Xem mẫu
- AI CẬP THUỘC CHÂU NÀO?
Lưu vực sông Nil – chiếc nôi của một trong những nền văn minh cổ vĩ đại nhất, Ai
Cập là đất nước ở đông bắc châu Phi và tây nam châu Á, được Địa Trung Hải bao
bọc ở phí Bắc và Hồng Hải ở phía Đông. Tây giáp Libia, nam giáp Sudan, đông bắc
giáp Israel.
Chưa đến 10% diện tích đất nước có người ở và được khai khẩn – đó là các thung
lũng và châu thổ sông Nil, các vùng đất dọc kênh Suez và các ốc đảo sa mạc. Sa
mạc phủ hơn 90% diện tích, toàn bộ miền Tây là sa mạc Libia, tức là một phần của
Sahara, trong sa mạc có lòng chảo Cattara mênh mông. Cao độ dưới lòng chảo thấp
hơn mực nước biển 113m. Các sa mạc Ả Rập và Nubi phân bố trên vài cao nguyên
này nâng dần từ lưu vực sông Nil lên đến phía đông và đổ gấp về phía Hồng Hải.
Phía bắc bán bảo Sinai ( rìa tây bắc của đất nước) là bình nguyên sa mạc, ở phía
nam núi vượt cao lên. Một trong các núi là Sinal. Chính ở đó theo sách Huấn Ca
( Cựu ước), nhà tiên tri Moise được Chúa trời ban cho Mười Điều răn.
Khí hậu đất nước có đặc trưng mùa hè nóng, mùa đông mát. Ở vùng bờ Địa Trung
- Hải mùa hè hơn 30º C, mùa đông gần 15 ºC. Ở các vùng sa mạc dao động nhiệt độ
thấy rõ hơn ( mùa hè đến 45ºC, còn mùa đông 0ºC) Bờ biển phía bắc là vùng ẩm
thấp nhất, về phía nam lượng mưa giảm nhanh. Ở nhiều nơi vài năm mới có mưa
một lần.
Sông Nil cắt đất nước từ nam đến bắc, đã và đang giữ vai trò tối cao quan trọng
trong sinh hoạt của Ai Cập. Từ sudan đến Cairo sông chảy trong thung lũng hẹp
khoét sâu trong đá. Hồ chứa Naser xuất hiện sau khi hoàn thành công trình đập
Asuan trên sông Nil ( 1960 – 1970), là một trong những thủy vực nhân tạo lớn
nhất thế giới. Về phía bắc Cairo là châu thổ sông Nil mênh mông hình chiếc quạt,
lấn sâu vào Địa Trung Hải đến 250km. Phần lớn dân cư, các thành phố lớn và
những vùng đất phì nhiêu nhất đều nằm ở châu thổ sông Nil.
Dân cư Ai Cập gồm vài sắc tộc, đa số là người Ai Cập ( dân gốc trước thời người Ả
Rập) và người Ả Rập, họ đã xâm chiếm đất nước vào thế kỷ thứ 7. Một phần nhỏ
gồm dòng dỏi của người Hy Lạp, La Mã và Thổ Nhĩ Kỳ, họ cũng là những người đã
chinh phục Ai Cập. Một dân tộc dù là rất ít, nhưng rất quan trọng là các bộ lạc Nubi
sống dọc thung lũng sông Nil về phía nam ( khi xây dựng hồ chứa nhiều làng của
họ bị ngập nước) và dân tộc Beduin sống du mục trong sa mạc.
Lịch sử Ai Cập gắn liền với sông Nil, từ thời cổ xưa dòng sông đã nuôi sống nền
kinh tế, xã hội , chính trị và cả tín ngưỡng. Vào thiên niên kỷ thứ 5 TCN ở lưu vực
sông Nil tồn tại vài quốc gia độc lập. Đến giữa thiên niên kỷ thứ 4 xuất hiện 2 quốc
gia lớn nuốt chửng các quốc gia nhỏ, ở một châu thổ sông Nil, một ở thượng nguồn.
Khoảng năm 3200 TCN vương quốc Thượng ( nam ) và Hạ ( bắc) thống nhất dưới
quyền lực của một pharaon. Thời gian này các nhà bác học ghi nhận là những
tượng hình đầu tiên – trên các bia tượng chúng ta đọc được tên của các vị hoàng đế.
