấp đối với trong nước cấp được cho là gây bệnh Alzheimer
nước và nước thải [1]. Quá trình này gồm 2 giai ở người [3]; trong khi tồn dư của các monomer
đoạn khác nhau là: i) Giai đoạn khuấy trộn nhanh và dẫn xuất của polymer tổng hợp gây độc thần
chất keo tụ vào nước; và ii) Kết tụ các hạt nhỏ kinh hoặc ung thư [4]. Thêm vào đó, chi phí nhập
thành bông lớn hơn nhờ hòa tan một cách nhẹ khẩu các loại hoá chất này rất lớn ở các nước
nhàng chất trợ keo tụ vào nước [1, 2]. đang phát triển [5]. Vì vậy, cần sử dụng các chất
Chất hoá học thông thường được sử dụng keo tụ - tạo bông thân thiện với môi trường để
làm chất keo tụ và trợ keo tụ là muối của sắt và thay thế hoặc giảm bớt các chất hóa học phổ
nhôm và các polymer tổng hợp như poly dụng này.
aluminum clorua (PAC), polyacrylamide Chất keo tụ – tạo bông có nguồn gốc sinh
(PAM), polyacrylic axit (PAA),… Tuy được áp học, bao gồm cả chất keo tụ - tạo bông có nguồn
dụng phổ biến nhưng chúng có rất nhiều hạn chế
________
Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: hoangoanh.le@hus.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4659
- L. T. H. Oanh et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 38, No. 2 (2022) 13-20 15
gốc thực vật, có nhiều triển vọng thay thế hoặc nước rỉ rác bằng quá trình keo tụ [13] và nước
giảm bớt các chất hóa học dùng trong keo tụ - tạo thải nhuộm [17, 18] nhưng chưa được nghiên
bông [1, 2, 5, 6]. Các chất này rất dễ phân hủy, cứu ứng dụng trên các loại nước khác.
không độc, không gây ăn mòn, không làm thay Nghiên cứu này có mục đích đánh giá khả
đổi pH của nước đầu ra, dễ tìm kiếm từ các năng làm giảm độ đục của nước của chất nhầy
nguồn tài nguyên nông nghiệp tái tạo và không tách chiết từ vỏ quả thanh long khi kết hợp với
tạo ra chất ô nhiễm thứ cấp [1, 2, 5, 6, 7]. Thêm PAC trong hệ keo tụ - tạo bông nhằm hướng tới
vào đó, lượng bùn thải tạo ra dễ dàng bị phân hủy ứng dụng trong xử lý chất thải rắn và xử lý nước.
sinh học [1, 5, 7]. Sử dụng chất chế tạo từ các
nguồn nguyên liệu địa phương cũng sẽ kinh tế
hơn so với phải nhập khẩu các hóa chất [8]. Hiệu 2. Phương pháp nghiên cứu
quả làm giảm độ đục của các chất keo tụ – tạo
bông có nguồn gốc thực vật nghiên cứu dao động 2.1. Phương pháp tách chiết chất nhầy từ vỏ quả
từ 60% đến 99% trong các nghiên cứu trong và thanh long
ngoài nước [2, 5, 7-11].
