Xem mẫu

  1. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 459 (Kì 1 - 8/2019), tr 44-48; 56 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO NGÀNH AN TOÀN THÔNG TIN Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Trần Cao Thanh - Nghiên cứu sinh, Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng Ngày nhận bài: 30/05/2019; ngày chỉnh sửa: 10/06/2019; ngày duyệt đăng: 19/06/2019. Abstract: Information technology is growing strongly and playing an important role in the comprehensive development of life and society. However, along with the development, the situation of information insecurity is happening complicatedly and there are many risks threatening the socio-economic development and ensuring national defense and security. Therefore, the training in Information Security at universities is very important. The article presents some theoretical issues on training Information Security at universities. Keywords: Training, information security, Information Security training, university. 1. Mở đầu 2. Nội dung nghiên cứu Trong giai đoạn hiện nay, đảm bảo an toàn thông tin 2.1. Khái niệm đào tạo ở các trường đại học (ATTT) được coi là một trong những yếu tố mang tính Hiện nay, khi đề cập thuật ngữ “đào tạo” có rất “sống còn”, quyết định đến sự tồn tại, phát triển của mỗi nhiều quan niệm khác nhau. Từ điển Tiếng Anh khẳng cá nhân, tổ chức, cũng như sự phát triển KT-XH và đảm định: “Khi nói đến đào tạo là nói đến việc học làm một bảo quốc phòng, an ninh đất nước. Nhận thức sâu sắc vấn công việc như thế nào, nghĩa là nó liên quan đến việc đề đó, năm 2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành học hay dạy những kĩ năng cần thiết cho một công việc Quyết định số 99 QĐ/TTg ngày 14/01/2014 phê duyệt nhất định nào đó” [2; tr 735]. Theo Từ điển Bách khoa “Đề án đào tạo, phát triển nguồn nhân lực an toàn, an Việt Nam, “đào tạo” được hiểu là “Quá trình tác động ninh thông tin đến năm 2020” và giao nhiệm vụ cho 7 đến một con người làm cho con người đó lĩnh hội và trường đại học (ĐH) thực hiện đào tạo ngành ATTT và nắm vững tri thức, kĩ năng, kĩ xảo một cách có hệ thống xác định “Đào tạo, phát triển đội ngũ nhân lực an toàn, để chuẩn bị thích nghi với cuộc sống và kĩ năng nhận an ninh thông tin là một trong những giải pháp bảo đảm một sự phân công lao động xã hội nhất định, góp phần chủ quyền số quốc gia, làm chủ không gian mạng, góp của mình vào sự phát triển xã hội, duy trì và phát triển phần bảo đảm quốc phòng, an ninh đất nước; là một phần nền văn minh loài người. Về cơ bản, đào tạo là giảng quan trọng của nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực công dạy và học tập trong nhà trường, gắn với đạo đức, nhân nghệ thông tin (CNTT), góp phần bảo đảm thực hiện cách…” [3; tr 735]. