- Trang Chủ
- Địa Lý
- Bài giảng Trắc địa cơ sở - Chương 1: Những kiến thức cơ sở về trắc địa
Xem mẫu
- Chương 1
Những kiến thức cơ sở về trắc địa
- 1.1. Định nghĩa
Trắc địa là khoa học về Trái đất mà nội dung cơ
bản của nó là thông qua các phép đo đạc nhằm xác
định vị trí tương đối của các đối tượng trên bề mặt
đất và biểu diễn chúng trên các loại bản đồ, bản
vẽ.
- Ra đời từ ngày đầu rất xa xưa, thuật ngữ “trắc
địa” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp “geodaisia”
có nghĩa là “sự phân chia đất đai”.
Cùng với sự phát triển không ngừng của nền sản
xuất xã hội, ngày càng đề cập nhiều vấn đề
rộng và sâu
Hiện nay, trắc địa đã trở thành một khoa học
hoàn chỉnh, ngày càng được mở rộng về nội
dung và hoàn thiện về lý luận.
- Một cách tổng quát, trắc địa được chia làm 2 loại:
Trắc địa địa hình và Trắc địa cao cấp.
Trắc địa địa hình (Plane surveying)
Tiến hành trên khu vực nhỏ
Bề mặt Trái đất được coi là mặt phẳng
Các yếu tố hình học: đường, hướng được coi
là thẳng.
Các đường dây dọi tại các điểm bất kỳ được
coi là song song với nhau
Góc giữa 2 hướng bất kỳ được coi là góc
phẳng.
- Trắc địa cao cấp (Geodetic surveying)
Tiến hành trên khu vực rộng.
Các yếu tố hình học đo được trên bề mặt Trái đất
phải được hiệu chỉnh độ cong của Trái đất.
Nội dung chính của trắc địa cao cấp:
Nghiên cứu hình dạng và kích thước Trái đất,
Nghiên cứu sự biến động vỏ trái đất,
Xây dựng mạng lưới khống chế mặt bằng và
độ cao có độ chính xác cao trên toàn bộ lãnh thổ
quốc gia.
- Mặt khác, trắc địa cũng được chia làm nhiều chuyên
ngành khác nhau tuỳ thuộc vào đối tượng phục vụ:
Trắc địa công trình (Engineering surveying),
Trắc địa mỏ (Mine surveying),
Đo đạc địa chính (Cadastral surveying) v.v…
- Với khả năng thu tập, hiển thị và lưu trũ các dữ liệu,
thông tin trên bề mặt Trái đất và trong lòng đất, trắc
địa tham gia phục vụ trên nhiều lĩnh vực, nhiều
ngành trong nền kinh tế quốc dân
Giao thông
Thủy lợi
Xây dựng công nghiệp, dân dụng
Nônglâm nghiệp
Thăm dò địa chất
Khai thác mỏ,
Bảo vệ môi trường v.v...
Quốc phòng
- Trắc địa đóng vai trò quan trọng ngay từ giai đoạn
tìm kiếm thăm dò địa chất.
Đồng thời với nhiệm vụ xây dựng mạng lưới
khống chế cơ sở, khống chế đo vẽ và thành lập
bản đồ địa hình.
Trắc địa bố trí các công trình thăm dò địa chất từ
thiết kế ra thực địa.
Đo nối để xác định vị trí các công trình thăm dò.
Đo vẽ biểu thị vị trí các công trình thăm dò và kết
quả thăm dò trên các loại bản đồ, bản vẽ.
- Những kiến thức về thông tin địa hình và khả năng
hiển thị dữ liệu cho phép trắc địa tham gia tổng
hợp và xử lý các kết quả thăm dò địa chất
Xây dựng các loại tài liệu mô tả các yếu tố thế
nằm của khoáng sản
Làm cơ sở cho việc xây dựng các luận chứng
kinh tế kỹ thuật
Thiết kế và điều khiển khai thác khoáng sản hợp
lý.
- Trong quá trình xây dựng, nhiệm vụ chủ yếu của
trắc địa là bố trí các yếu tố hình học của các công
trình từ thiết kế ra thực địa.
Theo dõi quá trình thi công các công trình (trên mặt
đất và trong lòng đất) theo đúng yêu cầu thiết kế.
Một số công trình mỏ đặc trưng, phải thi công với
độ chính xác cao như đào giếng, đào lò đối hướng,
lắp đặt hệ thống tháp giếng và trục nâng v.v.. đòi
hỏi phải sử dụng các phương pháp trắc địa đặc biệt
đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật.
- Trong giai đoạn khai thác khoáng sản, trắc địa
thường xuyên đo vẽ cập nhật, bổ sung và biểu thị
trên các bản đồ, bản vẽ thực trạng tiến độ khai
thác của từng gương lò, từng công trường theo chu
kỳ hàng tháng, hàng quý, hàng năm.