Chất nhầy từ vỏ thanh long ruột trắng
Tuy vậy, các nghiên cứu tập trung vào sản
(Hylocerus undatus) được tách chiết dựa trên
phẩm từ các bộ phận thực vật có giá trị như hạt
phương pháp của Ismail (2018) [13]. Vỏ thanh
chùm ngây (Moringa oleifera), hạt dầu mè
long được thu gom, rửa sạch, rồi cắt nhỏ đến kích
(Jatropha curcas L.) và hạt một số cây họ đậu cỡ 5 mm, đem đi sấy khô ở nhiệt độ 50 oC cho
(Phaseolus vulgaris, Glycin max L. Merr.),… đến khối lượng không đổi. Quy trình tách chiết
[2, 5, 7-11]. Trên thế giới, một số công ty sản bắt đầu bằng việc đun cách thủy hỗn hợp vỏ
xuất và thương mại hóa các sản phẩm chất keo thanh long và nước theo tỉ lệ 1:8 (v/m) ở nhiệt độ
tụ - tạo bông thực vật như: Servyeco (Tây Ba 60 oC trong vòng 1 giờ và sau đó để nguội đến
Nha) với loại sản phẩm ECOTAN, và Abachem nhiệt độ phòng. Hỗn hợp rắn lỏng thu được đem
Specialty Chemicals Private Limited (Ấn Độ) đi lọc qua 8 lớp vải muslin (cỡ lỗ 0,7 mm) để thu
với loạt sản phẩm Flox®natural. Riêng tại Việt dịch lọc chứa chất nhầy. Dịch này được trộn với
Nam, các chất keo tụ - tạo bông có nguồn gốc axeton theo tỉ lệ 1:3 để kết tủa chất nhầy. Kết tủa
sinh học nói chung và từ thực vật nói riêng chưa thu được rửa 3 lần với cồn 96% để loại bỏ các
được quan tâm của nhiều nhà khoa học, cũng như chất bám dính trên bề mặt của nó và đem sấy ở
chưa được thương mại hóa một cách phổ biến nhiệt độ 40 oC đến khi khối lượng không đổi. Sau
trên thị trường [9-11]. khi được sấy khô, chất nhầy được nghiền nhỏ,
Cây thanh long là loài cây nông nghiệp được cho vào túi zip đặt trong bình hút ẩm để bảo quản
trồng phổ biến tại Việt Nam. Vỏ quả thanh long đến khi sử dụng. Đặc điểm các nhóm chức bề
là phần còn lại từ tiêu thụ tươi hoặc chế biến trái mặt và thế zeta của chất nhầy thành phẩm được
cây và là một loại chất thải rắn nông nghiệp. Vỏ mô tả tại [17].
quả thanh long khá dày, chiếm khoảng 22-30%
khối lượng quả [12, 13]. Nó chứa một lượng 2.2. Phương pháp xác định hiệu quả làm giảm
đáng kể chất nhầy cấu tạo bởi các độ đục của nước của chất nhầy tách chiết từ vỏ
polysaccharide, đặc biệt là pectin [13, 14]. Vỏ quả thanh long nhờ quá trình keo tụ - tạo bông
thanh long có hàm lượng pectin cao ở mức
10,79% – 20,14% [12-16]. Pectin bao gồm chủ 2.2.1. Phương pháp chuẩn bị nước đục
yếu hetero-polysaccharide có tính axit, giàu axit Ngoài mẫu nước sông Tô Lịch (TL), nghiên
galacturonic (GalA) có cấu trúc như một xương cứu sử dụng 2 mẫu nước đục nhân tạo là nước
sống với 3 loại pectin gồm homogalacturonan cao lanh (KS) và nước lụt giả định (FW).
(HG), rhamnogalacturonan-I (RG-I) và Nước sông Tô Lịch (TL) có độ đục khoảng
rhamnogalacturonan-II (RG-II) [14]. Chất nhầy 63 NTU, thu được sau khi để lắng nước lấy ở
từ vỏ quả thanh long có hiệu quả trong xử lý điểm sông Tô Lịch gần với trường trung học cơ
- 16 L. T. H. Oanh et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 38, No. 2 (2022) 13-20
sở Quang Trung, Đống Đa, Hà Nội trong 1 giờ. 2.2.3. Phương pháp xác định hiệu quả làm
Mẫu nước được thu ở lớp nước bề mặt (0-20 cm) giảm độ đục của chất nhầy khi kết hợp với PAC
tại toạ độ 21o00’25,6’’N 105o48’54,9’’E vào trong hệ keo tụ - tạo bông
ngày 31/03/2019. Chất nhầy được kết hợp với PAC với vai trò
Nước cao lanh là lớp nước thu được sau khi chất trợ keo tụ để tăng kích thước và khả năng
lắng dung dịch huyền phù chứa cao lanh phân tán lắng của các bông keo, đồng thời giảm lượng
trong nước máy (12,5 g/L) trong vòng 1 giờ và PAC sử dụng. Thí nghiệm được tiến hành tương
pha loãng đến độ đục khoảng 200 NTU. Cao lanh tự như trên, sử dụng pH và thời gian lắng tối ưu
sử dụng là cao lanh làm gốm sứ Bát Tràng có và PAC với liều lượng nhỏ hơn liều lượng tối ưu.
thành phần chính kaolinite và dickite. Chất nhầy được cho vào ở giai đoạn khuấy chậm
Nước lụt giả định có độ đục 369 NTU, thu với liều lượng nằm trong khoảng 0 - 60 mg/L.