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: thành công Đề án đưa Việt Nam sớm trở thành nước “Đào tạo được xem như là một quá trình làm cho người mạnh về CNTT và truyền thông” [1]. Đến nay, cả nước ta “trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn có 10 trường được giao nhiệm vụ đào tạo ngành ATTT, nhất định” [4; tr 75]. Theo Từ điển Giáo dục học: “Đào đó là: Trường ĐH Bách khoa Hà Nội; Học viện Kĩ thuật tạo là quá trình chuyển giao có hệ thống, có phương quân sự; Học viện Kĩ thuật mật mã; Học viện Công nghệ pháp những kinh nghiệm, những tri thức, những kĩ Bưu chính Viễn thông; Trường ĐH CNTT - ĐH Quốc năng, kĩ xảo nghề nghiệp, chuyên môn, đồng thời bồi gia TP. Hồ Chí Minh; Trường ĐH Công nghệ - ĐH Quốc dưỡng những phẩm chất đạo đức cần thiết và chuẩn bị gia Hà Nội; Trường ĐH Bách khoa - ĐH Đà Nẵng; Học tâm thế cho người học để họ sẵn sàng đi vào cuộc sống viện An ninh nhân dân, Bộ Công an; Trường ĐH Duy lao động tự lập, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây Tân; Trường ĐH FPT. dựng và bảo vệ đất nước” [5; tr 76]. Để nâng cao chất lượng đào tạo ngành ATTT, cần có Như vậy, thuật ngữ “đào tạo” ở các trường ĐH những nghiên cứu sâu sắc toàn diện về đào tạo ngành thường gắn với vấn đề đào tạo nghề nghiệp. Mặc dù tiếp ATTT, từ đó làm cơ sở để có những hành động, bước đi cận dưới bất kì góc độ nào thì bản chất của đào tạo chính phù hợp nhằm đào tạo được nguồn nhân lực thực hiện là hoạt động tác động đến con người nhằm chuẩn bị cho nhiệm vụ đảm bảo ATTT đáp ứng tốt với yêu cầu của con người có đầy đủ kiến thức, kĩ năng và những phẩm thực tiễn; phù hợp với mục tiêu, yêu cầu đào tạo và đặc chất nhân cách cần thiết để tham gia vào các hoạt động điểm, điều kiện cụ thể của từng nhà trường. Bài viết trình nghề nghiệp nhất định trên cơ sở phân công lao động xã bày một số vấn đề lí luận về đào tạo ngành ATTT ở các hội. Đào tạo là quá trình được diễn ra trong nhà trường, trường ĐH. có sự xác định rõ về thời gian, chủ thể, đối tượng và các 44 Email: thanhh9@yahoo.com
  2. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 459 (Kì 1 - 8/2019), tr 44-48; 56 yếu tố đảm bảo kèm theo... Quá trình đào tạo được diễn Theo Từ điển Tiếng Việt: “An toàn là yên ổn, loại trừ ra dài hay ngắn tùy thuộc vào mục tiêu, yêu cầu về nguy hiểm hoặc tránh được sự cố; là điều kiện đảm bảo phẩm chất, năng lực, kĩ năng của từng nghề nghiệp đặt không để xảy ra sự cố hay nguy hiểm nói chung” [4; tr ra. Đồng thời, trong thời gian đó, người học được trang 7]. Thông tin là “sự truyền đạt, sự phản ánh tri thức dưới bị những kiến thức, kĩ năng theo đúng với mục tiêu, yêu các hình thức khác nhau, cho biết thế giới xung quanh và cầu đã xác định. những quá trình xảy ra trong nó” [4; tr 1226]. Với cách hiểu này, ATTT thực chất là đảm bảo cho các thông tin Hiện nay, Điều 7 của Luật Giáo dục đại học quy định: được truyền đi an toàn, đầy đủ, chính xác kịp thời và đến Các cơ sở giáo dục ĐH nước ta bao gồm “Trường cao đúng đối tượng cần truyền đạt. đẳng; Trường ĐH, học viện; ĐH vùng, ĐH quốc gia, Viện nghiên cứu khoa học được phép đào tạo trình Tuy nhiên, trong bối cảnh cuộc Cách mạng công độ tiến sĩ” [6]. Đồng thời, trong Điều 4 cũng chỉ rõ “Đại nghiệp 4.0 hiện nay, trước sự phát triển vượt bậc của học là cơ sở giáo dục đại học bao gồm tổ hợp các trường CNTT, nhất là công nghệ mạng và Internet cùng với các cao đẳng, trường ĐH, viện nghiên cứu khoa học thành website thông tin