Xem mẫu

  1. Giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu khoa học Euréka lần thứ XIX năm 2017 Kỷ yếu khoa học ÁP DỤNG CÔNG CỤ PHÍ THẢI VÀ CÔNG CỤ GIẤY PHÉP XẢ THẢI ĐỐI VỚI GIẢM PHÁT THẢI CO2 TỪ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT ĐIỆN TẠI VIỆT NAM Đỗ Thị Ngọc Hà* Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội *Tác giả liên lạc: dongocha1310@gmail.com TÓM TẮT Sản xuất điện tại Việt Nam đang là ngành công nghiệp năng lượng có tỷ lệ phát thải khí nhà kính (KNK), nguyên nhân trực tiếp gây ra biến đổi khí hậu (BĐKH), lớn nhất cả nước. Vì vậy, để thực hiện thành công các cam kết của Việt Nam với Liên hợp Quốc về BĐKH, nỗ lực giảm phát thải trong ngành công nghiệp này là hết sức cần thiết. Bài viết này giới thiệu hai công cụ quản lí giảm phát thải CO2 về kinh tế là phí thải và giấy phép xả thải (GPXT), đồng thời so sánh hiệu quả của hai công cụ trên theo chỉ tiêu hiệu quả chi phí dựa vào chi phí giảm thải cận biên MAC, khi hai công cụ này được áp dụng trên thị trường sản xuất điện có tổn tại (SMTT) tại Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu này cung cấp thông tin tham khảo cho các nhà hoạch định chính sách trong việc giảm phát thải CO2 tại Việt Nam nói chung và ngành điện nói riêng. Từ khóa: Phát thải CO2, biến đổi khí hậu, sản xuất điện, phí thải, giấy phép xả thải. APPLYING EMISSION FEES AND TRADABLE PERMITS IN REDUCING CO2 EMISSIONS FROM ELECTRICITY GENERATION ACTIVITIES IN VIETNAM Do Thi Ngoc Ha* Foreign Trade University, Hanoi * Corresponding authour: dongocha1310@gmail.com ABSTRACT Vietnam electricity generation is currently an energy industry with the highest greenhouse gas (GHG) emission, which is the most primary cause of climate change. Therefore, in order to successfully implement Vietnam's commitments to the United Nations on climate change, those efforts to reduce CO2 emissions in this industry are urgently needed. In this article we study two environmental management tools in regulating CO2 emissions, which are emission fees and tradable permits, and compares the effectiveness of these two tools in terms of cost- effectiveness based on Margin Abatement Cost (MAC), when applied in the Vietnam electricity generation market at which market power exists. These findings provide a scientific reference for policymakers in CO2 emissions regulation in Vietnam, especially in electricity generation industry. Keywords: CO2 emissions, climate change, Electricity generation, emission fee, tradable permits TỒNG QUAN của đất nước là một câu hỏi lớn trong những Biến đổi khí hậu (BĐKH) đang ngày càng năm gần đây. Hiện nay, ngoài các công cụ về diễn biến phức tạp và khó lường, phát thải mặt pháp lý, kỹ thuật, thì các công cụ quản lí khí nhà kính (KNK), trong đó phần lớn là môi trường về kinh tế nhằm giảm phát thải CO2 (>90%), được cho là nguyên nhân chính CO2 cũng rất được ưa chuộng, trong đó bao của hiện tượng khí hậu cực đoan đang gia gồm: công cụ phí thải và giấy phép xả thải tăng này. Bên cạnh đó, phát thải CO2 từ hoạt (GPXT). Thực tế đã chứng minh rằng, hai đông sản xuất điện đã, đang và sẽ chiếm công cụ này đã góp một phần rất lớn vào các phần lớn tỷ trọng phát thải KNK của cả chương trình giảm thải CO2 của một số các nước. Vì vậy, làm thế nào để có thể kiểm quốc gia tiên tiến trên thế giới. Nghiên cứu soát lượng phát thải CO2 hằng năm nói này đánh giá hiệu quả của hai công cụ trên chung và trong lĩnh vực sản xuất điện nói dựa vào chỉ tiêu hiệu quả chi phí. Nghĩa là, riêng, nhằm đảm bảo cho phát triển bền vững công cụ nào đạt được mức chi phí hiệu quả 308