được sau khi lắng hỗn hợp đất đồi và nước sông
Hồng (2 g/L) trong 1 giờ. Nước sông Hồng được
lấy ở lớp bề mặt (0-20 cm) tại tọa độ 3. Kết quả và thảo luận
21o00’37,5’’N 105o52’06,0’’E vào 20/08/2019.
Đất đồi được thu thập tại Phú Hộ, Phú Thọ 3.1. Điều kiện keo tụ tối ưu của chất keo tụ PAC
(21o26’N 105o15’E) với thành phần gồm 21% đối với các mẫu nước nghiên cứu
cát, 40% limon và 39% sét; Thành phần nguyên 3.1.1. Thời gian lắng và pH tối ưu
tố Si, Al, Fe và C hữu cơ chiếm khoảng 18, 13,
7, và 2%; Khoáng vật sét chủ yếu ở đây là
kaolinite.
2.2.2. Phương pháp xác định điều kiện keo
tụ tối ưu của chất keo tụ PAC
Quá trình keo tụ được thử nghiệm trên mô
hình Jar-test như phương pháp của Anastasakis
(2009) [19]. Quy trình thí nghiệm chung để xác
định hiệu quả xử lý độ đục của hệ keo tụ - tạo
bông gồm các bước tuần tự: Nước thải đầu vào
được điều chỉnh pH bằng NaOH hoặc HCl trước
khi cho vào bình thí nghiệm; PAC (Poly
Aluminium Chloride [Al2(OH)nCl6-n]m) 30%, Hình 1. Ảnh hưởng của thời gian lắng đến hiệu quả
hóa chất công nghiệp Đức Giang) được cho vào làm giảm độ đục của quá trình keo tụ dùng PAC.
nước thải với liều lượng thiết kế, tiến hành khuấy
nhanh (200 vòng/phút) trong vòng 1 phút, khuấy Thời gian lắng tối ưu được xác định trên các
chậm (30 - 40 vòng/phút) trong vòng 10 phút và mẫu nước nghiên cứu có giá trị tương tự (Hình 1).
để lắng. Hiệu quả làm giảm độ đục được đánh Mẫu nước sông Tô Lịch (TL) là mẫu đầu tiên
giá bằng cách đo lại độ đục của nước sau quá được nghiên cứu với thiết kế 3 thời điểm lắng;
trình xử lý ở độ sâu 3 cm. Hiệu quả làm giảm độ trong khi các mẫu còn lại được nghiên cứu sau
đục được tính bằng % độ đục bị giảm đi do tác với 6 thời điểm lắng nhằm minh họa rõ hơn tác
động của hệ xử lý. Độ đục của nước được đo động của thời gian lắng đến hiệu quả xử lý độ
bằng máy đo độ đục cầm tay Hach 2100Q theo đục của hệ keo tụ - tạo bông. Hiệu quả làm giảm
đơn vị NTU - Nephelometric Turbidity Unit. Các độ đục có xu hướng tăng khi thời gian lắng tăng
điều kiện keo tụ được khảo sát gồm thời gian từ 10 đến 30 phút; Khi tiếp tục tăng thời gian
lắng (10, 20, 30, 40, 50 và 60 phút), pH của nước lắng đến 60 phút thì mức độ tăng hiệu quả làm
ban đầu (4, 5, 6, 7, 8, 9) và liều PAC sử dụng giảm độ đục đạt được rất thấp (0-3%). Điều này
(0-300 mg/L với bước nhảy 2, 5 và 10 mg/L). cho thấy thời gian lắng từ 30 phút là phù hợp để
- L. T. H. Oanh et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 38, No. 2 (2022) 13-20 17
đạt được hiệu quả làm giảm độ đục ổn định và khoảng pH 5-8 nhờ sự ổn định cấu trúc của Al30
cao nhất đối với các mẫu nước nghiên cứu. Thời trong nước [19, 21].