trực tuyến trong các lĩnh vực của cuộc viên thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau, tổ chức sống đã làm cho nhu cầu triển khai các hệ thống ứng theo hai cấp, để đào tạo các trình độ của giáo dục ĐH”... dụng trong lĩnh vực mạng máy tính và truyền thông Mục tiêu cụ thể của trường ĐH là đào tạo ở 4 trình độ là tăng lên nhanh chóng. Đặc biệt, trong công tác quản lí “trình độ cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ” [6]. xã hội của Nhà nước, quản lí doanh nghiệp, hay trong đời sống cá nhân mỗi con người, các hình thức truyền Có thể thấy, các trường ĐH ở nước ta là những cơ sở đạt, bảo mật thông tin truyền thống trước đây đã được giáo dục đại học bao gồm tổ hợp các trường cao đẳng, thay thế bằng các hình thức mới dựa trên cơ sở có ứng trường đại học, viện nghiên cứu khoa học thành viên dụng của CNTT, nhất là dựa trên cơ sở sử dụng mạng thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau, tổ chức theo máy tính và Internet. Tuy nhiên, cùng với những tiện hai cấp, để đào tạo các trình độ của giáo dục đại học. Mục lợi đó đã kéo theo tình hình mất an ninh thông tin diễn tiêu chung của các trường ĐH là đào tạo người học “có biến ngày càng phức tạp, thủ đoạn tinh vi khác nhau và phẩm chất chính trị, đạo đức; có kiến thức, kĩ năng thực gây ra nhiều hệ lụy nguy hiểm. Chính vì vậy, việc đảm hành nghề nghiệp, năng lực nghiên cứu và phát triển ứng bảo ATTT trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp dụng khoa học và công nghệ tương xứng với trình độ đào 4.0 được coi là một trong những yếu tố mang tính “sống tạo; có sức khỏe; có khả năng sáng tạo và trách nhiệm còn”, quyết định đến sự tồn tại, phát triển của mỗi cá nghề nghiệp, thích nghi với môi trường làm việc; có ý nhân, tổ chức, cũng như sự phát triển KT-XH và đảm thức phục vụ nhân dân” [6]. Đào tạo ở các trường ĐH bảo quốc phòng, an ninh đất nước. giữ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, trực tiếp góp phần Hiện nay, khi đề cập thuật ngữ “ATTT”, Bách khoa quyết định đến số lượng, chất lượng nguồn nhân lực để toàn thư mở Wikipedia định nghĩa “ATTT là hành động đáp ứng với nhu cầu của thực tiễn xã hội. Đây được coi ngăn cản, phòng ngừa sự sử dụng, truy cập, tiết lộ, chia là một quá trình và được cấu thành chủ yếu bởi quá trình sẻ, phát tán, ghi lại hoặc phá hủy thông tin chưa có sự cho dạy học và quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp) nhằm phép”. Theo định nghĩa tiêu chuẩn quốc tế của ISO/IEC hướng tới thực hiện đồng thời ba nhiệm vụ cơ bản là dạy 27000:2009 thì ATTT được xác định “Là sự bảo toàn của người, dạy nghề và dạy phương pháp; tương ứng với đó việc bảo mật, toàn vẹn và tính sẵn có của thông tin” [7]. là ba mục tiêu: thái độ, kiến thức - kĩ năng và phương Điều 4 của Luật An ninh mạng đã chỉ rõ: 1) An ninh pháp; trên cơ sở đó, giúp cho người học có phẩm chất, mạng là sự bảo đảm hoạt động trên không gian mạng năng lực phù hợp với yêu cầu của thực tiễn từng nghề không gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an nghiệp đặt ra. toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá Với cách