  2. Giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu khoa học Euréka lần thứ XIX năm 2017 Kỷ yếu khoa học thì sẽ được coi là có hiệu quả hơn về mặt chi trong ngành năng lượng được tính vào năm phí so với công cụ còn lại, đồng thời, với 2010, và ước tính vào năm 2020, 2030 như công cụ không đạt được mức chi phí hiệu sau: năm 2010 chiếm tỷ trọng 57.2% , 2020 quả, thì mức chênh lệch giữa chi phí thực khi và 2030 lần lượt vào khoảng 381,1 và 648,5 áp dụng công cụ đó so với mức chi phí hiệu triệu tấn CO2 tương đương, là nguồn phát quả là bao nhiêu. Bài nghiên cứu sẽ đưa ra thải khí nhà kính lớn nhất, chiếm tỷ trọng lần các đề xuất về việc lựa chọn thi hành một lượt là 81.78% và 85.27%. Xu hướng gia hay kết hợp hai công cụ trên trong các nỗ lực tăng phát thải trong lĩnh vực năng lượng này giảm phát thải CO2 từ thị trường sản xuất được dự báo trên cơ sở kế hoạch của nhà điện có tồn tại sức mạnh thị trường (SMTT) nước về phát triển ngành điện giai đoạn 2011 tại Việt Nam. – 2020, có xét đến năm 2030 với sự phát Theo báo cáo mới nhất của Bộ tài nguyên và triển mạnh mẽ của sản xuất điện nhiệt than, Môi trường cho Công ước Khung của Liên lĩnh vực phát thải ra phần lớn CO2 của toàn hợp Quốc về BĐKH (2014), phát thải CO2 ngành điện. Tỷ trọng nhiệt than theo công suất (%) 56.00% 55% 54.00% 53.20% 52.00% 50.00% 49.30% 48.00% 46.00% 2020 2025 2030 Tỷ trọng nhiệt than theo công suất (%) Hình 1. Tỷ trọng nhiệt than theo công suất (%) 2020-2030 Mặc dù thị trường điện Việt Nam đang (HNPT) của mình và có thể được đem ra chuyển dần sang thị trường cạnh tranh, tuy mua bán, trao đổi (tradable/marketable) trên nhiên vào năm 2010, thị trường điện vẫn ở thị trường. Xét về mặt lý thuyết, phí thải và dạng độc quyền với Tập đoàn Điện lực Việt GPXT sẽ có hiệu quả về mặt chi phí như Nam (EVN) nắm giữ hơn 51% tổng lượng nhau nếu Chính phủ có đầy đủ thông tin về điện sản xuất, nắm toàn bộ khâu truyền tải, chi phí giảm thải của các DN và thị trường vận hành hệ thống điện, phân phối và kinh mua bán phát thải là thị trường hoàn hảo doanh bán lẻ điện, còn lại là các doanh (TTHH). Tuy nhiên trên thực tế, việc xuất nghiệp khác như PVN, Vinacomin,… Tỷ hiện SMTT và sự không chắc chắn trong việc trọng tổng lượng điện sản xuất của EVN dự đoán chi phí giảm thải của DN sẽ là một trong các năm từ 2011 đến 2015 tuy có giảm rào cản lớn đến nỗ lực hướng tới chi phí hiệu so với 2015, nhưng vẫn duy trì ở mức trung quả. bình 56%. Vì vậy, trong khuôn khổ bài nghiên cứu này, có thể coi thị trường điện VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại SMTT, và Mô hình của Hahn (1984) doanh nghiệp sở hữu SMTT - quyền quyết Mô hình này nghiên cứu về phản ứng của các định giá này chính là EVN. doanh nghiệp trên thị trường mua bán phát Hiện nay, tại một số các quốc gia và khu vực thải có tồn tại SMTT trong hoạt động giao phát triển trên thế giới như Mỹ, EU, Hàn dịch phát thải. Kết luận ông đưa ra phản ánh Quốc, … phí thải và GPXT đang chứng minh tầm quan trọng của HNPT ban đầu mà nhà được hiệu quả của mình trong giảm phát thải nước cấp cho doanh nghiệp có SMTT đối với CO2. Phí xả thải là một loại phí đánh vào hiệu quả chi phí xã hội. Hiệu quả chi phí xã lượng chất thải thực tế của người sản xuất. hội chỉ có được khi, hạn ngạch đó phải đúng Còn GPXT do cơ quan quản lý môi trường bằng với mức thải mà doanh nghiệp có ban hành và doanh nghiệp (DN) chỉ được SMTT sử dụng trong thực tế. Chỉ một sự phép thải trong phạm vi hạn ngạch phát thải chênh lệch nhỏ giữa hai mức hạn ngạch thải 309