gian lắng phụ thuộc vào loại chất keo tụ được sử 3.1.1. Liều lượng PAC tối ưu
dụng và kích cỡ của hạt chất rắn được hình thành
nhờ kết tụ các hạt keo đã bị mất ổn định do tác Theo kết quả thể hiện ở Hình 3, ở pH ban đầu
dụng của chất keo tụ sử dụng. Thời gian lắng 30- và thời gian lắng phù hợp (30 phút), sự có mặt
60 phút cũng là thời gian lắng phù hợp với các của PAC với liều lượng 5-240 mg/L làm tăng
quá trình keo tụ - tạo bông sử dụng các chất keo hiệu quả làm giảm độ đục của tất cả các mẫu
tụ sinh học được tổng kết bởi Lee và cs (2014) nước nghiên cứu; Tuy nhiên, khi tiếp tục tăng
[7]. PAC thì hiệu quả này bị giảm đi. Liều lượng
PAC được cho là tối ưu đối với quá trình keo tụ
để làm giảm độ đục của các mẫu nước nghiên
cứu có giá trị trong khoảng 20-50 mg/L. Hiệu
quả làm giảm độ đục khi này đạt gần ngưỡng tối
đa với giá trị khoảng 98%. Trong khoảng liều
lượng phù hợp, chất keo tụ có nguồn gốc muối
vô cơ có xu hướng làm mất ổn định các hạt keo
nhờ tác động làm giảm lớp điện kép của ion trái
dấu; Nhưng khi vượt qua liều lượng tối ưu, sự ổn
định không gian của các hạt keo lại diễn ra nên
dư lượng các chất keo tụ làm tăng độ đục của
nước [1, 19].
Hình 2. Ảnh hưởng của pH đến hiệu quả làm giảm
độ đục của quá trình keo tụ dùng PAC.
Khả năng làm giảm độ đục của PAC ổn định
trong khoảng pH từ 5-8, 6-9 và 5-8 đối với mẫu
nước TL, KS và FW (Hình 2). Ở pH kiềm (8-9),
hiệu quả làm giảm độ đục thấp hơn so với
khoảng pH trung tính đối với cả 3 mẫu nước.
Trong khi đó, pH của 3 loại nước kể trên lần lượt
có giá trị 7,0-7,8; 7,0-7,5 và 8,0-8,4 hoàn toàn
phù hợp với điều kiện pH hoạt động hiệu quả của
PAC. Điều này có ý nghĩa rất tích cực do không
phải điều chỉnh pH của nước nghiên cứu và tiết
Hình 3. Ảnh hưởng của liều lượng PAC đến hiệu
kiệm được chi phí hoá chất trong quá trình xử lý. quả làm giảm độ đục của quá trình keo tụ.
Tác động của pH ban đầu đến hiệu quả làm
giảm độ đục liên quan đến các dạng thủy phân Liều lượng PAC tối ưu được lựa chọn dựa
của nhôm [20]. Các dạng thủy phân điện tích trên nhiều tiêu chí khác nhau như khả năng làm
dương của nhôm (gồm cả dạng polymer hoá) tồn giảm độ đục và giá trị kinh tế của việc sử dụng
tại trong khoảng pH 5-8 có chức năng đặc biệt nó. Tuy vậy, trong nghiên cứu này, chất nhầy vỏ
quan trọng trong trung hòa điện tích của các hạt thanh long được sử dụng làm chất trợ keo tụ để
keo, khiến chúng bất ổn định và gắn kết với nhau tăng cường hiệu quả hoạt động của PAC nên liều
thành hạt cỡ lớn hơn. PAC có khả năng hoạt lượng PAC sử dụng không cần có hiệu quả xử lý
động hiệu quả trong xử lý độ đục của nước trong độ đục cao nhất mà cần có hiệu quả xử lý phù
- 18 L. T. H. Oanh et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 38, No. 2 (2022) 13-20
hợp để khi kết hợp với chất nhầy mang lại hiệu việc so sánh lượng PAC khi sử dụng đơn lẻ và
quả xử lý tốt. khi sử dụng kết hợp với chất nhầy có hiệu quả
làm giảm độ đục tương đương cho thấy lượng
3.2. Hiệu quả làm giảm độ đục của chất nhầy khi PAC tiết kiệm được nhờ tác dụng của chất nhầy
kết hợp với PAC trong hệ keo tụ - tạo bông để xử lần lượt là 50, 50 và 68% đối với 3 mẫu nước TL,
lý các mẫu nước nghiên cứu KS và FW. Khả năng tiết kiệm này là đáng kể và
có ý nghĩa quan trọng đối với bảo vệ hệ sinh thái
Quá trình keo tụ - tạo bông được hoàn thiện và sức khỏe con người [1, 3, 4].