tiếp cận trên, có thể khẳng định: Đào tạo ở nhân; 2) Bảo vệ an ninh mạng là phòng ngừa, phát hiện, các trường ĐH là quá trình có mục đích, có tổ chức của ngăn chặn, xử lí hành vi xâm phạm an ninh mạng; các lực lượng sư phạm ở từng nhà trường nhằm hướng 3) Không gian mạng là mạng lưới kết nối của cơ sở hạ tới hình thành và phát triển người học về các phẩm chất, tầng CNTT, bao gồm mạng viễn thông, mạng internet, năng lực và kĩ năng nghề nghiệp phù hợp với mục tiêu, mạng máy tính, hệ thống xử lí và điều khiển thông tin, cơ yêu cầu đào tạo đã xác định. sở dữ liệu; là nơi con người thực hiện các hành vi xã hội không bị giới hạn bởi không gian và thời gian” [8]. 2.2. Khái niệm an toàn thông tin và đào tạo ngành An Hiện nay, dưới góc độ của khoa học CNTT, hệ thống toàn thông tin ở các trường đại học thông tin được chia thành 3 phần chính: Phần cứng (máy 2.2.1. Khái niệm “an toàn thông tin” vi tính), Phần mềm (các thông tin) và Kết nối (mạng). 45
  3. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 459 (Kì 1 - 8/2019), tr 44-48; 56 ATTT hướng tới giúp cho các thông tin và hệ thống Quan niệm trên cho thấy, mục đích đào tạo ngành thông tin nói chung không bị các truy cập trái phép, sử ATTT ở các trường ĐH là nhằm hướng tới đào tạo được dụng, làm lộ, làm hỏng, chỉnh sửa, ghi chép không được nguồn nhân lực có thái độ, kiến thức, kĩ năng về CNTT, phép… Dựa trên cơ sở của sự cấu thành hệ thống thông khả năng thiết kế, cài đặt và quản trị hệ thống mạng, tin đó đã dẫn tới nhiều khái niệm có liên quan khác nhau, nguyên tắc tổ chức thông tin, chính sách và pháp luật của đó là khái niệm về ATTT (information security), an toàn nhà nước cũng như yếu tố con người trong việc đảm bảo máy tính (computer security), đảm bảo thông tin ATTT. Dựa trên cơ sở đó giúp cho họ đáp ứng được yêu (information assurance). Các khái niệm này có mối quan cầu trong thực hiện các nhiệm vụ về bảo mật của công hệ chặt chẽ với nhau cùng hướng tới mục đích chính là nghệ mạng và truyền thông hiện đại đã và đang đặt ra bảo vệ các khía cạnh tính bí mật, toàn vẹn và tính sẵn hiện nay. Chủ thể đào tạo ở các nhà trường bao gồm sàng của thông tin. Tuy nhiên, mỗi khái niệm lại có nội nhiều tổ chức, lực lượng khác nhau như: Tổ chức đảng, hàm riêng, nó phụ thuộc vào cách tiếp cận vấn đề, các tổ chức chính trị - xã hội, đội ngũ cán bộ quản lí các phương pháp thực hiện và phạm vi quan tâm của mỗi lĩnh cấp từ hiệu trưởng cho đến các phòng/ban, khoa, đội ngũ vực. Trong đó, ATTT quan tâm đến khía cạnh bí mật, giảng viên và chính bản thân từng sinh viên. Đối tượng toàn vẹn, sẵn sàng của dữ liệu mà không quan tâm đến đào tạo là sinh viên ở mọi lứa tuổi, trình độ đào tạo đang hình thức của dữ liệu như: điện tử, bản in, hoặc các dạng trực tiếp đào tạo ngành ATTT ở các nhà trường. Nội dung khác. An toàn máy tính tập trung vào việc đảm bảo tính đào tạo đảm bảo tính toàn diện về thái độ, kiến thức, kĩ sẵn sàng và hoạt động đúng đắn của hệ thống máy tính năng phù hợp với trình độ đào tạo và nghề nghiệp chuyên mà không quan tâm đến thông tin được lưu trữ, xử lí bởi ngành ATTT. Phương pháp dạy học ở