Thời kỳ tiếp theo có tên là Đế quốc cổ ( 2755 – 2255 TCN), đây là thời gian cai
quản của các triều đại thứ, 3,4,5 và 6 có thủ đô Memphis nằm xích về phía nam của
Cairo ngày nay. Từ thời này quyền lực của pharaon trở nên tuyệt đối, họ được coi
- như chúa trời. Vào thế kỷ thứ 27 TCN kim tự tháp đầu tiên ( hầm mộ của các đế
vương) được xây dựng. Trong 500 năm tiếp theo sự hùng mạnh của các pharaon
phát triển, các kim tự tháp và đền thờ cũng cao hơn và hùng vĩ hơn. Quyền lực của
pharaon đạt đến tột đỉnh vào những năm cai trị của triều đại thứ 4 ( Keop, Kefren
và các kim tự tháp khác), chính lúc đó ở Giza xây dựng kim tự tháp nổi tiếng nhất,
làm một trong bảy kỳ quan của thế giới. Vào thời kỳ của đế quốc Trung Ai Cập
( năm 2134 – 1784 TCN) tiến hành những cuộc chiến tranh xâm lược có hiệu quả,
mở rộng lãnh địa ra phía tây nam. Các pháo đài hùng mạnh được xây dựng vào
thời kỳ mới.
Vào thời của đến quốc Mới ( 1580 – 1085 TCN) Ai Cập trở thành quốc gia hùng
mạnh nhất ở Đông Địa Trung Hải, vào thời của Pharaon Tutmos I biên giới của Ai
Cập vượt khỏi ngưỡng thứ 3 của sông Nil. Tutmos III tiếp tục xâm lược, đến cuối
thời cai trị của ông, lãnh thổ Ai Cập kéo dài từ rìa bắc Syria đến ngưỡng thứ 4 của
sông Nil.
Thay đổi hơn 50 pharaon thuộc 30 triều đại và 2700 năm trôi qua cho đến khi
Alexander Đại đế kéo quân vào Ai Cập năm 322 TCN, thiết lập nền hệ thống lâu dài
của ngoại bang. Alexander để viên tướng của mình là Cleolen ở lại cai quản Ai Cập.
Viên tướng này nổi tiếng hơn dưới cái tên Ptolemei I, dưới triều đại của họ
Ptolemei Ai Cập trở thành một thế lực đáng sợ. Ảnh hưởng của Ai Cập kéo dài đến
những vùng đáng kể của Syria, Tiểu Á, Libia, Cyprus và các vùng đất khác.
Đến cuối thế kỷ 1 đất nước vẫn giữ được thể chế và sự giàu có của mình, nhưng
dần dần nhường một phần lãnh thổ cho La Mã. Tên gọi vang như sấm cuối cùng
của triều đại Ptolemei là nữ hoàng Cleopatre. La Mã cai trị Ai Cập gần 700 năm,
Thủ đô đế quốc trong các mẫu quốc lớn nhất, là trung tâm buôn bán quan trọng
của các nước Địa Trung Hải, Ấn Độ và các quốc gia Ả Rập. Dân cố của thủ đô đạt
đến 300,000 người ( không kể nô lệ), vào thời La Mã, ở biên giới yên bình này, chỉ
đôi khi người Ethiopi quấy nhiễu các vùng phía nam.
- Vào thời Ptolemei, người Hy Lạp, Do Thái và cả một số dân tộc khác đến định cư ở
Ai Cập với số lượng khá lớn. Những thế kỷ đầu của kỷ nguyên mới, Ai Cập trở
thành một trong những trung tâm Kito giáo tiên khởi.
Thế kỷ thứ 5, giáo hội Copt của Ai Cập tách khỏi giáo hội Kito chính thống.
Giữa thế kỷ thứ 7, Ả Rập chiếm Ai Cập và đưa vào tín ngưỡng mới ( Islam). Bắt đầu
một chương mới của lịch sử Ai Cập mặc dù bên ngoài không có một sự thay đổi
nào. Dinh thự của quan tổng trấn vẫn đóng ở Alexander như trước, từ đó điều
hành các tỉnh. Sau này thủ đô chuyển về chỗ mới, cách Cairo về phía nam không xa,
gọi là Al – Fustat. Dần dần làn sóng di dân Ả Rập lớn mạnh và tiếng Ả Rập thay
tiếng Copt trong các tài liệu chính thức đã chịu ảnh hưởng sâu đậm của đạo Islam
gần như toàn bộ dân cư và xóa luôn tiếng Copt.