nhờ sử dụng PAC làm chất keo tụ và chất nhầy Chất keo tụ - tạo bông sinh học có thể làm
làm chất trợ keo tụ. Hiệu quả làm giảm độ đục mất ổn định các phần tử keo trong nước bằng
của các mẫu nước nghiên cứu được thể hiện tại cách tăng cường các ion và làm giảm thế điện
Hình 4. Đối với mỗi loại nước, sự tăng liều lượng động dẫn đến giảm độ dày của lớp điện tích kép;
chất nhầy sử dụng trong khoảng 2-30 mg/L mang Hoặc chúng có thể hấp thụ các ion đối nghịch để
đến sự tăng hiệu quả làm giảm độ đục. Liều trung hòa các phần tử mang điện do chúng có cấu
lượng chất nhầy trên 30 mg/L có thể tiếp tục tăng trúc phân tử lớn và nhiều nhóm chức (như nhóm
không đáng kể hoặc gây giảm hiệu quả làm giảm hydroxyl, cacboxyl) có thể phản ứng với chất ô
độ đục của nước. Liều lượng chất nhầy tối ưu nhiễm [7]. Hiệu quả trợ keo tụ của chất nhầy vỏ
chính là 10 mg/L khi lượng chất nhầy đã sử dụng quả thanh long được giải thích do bản chất
ít nhất và hiệu quả làm giảm độ đục tiệm cận với polymer chứa axit galacturonic với điểm chức
mức tối đa. Hiệu quả làm giảm độ đục cao nhất năng hấp phụ quan trọng [22, 23].
đạt được với nước TL, KS và FW lần lượt là Khả năng tăng cường hiệu quả làm giảm độ
77,35; 97,40; và 81,34%. Hiệu quả này có thể đục của chất nhầy tách chiết từ vỏ quả thanh long
được nâng cao khi tiếp tục thay đổi công thức tương đương với chất nhầy từ cây dâm bụt và cối
phối hợp của PAC và chất nhầy. xay [19]. Tác dụng của các loại chất nhầy thực
vật lại thể hiện tương đương hoặc tốt hơn so với
các sản phẩm thương mại [7, 19]. Hiệu quả làm
giảm độ đục cao nhất đạt được nhờ tổ hợp PAC
và chất nhầy từ 2 loại chất nhầy kể trên cũng đạt
cao nhất 97% đối với nước đục nhân tạo và 74%
đối với nước thải sau quá trình xử lý sinh
học [19].
5. Kết luận
Nghiên cứu đã cho thấy chất nhầy tách chiết
từ vỏ quả thanh long hoạt động hiệu quả như một
chất trợ keo tụ trong hệ keo tụ - tạo bông sử dụng
Hình 4. Hiệu quả làm giảm độ đục của nước PAC làm chất keo tụ đối với 3 loại nước đục (TL,
khi kết hợp chất nhầy vỏ quả thanh long KS, FW) và mang lại hiệu quả làm giảm độ đục
và PAC trong hệ keo tụ - tạo bông. lần lượt là 77,35; 97,40; và 81,34%. Hiệu quả trợ
keo tụ (tăng 13-22% hiệu quả làm giảm độ đục
Có thể thấy rõ rằng, sự có mặt của chất nhầy của nước khi kết hợp với PAC) tương đương với
sau khi keo tụ bằng PAC ở các liều lượng lựa hiệu quả đạt được của chất nhầy từ một số loài
chọn đã làm tăng hiệu quả làm giảm độ đục của thực vật và chất trợ keo tụ hóa học thương mại.