các nhà trường chúng. Đảm bảo thông tin tập trung vào lí do đảm bảo tương đối đa dạng, phong phú, trong đó chủ yếu sử dụng rằng thông tin được bảo vệ và vì thế nó là lí do để thực các phương pháp mang tính hiện đại như: nêu vấn đề, hiện ATTT. phát huy tính tích cực, chủ động trong tự học của người học, ứng dụng CNTT... Từ những vấn đề trên, có thể khẳng định: ATTT thực chất là việc bảo vệ thông tin số và các hệ thống thông tin Cũng giống như đào tạo các ngành khác ở các trường chống lại các nguy cơ tự nhiên, các hành động truy cập, ĐH, đào tạo ngành ATTT là một quá trình được cấu sử dụng, phát tán, phá hoại, sửa đổi và phá hủy bất hợp thành bởi các nhiều thành tố cùng vận động trong các pháp nhằm đảm bảo cho các hệ thống thông tin thực hiện mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau, bao gồm các đúng chức năng, phục vụ đúng đối tượng một cách sẵn thành tố: Mục tiêu đào tạo, nội dung, phương pháp, hình sàng, chính xác và tin cậy. thức tổ chức đào tạo, phương tiện đào tạo, người thực hiện đào tạo, đối tượng đào tạo và kết quả đào tạo. Chính 2.2.2. Khái niệm “đào tạo ngành An toàn thông tin ở các sự vận động của các thành tố, cũng như mối quan hệ chặt trường đại học” chẽ giữa các thành tố đó đã hình thành nên các hoạt động Hiện nay, trong bối cảnh cuộc Cách mạng công cơ bản của quá trình đào tạo là hoạt động của nhà quản nghiệp 4.0, CNTT ngày càng phát triển mạnh mẽ, giữ vai lí, người dạy và người học nhằm hướng tới mục tiêu cuối trò quan trọng đối với sự phát triển đời sống, xã hội của cùng là hình thành, phát triển phẩm chất nhân cách, kiến mọi quốc gia. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển đó đã kéo thức, kĩ năng, kĩ xảo (năng lực) của người học để đáp ứng theo tình hình mất an ninh thông tin và xuất hiện nhiều tốt với mục tiêu, yêu cầu đã xác định. nguy cơ đe dọa nghiêm trọng đến việc ứng dụng CNTT 2.3. Đặc điểm đào tạo ngành An toàn thông tin ở các phục vụ phát triển KT-XH và đảm bảo quốc phòng, an trường đại học trong bối cảnh hiện nay ninh đất nước. Nhận thức sâu sắc vấn đề đó, trong những Có thể khẳng định, ATTT là một ngành đào tạo thuộc năm gần đây, các trường ĐH ở nước ta đã xác định việc lĩnh vực CNTT ở các trường ĐH. Chính vì thế, trong đào đào tạo chuyên ngành ATTT là một trong những nhiệm tạo ngành ATTT có những đặc điểm chung giống như vụ quan trọng hàng đầu trong đào tạo nguồn nhân lực các ngành khác thuộc lĩnh vực CNTT như ngành Kĩ thuật trên lĩnh vực CNTT. Mạng, Công nghệ phần mềm, Hệ thống Thông tin quản Từ cách tiếp cận trên, có thể khẳng định: Đào tạo lí, Thiết kế đồ họa/Game/Multimedia, Big Data and ngành ATTT ở các trường ĐH là quá trình có mục đích, Machine Learning... Tuy nhiên, bên cạnh đó, ngành có tổ chức của các lực lượng sư phạm trong các nhà ATTT có những đặc điểm riêng khác biệt như chương trường nhằm hình thành và phát triển người học các trình, nội dung đào tạo ngành ATTT được xây dựng linh phẩm chất, kiến thức, kĩ năng trong lĩnh vực an toàn hoạt, bám sát với sự phát triển của lĩnh vực CNTT…, nội mạng máy tính và truyền thông, đáp ứng được yêu cầu dung cụ thể được thể hiện trên những vấn đề cơ bản sau: bảo mật của công nghệ mạng và truyền thông hiện đại. 2.3.1. Đặc điểm về mục tiêu đào tạo 46