  3. Giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu khoa học Euréka lần thứ XIX năm 2017 Kỷ yếu khoa học trên cũng sẽ gây ra tổn thất cho xã hội. phí thải và GPXT. Mô hình DDF Dữ liệu nghiên cứu Mô hình DDF (Directional distance function) Số liệu được thu thập từ các Báo cáo thường đã được sử dụng rộng rãi trên thế giới bởi niên của EVN từ năm 2010-2015, cho biết về nhiều nhà kinh tế học để tính toán mức chi tổng doanh thu (tỷ VNĐ), vốn đầu tư (tỷ phí giảm thải cận biên MAC. Chi phí giảm VNĐ), công suất điện hàng năm (MWh) và thải cận biên từ phát thải CO2 trong hoạt số lượng lao động làm việc cho EVN (104 động sản xuất điện ở Việt Nam sẽ được tính người). Ngoài ra, các số liệu về năng lượng toán nhờ mô hình này và sau đó hàm chi phí được sử dụng (104 tấn), lượng thải CO2 (104 giảm thải cận biên MAC cũng sẽ được xây tấn) của EVN và Z cũng được thu thập dựa dựng. trên báo cáo về hệ số phát thải của lưới điện Như vậy, mô hình DDF cho chúng ta một Việt Nam. (Để đơn giản hóa vấn đề, chúng ta phương trình gồm 3 biến và 25 hệ số để tính coi các DN trên thị trường điện Việt Nam ra được chi phí giảm thải cận biên MAC theo (trừ EVN) là doanh nghiệp Z). tư cách là giá của một đơn vị CO2. Từ đó chúng ta có thể sử dụng mô hình này để KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN thành lập hàm MAC dựa theo những số liệu Kết quả thu thập được. Sự kết hợp của mô hình DDF Đánh giá hiệu quả chi phí của GPXT và mô hình của Hahn sẽ là nền tảng cho Chi phí giảm thải của EVN và Z dựa trên mô những dự đoán về hiệu quả của hai công cụ hình DDF được tính toán trong Bảng 1. Bảng 1. Chi phí giảm thải của EVN và Z dựa trên mô hình DDF 2010 – 2015 EVN Giá/tCO2 (tỷ VNĐ) Z Giá/tCO2 (tỷ VNĐ) 2010 0.0000001794525758 2010 0.0000005449229308 2011 0.00001618939019 2011 0.00001840571652 2012 0.00000160071438 2012 0.000003803829134 2013 0.000005085675953 2013 0.000006550603365 2014 0.00001084127823 2014 0.000001090283216 2015 0.00002839613217 2015 -3.88E-12 Dựa vào các cơ sở lý thuyết về phí thải và khi đó công cụ phí thải có hiệu quả chi phí GPXT, cùng với mô hình của Hahn, chúng ta trong cả hai trường hợp trên. có thể quy việc tính toán sự chệnh lệch giữa (2) Với hai trường hợp s = 1% và s = 20%, tổng chi phí hiệu quả và tổng chi phí trên thị không có sự chênh lệch đáng kể về lượng % trường mua bán phát thải có SMTT thông chi phí tăng lên so với mức hiệu quả. Tuy qua chênh lệch (%) giữa chi phí hiệu quả của nhiên, trong cả hai trường hợp, thì lượng phát DN 1 với chi phí của nó trong thị trường mua thải của EVN luôn lớn hơn lượng phát thải bán phát thải ((%∆𝑇𝐶). Giả sử chênh lệch của DN này trong trường hợp có hiệu quả chi giữa 𝑒1 và 𝑒10 là s= 1% (nhỏ), 20% (lớn), và phí. Có thể thấy rằng, khi có tác động của tổng hạn ngạch của chính phủ là 𝐿 = SMTT, thì EVN có xu hướng phát thải nhiều 7686.425 (104 tấn). Chênh lệch %∆𝑇𝐶 có hơn. kết quả như sau: Trường hợp 𝑠 = 1%: (3) Trong cả hai thị trường mua bán phát thải Theo phương pháp tiếp cận của Phí thải, nếu hoàn hảo (thị trường đạt được mức hiệu quả tất cả các DN đều có hành vi hiệu quả chi chi phí) và có SMTT, lượng phát thải của phí, thì mức phí 𝑡 luôn được xác