- Cùng với việc giải quyết hàng loạt nhiệm vụ hình
học trong quá trình khai thác
Trắc địa nghiên cứu quá trình dịch chuyển đất đá
và mặt đất. Chọn các phương pháp thích hợp bảo
vệ các công trình mỏ, công trình công nghiệp và
dân dụng tránh ảnh hưởng phá hoại của quá trình
khai thác.
- Sau khi kết thúc mỏ, nội dung công tác trắc địa là
đo, vẽ, thành lập bản đồ kết thúc mỏ, tiếp tục theo
dõi, xác định quy luật dịch chuyển và tính chất
biến dạng của bãi thải và các dạng bề mặt địa
hình mỏ; đánh giá tiềm năng các quá trình ngoại
sinh; tham gia xây dựng các luận chứng đánh giá
khả năng khôi phục chức năng kinh tế của đất mỏ.
- Xuất phát từ yêu cầu thường xuyên đo vẽ cập
nhật, bổ sung trong suốt quá trình từ thăm dò, xây
dự
ng, khai thác và kết thúc mỏ, tạo cho trắc địa cơ
hộ
i theo dõi sâu sát quá trình biến động các yếu
tố môi trường khu mỏ do ảnh hưởng của quá
trình khai thác, các hiện tượng địa chất môi trường
như trượt lở, xói mòn, trôi lấp v.v…
- Các tài liệu, bản đồ, bản vẽ trắc địa là cơ sở thông
tin cho nội dung quan trắc (monitoring) môi
trường, đánh giá tác động môi trường và dự báo
các biến động, suy thoái môi trường; góp phần xây
dựng các dự án khai thác hợp lý tài nguyên khoáng
sản, làm giảm ảnh hưởng tiêu cực của quá trình
khai thác mỏ đối với môi trường.
- 1.2.Tóm tắt lịch sử phát triển ngành trắc địa
Từ cổ xưa, con người đã biết sử dụng kiến thức trắc
địa vào đời sống.
Gầ n 3000 năm Tr.C.N, thời cổ Ai Cập, hàng năm nước
sông Nil dâng cao xoá bỏ ranh giới ruộng nương ở hai
bên bờ sông. Khi nước rút, con người phải dùng
những kiến thức sơ đẳng về hình học để đo đạc phân
chia lại đất đai.
- Loài người vẫn còn lưu giữ được:
Tấm bản đồ mỏ vàng Turino (Italia) được thành
lậ
p từ thời Hoàng đế Ramzes, khoảng năm 1300 trước
công nguyên, đánh d ấu sự đóng góp đầu tiên của khoa
học trắc địa trong khai thác mỏ.
Vào khoảng năm 2200 trước công nguyên, người
Trung Quốc đã vẽ bản đồ trên những tấm đá mài
nhẵn, chứng tỏ con người cổ xưa đã có khái niệm về
sử dụng bản đồ địa hình.
- Người Hy Lạp đầu tiên nghiên cứu hình thể trái
đất và cho rằng nó có dạng hình cầu.
Thế kỷ thứ 3 trước công nguyên, nhà thiên văn học
Eratosten đã đo độ dài kinh tuyến trái đất và vẽ bản
đồ thế giới đầu tiên có sử dụng lưới chiếu chia độ.
Thế kỷ thì 16, nhà toán học Mecator tìm ra phương
pháp chiếu để vẽ bản đồ.
- Thế kỷ thì 18, Dalamber đã đo độ dài kinh tuyến đi qua
Paris và đặt ra đơn vị đo chiều dài là mét. 1m =
1:40.000.000 chi
ều dài kinh tuyến đi qua Paris.
Thế kỷ thứ 19, nhà bác học Gauss đã đề ra phương
pháp số bình phương nhỏ nhất nguyên lý cơ bản của
các phép tính toán và xử lý số liệu trắc địa.
1940, giáo sư Crasopski đã xác định kích thước Trái
đất với các số liệu tin cậy hiện đang được sử dụng ở
nhiều nước trên thế giới
- Trong cuộc sống của người Việt cổ, các kiến thức
trắc địa được áp dụng rất sớm
ước âu Lạc xây thành Cổ Loa, một công trình
Nhà n
kiế
n trúc phức tạp chứng tỏ người Việt cổ lúc bấy giờ
đã có một kiến thức khá về trắc địa
Năm 1467, vua Lê Thánh Tôn đã cho người đi khảo
sát núi sông
Năm 1469, đã vẽ bản đồ toàn bộ lãnh thổ nước ta
bản đồ nước Đại Việt thời Hồng Đức
nguon tai.lieu . vn