  4. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 459 (Kì 1 - 8/2019), tr 44-48; 56 Mục tiêu đào tạo ngành ATTT ở các trường ĐH có tạo ngành ATTT ở các nhà trường là những môn học đặc điểm chung giống như các ngành khác thuộc lĩnh vực nhằm trang bị các kiến thức, kĩ năng nghiệp vụ xung CNTT cả về thái độ, kiến thức và kĩ năng. Trong đó, quanh lĩnh vực ATTT như: An toàn mạng, quản lí ATTT, hướng tới mục tiêu giúp cho người học có phẩm chất, kĩ thuật theo dõi, giám sát an toàn mạng, phát triển phần đạo đức, thái độ đáp ứng tốt với trách nhiệm của người mềm an toàn... công dân; có kiến thức đại cương, cơ sở ngành như: kiến Từ những vấn đề trên cũng kéo theo những môn học thức về lí luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ mang tính trang bị kiến thức, kĩ năng thực hành ATTT Chí Minh, khoa học tự nhiên, nhất là Toán, tiếng Anh...; được thiết kế xây dựng theo hướng chứa đựng tính thực các kiến thức cơ bản về CNTT như kĩ thuật lập trình, hành cao và chiếm khối lượng thời gian tương đối lớn công nghệ mạng, kiến trúc máy tính và hệ điều hành, cơ trong tổng số chương trình, nội dung đào tạo và phù hợp sở dữ liệu, truyền dữ liệu và mạng máy tính, công nghệ với logic nhận thức người học, bám sát với xu hướng phần mềm, mật mã cơ sở... phát triển CNTT. Ngoài ra, trong chương trình, nội dung Tuy nhiên, do đặc thù là ngành đào tạo đảm bảo tính đào tạo cũng thể hiện rõ yêu cầu cần số lượng lớn cơ sở bảo mật, toàn vẹn và tính sẵn có của thông tin, cho nên, vật chất, trang thiết bị đảm bảo đặc thù liên quan đến mục tiêu đào tạo ngành ATTT ở các trường ĐH có đặc CNTT như: máy vi tính, hệ thống các phần mềm tin học, điểm riêng biệt tập trung ở mục tiêu trang bị kiến thức mạng internet, các thiết bị di động... Trên cơ sở đó, giúp chuyên ngành cho sinh viên, đó là trang bị những kiến cho sinh viên có nhiều điều kiện thuận lợi để lĩnh hội sâu thức về kĩ thuật mật mã, an toàn mạng máy tính, an toàn sắc các kiến thức chuyên ngành; các kĩ năng thực hành hệ điều hành, an toàn cơ sở dữ liệu, an toàn các ứng dụng thành thạo để có thể đảm nhiệm tốt nhiệm vụ đảm bảo Web và Internet, an toàn trong giao dịch và thương mại ATTT của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp... sau khi tốt điện tử, các kĩ thuật tấn công và xâm nhập mạng, mô hình nghiệp ra trường. bảo vệ và các kĩ thuật phòng thủ chống tấn công đột nhập, 2.3.3. Đặc điểm đội ngũ giảng viên lập trình an toàn, thiết kế các phần mềm và công cụ đảm bảo an toàn, quản lí và đánh giá điểm yếu, các kĩ thuật Đội ngũ giảng viên tham gia đào tạo ngành ATTT ở kiểm tra đánh giá an toàn, quản trị mạng an toàn, các vấn các nhà trường rất đa dạng, phong phú với nhiều đối đề về chính sách, pháp luật và chuẩn hóa an toàn... Dựa tượng và trình độ chuyên môn khác nhau. Trong đó, bên trên cơ sở những kiến thức được trang bị, đào tạo ngành cạnh đội ngũ giảng viên là những người được đào tạo các ATTT ở các trường ĐH hướng tới mục tiêu giúp cho chuyên ngành thuộc khối