định bởi giá EVN luôn chiếm phần lớn trong mức HNPT trị của 𝑀𝐴𝐶. Từ đây có thể thấy, xã hội luôn mà Chính phủ ban hành cho tất cả các doanh đạt hiệu quả chi phí. nghiệp. Vì vậy, nếu cơ chế thị trường mua Thảo luận bán phát thải được ban hành, thì hầu hết Từ các kết quả trên, chúng ta có thể thấy: HNPT đểu rơi vào tay EVN, các doanh (1) Khi có xuất hiện SMTT trên thị trường nghiệp có thị phần ít hơn như PVN, mua bán phát thải (như ở thị trường điện Việt Vinacomin,…sẽ có ít HNPT hơn và do đó Nam) thì tùy vào cách phân phối HNPT cho chi phí giảm thải của các doanh nghiệp này DN có SMTT mà có thể kết luận rằng công sẽ tăng lên do phải mua thêm HNPT hoặc trả cụ GPXT có hiệu quả về mặt chi phí, trong tiền phạt trên mỗi đơn vị phát thải CO2 vượt 310
  4. Giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu khoa học Euréka lần thứ XIX năm 2017 Kỷ yếu khoa học quá mức HNPT. Điều này một mặt tác động 2013 -2020, và các nước này cũng đặt mục tiêu cực đến tổng chi phí giảm thải của xã hội tiêu giảm hạn ngạch phát thải mỗi năm 2.2% và tạo điều kiện cho EVN phát thải nhiều vào giai đoạn sau năm 2020. hơn, tuy nhiên lại tạo ra động lực cho các Nếu áp dụng công cụ GPXT ở thị trường doanh nghiệp không có SMTT chiếm gần điện Việt Nam, thì lượng phát thải của các 50% thị phần trên thị trường sản xuất điện nỗ DN được kiểm soát ở mức nhất định cho nhà lực giảm thải bằng nhiều biện pháp khác nước quản lý, việc mua bán phát thải sẽ do nhau như cải tiến công nghệ sản xuất, thay thị trường tự vận hành. Như vậy, Chính phủ đổi nguyên liệu đầu vào,… luôn chủ động được trong việc kiểm soát Tóm lại, xét về mặt chi phí xã hội, có thể cho lượng phát thải hàng năm và có thể đề ra các rằng công cụ phí thải có hiệu quả hơn công kế hoạch tương lai trong việc giảm dần cụ GPXT theo những phân tích ở trên. Tuy HNPT. Tuy nhiên, đối với thị trường sản nhiên, nếu xét đến các chỉ tiêu đánh giá hiệu xuất điện chưa thực sự cạnh tranh, ít doanh quả khác ngoài hiệu quả chi phí, thì phí thải nghiệp tham gia và tồn tại doanh nghiệp chưa phải là công cụ hiệu quả nhất về chi phí chiếm tỷ trọng công suất sản xuất điện quá vì chúng không tham gia vào tất cả các biện lớn (trung bình 56% mỗi năm) là EVN tại pháp kiểm soát phát thải của các DN sản xuất Việt Nam, thì công cụ GPXT dường như là điện, mà nó chỉ ràng buộc các DN này phải chưa thể phù hợp và mang lại hiệu quả cao. chịu phí. Với mức doanh thu tăng trung bình là 19.64% hàng năm, thì đây hoàn toàn là cơ ĐỀ XUẤT sở để EVN và có có động cơ phát thải nhiều Công cụ phí thải nên được áp dụng cho EVN, hơn. Nếu mức phí thải chưa thực sự cao và bởi (1) Phí thải đảm bảo về mặt chi phí thấp không có ảnh hưởng nhiều đến tổng chi phí nhất, (2) Trong ngắn hạn phí thải sẽ làm của các doanh nghiệp này, cùng với sự tiến giảm đầu ra của EVN, tạo điều kiện cho các bộ trong công nghệ sản xuất, hiệu suất đốt DN chấp nhận giá khác tiếp cận thị trường, than ở các nhà máy điện tốt hơn thì khả năng góp phần vào thực hiện mục tiêu thị trường các doanh nghiệp này sẵn sảng chi trả cho sản xuất điện cạnh tranh của Chính phủ, (4) một mức phí trên một đơn vị thải CO2 là rất Tổng chi phí của EVN có thể dự đoán được cao. Hơn nữa, phí thải giảm phát thải bằng nhờ vào phí thải. Đây là một tín hiệu giá ổn cách tăng giá điện, làm giảm nhu cầu và đầu định, giúp cho EVN có thể lên kế hoạch được ra cân bằng, nó khuyến khích các DN sản mức công suất, sản lượng điện tối ưu sản