nước từ 13-22%. Điều này cho thấy khả năng Ngoài ra, việc sử dụng chất này còn tiết kiệm
hoạt động như một chất trợ keo tụ của chất nhầy được lượng lớn PAC sử dụng (50-68%), phản
tách chiết từ vỏ quả thanh long. Thêm vào đó, ánh khả năng góp phần vào bảo vệ hệ sinh thái
- L. T. H. Oanh et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 38, No. 2 (2022) 13-20 19
thuỷ sinh và sức khỏe con người. Hơn nữa, [8] R. Sanghi, B. Bhattacharya, A. Dixit, V. Singh,
nghiên cứu đã đưa ra một giải pháp đa lợi ích Ipomoea dasysperma Seed Gum: an Effective
Natural Coagulant for the Decolorization of Textile
trong xử lý chất thải hữu cơ và ứng dụng của
Dye Solutions, J. Environ. Manage, Vol. 81, 2006,
các sản phẩm có nguồn gốc sinh học trong xử lý pp. 36-41,
môi trường. https://doi.org/10.1016/j.jenvman.2005.09.015.
[9] D. M. Trung, B. T. T. Hương, N. V. C. Ngan,
Application of Bioflocculant in Improving the
Lời cảm ơn Quality of Sea Food Processing Wastewater, Ho
Chi Minh City University of Education Journal of
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Đại học Science, Vol. 6, No. 84, 2016, pp. 134-146
Quốc gia Hà Nội trong đề tài mã số QG.18.12. (in Vietnamese).
[10] P. T. P. Trinh, N. T. H. Tham, N. T. Quang,
N. T. T. Trang, D. M. Trung, Application of
Tài liệu tham khảo Bioflocculant in Treatment of Sea Food Processing
Wastewater, Thu Dau Mot University Journal of
[1] Y. C. Teh, M. P. Budiman, P. Y. K. Shak, Science, Vol. 2, No. 27, 2016, pp. 9-17
Y. T. Wu, Recent Advancement of Coagulation- (in Vietnamese).
flocculation and its Application in Wastewater [11] V. H. Thi, H. Hung, L. M. Khanh, Study on the Use
Treatment, Ind. Eng. Chem. Res., Vol. 55, No. 16, of Moringa’s Seed (Moringa oleifera) to Clarify
2016, pp. 4363-4389, Water in Vietnam, Hue University Journal of
https://doi.org/10.1021/acs.iecr.5b04703. Science, Vol. 75a, No. 6, 2012, pp. 153-164 (in
Vietnamese).
[2] S. Choy, M. Prasad, Y. Wu, N. Raman, A Review
[12] B. Jamilah, C. Shu, M. Kharidah, M.Dzulkifly,
on Common Vegetables and Legumes as
A. Noranizan, Physico- chemical Characteristics of
Promising Plant-based Natural Coagulants in
Red Pitaya (Hylocereus polyrhizus) Peel,
Water Clarification, Int. J. Environ. Sci. Technol,
International Food Research Journal, Vol. 18,
Vol. 12, 2015, pp. 367-390,
2011, pp. 279-286.
https://doi.org/10.1007/s13762-013-0446-2.
[13] S. Ismail, N. Mahiddin, S. Praveena, The Used of
[3] S. Polizzi, E. Pira, M. Ferrara, M. Bugiani, A. Dragon Fruit Peels as Eco-Friendly Wastewater
Papaleo, R. Albera, S. Palmi, Neurotoxic Effects of Coagulants, Asian J Agri & Biol, Vol. 6, Special
Aluminium Among Foundry Workers and Issue, 2018, pp. 112-117.
Alzheimer’s Disease, Neurotoxicology, Vol. 23,
[14] W. Willats, P. Knox, J. Mikkelsen, Pectin: New
2002, pp. 761-774, http://doi.org/10.1016/S0161-
Insights Into an Old Polymer Are Starting to Gel.
813X(02)00097-9.
Trends in Food Science & Technology, Vol. 17,
[4] C. Rudén, Acrylamide and Cancer Risk – Expert 2006, pp. 97-104,
Risk Assessments and the Public Debate, J. Food https://doi.org/10.1016/j.tifs.2005.10.008.