kiến thức chung, kiến thức cơ người học có các kĩ năng phân tích, giải quyết các vấn đề bản nhóm ngành giống như các ngành đào tạo khác thì liên quan đến an toàn, bảo mật thông tin mạng; biết thu phần lớn đội ngũ giảng viên tham gia đào tạo ngành thập, phân tích tìm hiểu và tổng hợp các yêu cầu về an ATTT ở các trường ĐH là những người được đào tạo cơ ninh, bảo mật từ hệ thống thông tin, từ đó thiết kế và triển bản, chuyên sâu về lĩnh vực CNTT. khai các ứng dụng đảm bảo ATTT đáp ứng các yêu cầu Là những người trực tiếp tiến hành các hoạt động sư kĩ thuật đặt ra trong điều kiện thực tế. Bên cạnh đó, người phạm ở các trường ĐH cho nên đội ngũ giảng viên tham học còn có những kĩ năng trong xử lí sáng tạo, có hiệu gia đào tạo ngành ATTT mang đầy đủ yêu cầu của người quả các tình huống mà thực tế ATTT hiện đại đã và đang giảng viên theo quy định của Luật Giáo dục, đó là: “Có đặt ra. phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt; đạt trình độ chuẩn được 2.3.2. Đặc điểm chương trình, nội dung đào tạo đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ; đủ sức khỏe theo yêu Do tính chất đặc thù của mục tiêu đào tạo ngành cầu nghề nghiệp và lí lịch bản thân rõ ràng” [6]. ATTT ở các trường ĐH cũng như thực tiễn sự phát triển Tuy nhiên, do đặc thù của chương trình, nội dung của lĩnh vực CNTT trong bối cảnh hiện nay đã kéo theo đào tạo ngành ATTT ở các trường ĐH chủ yếu là những chương trình, nội dung đào tạo ngành ATTT ở các nhà môn học thuộc lĩnh vực CNTT. Do đó, đội ngũ giảng trường được thiết kế, xây dựng vừa đảm bảo tính toàn viên trực tiếp giảng dạy các môn học này chủ yếu là diện, nhưng cũng đảm bảo chuyên sâu, phù hợp đặc thù những người được lựa chọn cẩn thận, kĩ càng, được đào nhiệm vụ mà sinh viên sau tốt nghiệp phải đảm nhiệm. tạo cơ bản theo các chuyên ngành khác nhau thuộc lĩnh Chương trình, nội dung đào tạo ngành ATTT có sự “gần vực CNTT ở các trường ĐH trong và ngoài nước; có gũi” so với một số chuyên ngành khác thuộc lĩnh vực trình độ học vấn, am hiểu sâu sắc thực tiễn chuyên ngành CNTT ở các trường ĐH, cụ thể là bao hàm nhiều môn cũng như lĩnh vực CNTT, chính trị xã hội; có động cơ, học thuộc lĩnh vực CNTT như: tin học cơ sở, lí thuyết thái độ rõ ràng, phẩm chất chính trị tư tưởng, đạo đức, lối về kiến trúc máy tính, lí thuyết thông tin, hệ điều hành, sống tiêu biểu của người viên chức nhà nước, người lập trình... Đặc biệt, phần lớn chương trình, nội dung đào giảng viên; có ý chí, lòng quyết tâm; có chứng chỉ nghiệp 47
  5. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 459 (Kì 1 - 8/2019), tr 44-48; 56 vụ sư phạm, kinh nghiệm trong thực tiễn tổ chức các hoạt và chỉ rõ: Những ngành đào tạo được áp dụng cơ chế đặc động giáo dục... thù gồm: khoa học máy tính, mạng máy tính và truyền 2.3.4. Đặc điểm đối tượng đào tạo thông dữ liệu, kĩ thuật phần mềm, kĩ thuật máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống thông tin quản lí, công nghệ kĩ Là những người đào tạo ở các trường ĐH, cho nên thuật máy tính, CNTT, ATTT, CNTT ứng dụng trong sinh viên đào tạo ngành ATTT được lựa chọn chặt chẽ, lĩnh vực KT-XH. Theo