xuất điện đốt ít than hơn hoặc tiêu dùng xuất cho từng năm, vừa đảm bảo chi phí thấp nhiên liệu hóa thạch một cách tiết kiệm hơn, nhất dựa vào mức phí thải đã được áp sẵn, nhưng nó không tạo ra động cơ cho các DN vừa đảm bảo mục tiêu lợi nhuận, (5) Phí thải này đốt than sạch hơn hoặc thay thế nhiên giúp Chính phủ loại trừ đi được các yếu tố liệu sạch trong quá trình sản xuất điện. Ngoài gian lận trong việc quản lí các DN gây ô ra, điện là một loại hàng hóa không chịu nhiễm bởi EVN dĩ nhiên sẽ không mong nhiều tác động về giá cả do cầu ít co giãn, muốn phải trả một mức phí thải cao hơn so cùng nhu cầu điện năng ở Việt Nam tăng lên với lượng thải thực tế của họ, (6) Thu nhập nhanh thì việc đặt mức phí thải ở mức cao sẽ trong ngân sách nhà nước sẽ được tăng lên khiến giá điện tăng cao và về mặt chính trị là đáng kể. Để đảm bảo cân bằng trong thu rất khó thực hiện. nhập từ thuế, một số loại thuế và phí các có Bên cạnh đó, trong một khoảng thời gian dài, thể giảm đi, như thuế thu nhập cá nhân hay các hệ thống mua bán GPXT đã chứng minh thuế một số các loại thuế cho DN khác, tạo được sự hiệu quả của mình trong nỗ lực giảm điều kiện tăng đầu tư, thúc đẩy phát triển thải của một số nước. Chẳng hạn như ở Hoa kinh tế. Kỳ, chương trình mưa axit đã góp phần làm Công cụ GPXT nên được áp dụng cho các giảm đáng kể lượng khí thải từ các nhà máy DN sản xuất điện chấp nhận giá (trừ EVN) điện đốt than, (Nielson, 2010),…Hệ thống trên thị trường mua bán phát thải. Bởi (1) Thị mua bán phát thải của Châu Âu gồm 31 nước trường mua bán phát thải này không còn cũng đã qua 3 giai đoạn giao dịch và HNPT EVN, do đó SMTT không tồn tại, (2) Chính KNK được giảm 1.7% mỗi năm giai đoạn phủ kiểm soát được lượng thải của tất cả các 311
  5. Giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu khoa học Euréka lần thứ XIX năm 2017 Kỷ yếu khoa học DN này, và giảm dần HNPT về sau, (3) Việc đầu. Tuy nhiên, việc xác định chi phí giảm mua bán phát thải cạnh tranh trên thị trường thải của mỗi DN trên thị trường mua bán mua bán phát thải khiến các DN có động lực phát thải là khó khăn. Vì vậy, để không có hơn trong việc giảm phát thải, (4) Ngoài ra, gian lận trên thị trường mua bán phát thải, chính phủ có thể áp dụng cơ chế mua bán các DN phải được yêu cầu cung cấp các phát thải khác như bán đấu giá HNPT, làm thông tin kỹ thuật và tài chính trong việc vận tăng sự cạnh tranh trên thị trường mua bán hành hệ thống xử lí chất thải một cách Minh phát thải và tạo sức ép cho các DN này nỗ bạch. lực giảm thải, (5) Việc hình thành hệ thống Việc lựa chọn thi hành phí thải hay GPXT là mua bán phát thải giúp DN giảm phát thải một chính sách về quản lí môi trường lớn. với chi phí thấp nhất, (6) Các DN sản xuất Kết quả đạt được của bài nghiên cứu này có điện khi tham gia vào hệ thống mua bán phát thể cung cấp các thông tin hữu ích cho các thải sẽ được tự quản lý các chiến lược giảm nhà quản lý trong công tác quản lý giảm phát thải riêng của mình, với điều kiện tổng lượng thải CO2 trên thị trường điện Việt Nam. cho phép vẫn được giữ nguyên tại mức ban TÀI LIỆU THAM KHẢO HAHN, R. W. (1984). Market Power and Transferable Property Rights. Quarterly Journal of Economics, Volume 99, Issue 4 (Nov., 1984), 753–765. WEITZMAN M. (1974). Prices vs. Quantities. Review of Economic Studies. 1974;41 (4) :477- 491. KOLSTAD, C.D. (2001). Environmental Economics, 1st edn, Oxford University Press. 312
nguon tai.lieu . vn