Chem, Toxicol, Vol. 42, 2004, pp. 335-349, [15] P. Tang, C. Wong, K. Woo, Optimization of Pectin
https://doi.org/10.1016/J.Fct.2003.10.017. Extraction From Peel of Dragon Fruit (Hylocereus
[5] G. Vijayaraghavan, T. Sivakumar, A. Kumar, polyrhizus), Asian Journal of Biological Sciences,
Application of Plant Based Coagulants for Vol. 4, No. 2011, pp. 189-195,
Wastewater Treatment, Int J Adv Eng Res Stud, http://doi.org/10.3923/ajbs.2011.189.195.
Vol. 1, No. 1, 2011, pp. 88-92. [16] F. D. Mello, C. Bernardo, C. Dias, L. Bosmuler,
[6] M. Sciban, M. Klaˇsnja, M. Antov, B. ˇskrbic, J. Meira, E. Amante, L.c Bileski, Evaluation of the
Removal of Water Turbidity by Natural Coagulants Chemical Characteristics and Rheological
Obtained from Chestnut and Acorn, Bioresour, Behavior of Pitaya (Hylocereus undatus) Peel,
Technol, Vol. 100, 2009, pp. 6639-6643, Fruits, Vol. 69, 2014, pp. 381-390,
https://doi.org/10.1051/fruits/2014028.
http://doi.org/10.1016/j.biortech.2009.06.047.
[17] L. T. H. Oanh, L. T. Nhat, D. T. Van, P. V. Quang,
[7] C. Lee, J. Robinson, C. Fong, A Review on N. V. Anh, N. H. Huan, Mucilage Extracted from
Application of Flocculants in Wastewater Dragon Fruit Peel (Hylocereus Undatus) as
Treatment, Industrial & Engineering Chemistry Flocculant for Treatment of Dye Wastewater By
Research, Vol. 92, No. 6, 2014, pp. 489-508, Coagulation and Flocculation Process,
https://doi.org/10.1016/J.Psep.2014.04.010. Internaltional Journal of Polymer Science 2020,
- 20 L. T. H. Oanh et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 38, No. 2 (2022) 13-20
No. 7468343, 2020, [21] Z. Chen, B. Fan, X. Peng, Z. Zhang, J. Fan,
http://doi.org/10.1155/2020/7468343. Z. Luan, Evaluation of Al30 Polynuclear Species in
[18] T. N. Le, D. T. Van, P. V. Quang, N. V. Anh, N. H. Polyaluminum Solutions as Coagulant for Water
Huan, L. T. H. Oanh, Removal of Pollutants from Treatment, Chemosphere, Vol. 64, 2006,
Disperse Black Dye Wastewater by Mucilage from pp. 912-918,
Dragon Fruit Peel, Vietnam Journal of Science and http://doi.org/10.1016/J.Chemosphere.2006.01.038.
Technology, Vol. 58, No. 5, 2020, pp. 613-622, [22] M. Miller, J. Fugate, O, Craver, A, Smith, B,
http://doi.org/ 10.15625/2525-2518/58/5/15169. Zimmerman, Toward Understanding the Efficacy
[19] K. Anastasakis, D. Kalderis, E. Diamadopoulos, and Mechanism of Opuntica Spp. as a Natural
Flocculation Behavior of Mallow and Okra Coagulant for Potential Application in Water
Mucilage in Treating Wastewater, Desalination,
Treatment, Environ. Sci. Technol, Vol. 42, 2008,
Vol. 249, 2009, pp. 786-791,
pp. 4274-4279,
https://doi.org/10.1016/j.desal.2008.09.013.
https://doi.org/10.1021/Es7025054.
[20] Z. Yang, B. Gao, Q. Yue, Y. Wang, Effect of pH
on the Coagulation Performance of Al-based [23] G. Cruz, J. Ramírez, L. Lagunas, L. Torres,
Coagulant and Residual Aluminum Speciation Rheological and Physical Properties of Spray Dried
During the Treatment of Humic Acid-kaolin Mucilage Obtained from Hylocereus Undatus
Synthetic Water, Journal of Hazardous Material, Cladodes, Carbohydrate Polymers, Vol. 91, No. 1,
Vol. 178, 2010, pp. 596-603, 2013, pp. 394-402,
http://doi.org/10.1016/j.jhazmat.2010.01.127. https://doi.org/10.1016/j.carbpol.2012.08.048.
nguon tai.lieu . vn