Từ thế kỷ thứ 8 đến 11 thay đổi hết triều đại Ả Rập này đến triều đại Ả Rập khác
( Abbasid, Fatimid), lần nào cũng diễn ra các cuộc chiến tranh đẫm máu. Thế kỷ 11
bắt đầu những cuộc Thập tự chinh của các hiệp sĩ châu Âu. Họ thiết lập sự thống trị
của mình ở các vùng phía bắc Ai Cập được vài lần. Vào nửa sau thế kỷ 12, quan
thượng thư Saladdin đánh đuổi những tín đồ Kito giáo ra khỏi Ai Cập và sua đó
hình thành triều đại mới Aijubid. Cuối thế kỷ 15, Aijubid bị những nô lệ Mameluk
phục vụ trong quân đội của vương quốc đạo Islam lật đổ. Hai triều đại của họ cầm
quyền cho đến năm 1517, khi Ai Cập không chống nổi cuộc tấn công của Thổ Nhĩ
Kỳ. Trên danh nghĩa, Ai Cập trở thành một bộ phận của đế quốc Osman đến năm
1915, nhưng thực tế quyền lực của Thổ kết thúc sớm hơn nhiều – vào giữa thế kỷ
17. Từ lúc đó quyền lực thực tế rơi vào tay các tiểu vương Mameluk hoặc bei, họ đã
khéo léo lợi dụng mâu thuẫn nội bộ của đế quốc rộng lớn. Thương mại phồn thịnh
là đặc trưng của thế kỷ 16 – 18.
Năm 1789 Ai Cập bị Pháp thời Napoleon xâm lược, nhưng năm 1801 quân Pháp bị
đuổi khỏi đất nước. Bốn năm sau, tướng Muhamed Ali người Thổ gốc Albani lên
nắm chính quyền. Sự cai quản của ông rất khắc nghiệt và đã thúc đẩy kinh tế phát
- triển, nhưng thành công, quân sự của ông còn nổi tiếng hơn. Năm 1831 Ai Cập
chiếm Syria, sau đó đánh tan quân đội Thổ Nhĩ Kỳ và tiến đến dần Constantinople,
Nga, Anh và Pháp buộc họ phải rút lui, nhưng Syria và Crete vẫn nằm dưới sự kiểm
soát của Ai Cập.
Sau khi Muhamed Ali mất ( năm 1849), Ai Cập bắt đầu chuyển dần qua sự cai trị
của Anh Quốc tuy chậm chạp nhưng chắc chắn. Sau công trình kênh Suez ( năm
1869) tài chính nhà nước bị thiếu hụt, năm 1876 hội đồng Anh – Pháp nắm quyền
kiểm soát tài chính. Khi các sĩ quan Ai Cập khởi nghĩa chống lại nhà cầm quyền mới
Tofik – Pasha, Tofik – Pasha cầu cứu nước Anh. Năm 1882 Anh chiếm Ai Cập.
Nguyên nhân làm cho quân Anh quan tâm đến Ai Cập là con đường ngắn đến Ấn
Độ qua kên đào Suez. Vài cuộc khởi nghĩa chống lại sự có mặt của Anh đã bị đàn áp,
năm 1922 Anh công nhận Ai Cập là nước quân chủ độc lập, nhưng vẫn giữ nguyên
can thiệp vũ trang vào công việc của đất nước này. Anh đã sử dụng quyền này
không phải một lần, sự hiện diện quân sự của Anh thực tế chỉ kết thúc vào năm
1954.
Năm 1956 Gamal Abdel Nasser được bầu làm tổng thống Ai Cập, thực hiện ý tưởng
thống nhất Ả Rập của mình, năm 1958 Nasser thành lập nước công hòa Ả Rập.
Thống nhất bằng cách sáp nhập hai quốc gia Ai Cập và Syria. Ba năm sau do bất
bình về vai trò của mình trong quốc gia mới, Syria trở thành nước độc lập. Ai Cập
vẫn giữ khôi liên minh bất thành này và tồn tại nhiều năm dưới tên đó.
Năm 1960, Ai Cập đã quốc hữu hóa công nghiệp và hạn chế gắt gao quyền hành của
các chủ điền. Nasser gọi những điều này là chủ nghĩa xã hội Ả Rập, đối với việc lưu
thông tàu Israel và yêu cầu Liên Hiệp Quốc rút quân đội quốc tế khỏi biên giới
Israel, Isael cho rằng Ai Cập chuẩn bị xâm lược và tấn công trước. Trong vòng gọi
là cuộc chiến 6 ngày đêm, quân Israel phá hủy các sân bay Ai Cập và đóng quân
trên đảo Suez và đóng cửa kênh.
- Năm 1970 Nasser bất ngờ qua đời, Alwer Al – Sadat lên thay. Mối quan tâm chính
của ông là vấn đề kênh Suez, ông đã thực hiện vài kế hoạch chiếm lại kênh Suez
nhưng không thành.
Kênh hoạt động trong vòng vài năm, do việc này, nhiều nước bị lỗ lớn. Mỹ tìm
được lối thoát ra khỏi ngõ cụt, nhờ cách ngoại giao con thoi của Henri Kissinger, Ai
Cập và Israel đã ngồi vào bàn đàm phán và quyền kiểm soát kên Suez được trả lại
cho Ai Cập. Tháng 3 – 1979 ở Trại David ( Mỹ ) hai nước ký hòa ước mà nhiều quốc
gia Ai Cập khác không nhiệt tình ủng hộ. Tổng thống kế tiếp là Hosni Moubarak
dần dần ổn định quan hệ với các láng giềng. Năm 1989 Ai Cập lại được nhận vào
Liên minh các quốc gia Ả Rập nên Ai Cập không bị cản trở trong việc tham gia cuộc
chiến tranh vùng vịnh Persic chống Irắc năm 1991. Nhờ đó Ai Cập được tha
khoảng một nửa số nợ các nước phương tây ( 20,2 tỷ đô la) và được gia hạn số tiền
còn lại.
Tên gọi: Nước Cộng hòa Ai Cập ( Ả Rập cũ là Cộng hòa Ả Rập thống nhất).
Diện tích. 1.001.450km2. Dân số ( 1999) 64.792.000 người. Thành phần dân
tộc, các dân tộc Đông Hamit ( Ai Cập, Beduin, Berber) 99%, Hy Lạp, Nubi, Pháp
- 1%. Các ngôn ngữ chính. Tiếng Ả Rập ( chính thức), Anh, Pháp - Tín ngưỡng
chính, đạo Islam. Nguyên thủ quốc gia. Tổng thống. Quyền lập hiến. Quốc hội
và Hội đồng cố vấn. Đơn vị hành chính. 26 tỉnh - Khoáng sản , Dầu mỏ, khí đốt,
quặng sắt, phosphor, mangan, kẽm, chì, thạch cao, hoạt tính. Cairo ( 6.800.000
người) - Thủ đô, thành phố lớn nhất nước và châu lục, trung tâm thương mại
công nghiệp và quan trọng. Nằm trên hai bờ sông Nil, gần ranh giới châu Âu
và chiếm diện tích hơn 453km2. Trung tâm buôn bán của Cairo nằm quanh
quảng trường Tachrir ở bờ đông cửa sông. Ở phía nam, trong khu tín đồ
Islam là Cairo cũ, nơi tập trung phần lớn các tượng đài kiến trúc, kể cả những
tượng đài cổ nhất. Cộng đồng Copt của Cairo cũng nằm ở đây.
Alexandria ( 3.380.000 người) - Thành phố lớn thứ hai của Ai Cập, cảng biển
lớn nhất, nằm ở châu thổ sông Nil, trên eo ngăn cách Địa Trung Hải với hồ
Mariot. Thành phố được Alexander Đại đế thành lập năm 332 TCN, kè đá
- khổng lồ dài 1,6km, gọi là Gheptastadium, nối liền lục địa với đảo Faros tạo
nên vũng lớn. Trên đảo tự dựng lên ngọn hải đăng hùng vĩ, một trong 7 kỳ
quan của thế giới. Vào thời Ptolemei, thành phố trở thành trung tâm khoa học
và văn học của thế giới cổ. Thư viện Alexandria nổi tiếng chứa gần 500.000
bản sách. Tiếc thay một trận hỏa lớn đã tiêu hủy thư viện và toàn bộ kho báu,
vào thời cai trị của La Mã Alxandria là trung tâm thương mại lớn nhất. Thế kỷ
thứ 7, Ả Rập xâm chiếm và cướp bóc thành phố, sau đó phá hủy.
Giza ( 2.144.000 người) Thủ phủ của một tỉnh cùng tên, ngoại thành tây nam
của Cairo, thành phố lớn thứ 3 của Ai Cập, trung tâm thương mại văn hóa
quan trọng. Thành phố lớn lên trong thời cai quản của triều đại thứ 4 của các
pharaon ( năm 2680 - 2544 TNC). Ở các vùng ngoại ô của Giza có những tượng
đài nổi tiếng nhất của Ai Cập cổ, tượng Nhân sư ( năm 2565 TCN), các kim tự
tháp Keop, Kefren và Menkaur. Hệ thống tiền tệ. 1 pound = 100 piaster.
nguon tai.lieu . vn