đó, sinh viên đang học ĐH hết toàn diện về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, sức năm thứ 1, 2, 3 các ngành khác nếu có nguyện vọng có khỏe, kiến thức... theo đúng quy định của Bộ GD-ĐT. thể được chuyển sang học các ngành CNTT ở trong cùng Tuy nhiên, do đặc thù mục tiêu đào tạo sau khi tốt một cơ sở đào tạo hoặc chuyển sang các cơ sở đào tạo nghiệp trở thành những chuyên viên, kĩ sư có sự am khác có đào tạo các ngành CNTT. Các cơ sở đào tạo hiểu trong lĩnh vực CNTT, nhất là kiến thức, kĩ năng CNTT phải gắn kết với các doanh nghiệp, hiệp hội nghề chuyên môn cao về ngành ATTT đã đặt ra yêu cầu nghiệp trong lĩnh vực CNTT để dự báo nhu cầu lao động, người học cần phải có tư duy logic cao; có khả năng xây dựng chuẩn đầu ra và đào tạo sinh viên có kiến thức, tính toán chính xác và dự báo được các tình huống có kĩ năng đáp ứng yêu cầu ngành nghề. Thời gian đào tạo thể xảy ra trong lĩnh vực CNTT... thực tế tại doanh nghiệp phải đảm bảo ít nhất 30% tổng Mặt khác, do đặc thù chương trình, nội dung đào tạo thời gian đào tạo và được xác định cụ thể trong chương chủ yếu những môn học mang tính chất thực hành trong trình đào tạo. Cơ sở đào tạo chịu trách nhiệm kiểm tra, môi trường thường xuyên tương tác với máy vi tính, hệ giám sát, đáp ứng yêu cầu về điều kiện đảm bảo chất thống mạng, yêu cầu bảo mật cao. Do đó, đây là đối lượng thực tập, thực hành tại doanh nghiệp đối tác. Đặc tượng cũng đòi hỏi cao về trình độ tư duy, sức khỏe, ý điểm này được coi là một trong những đặc điểm nổi bật, chí, tính kỉ luật, khả năng chịu đựng... thì mới có thể đáp khác biệt nhất trong đào tạo một số ngành thuộc lĩnh vực ứng được với chương trình, nội dung và mục tiêu, yêu CNTT nói chung, ATTT nói riêng so với các ngành đào cầu đào tạo của ngành đặt ra. tạo khác ở các trường ĐH. 2.3.5. Đặc điểm về hệ thống tổ chức đào tạo và cơ sở Bên cạnh những đặc điểm trên, trong đào tạo ngành vật chất ATTT ở các trường ĐH còn đòi hỏi lớn hệ thống cơ sở Ở tầm vĩ mô, trên cơ sở đường lối phát triển GD-ĐT vật chất đảm bảo. Trong đó, ngoài những cơ sở vật chất của Đảng, yêu cầu của thực tiễn, việc tổ chức đào tạo giống như các ngành đào tạo khác như giảng đường, ngành ATTT ở các trường ĐH do Thủ tướng Chính phủ trang thiết bị, phương tiện kĩ thuật dạy học, giáo trình, tài quy định. Những trường ĐH này là những trường có chất liệu... Quá trình đào tạo ngành ATTT còn đòi hỏi cao về lượng, truyền thống và uy tín trong đào tạo nguồn nhân những cơ sở vật chất mang tính đặc thù, đó là hệ thống lực CNTT của quốc gia; có tư cách pháp nhân, hoạt động cơ sở hạ tầng CNTT, máy vi tính, các phần mềm tin học, dưới sự quản lí của Nhà nước, mà trực tiếp là Bộ GD- mạng internet... Tất cả những cơ sở vật chất này phải đảm ĐT. Đồng thời, các nhà trường có trách nhiệm thực hiện bảo đáp ứng tốt về số lượng, có tính hiện đại, đồng bộ theo đúng Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Điều lệ cao. trường ĐH… 3. Kết luận Ở tầm vi mô, trong các trường ĐH, hệ thống tổ chức đào tạo ngành ATTT được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp Nâng cao chất lượng đào tạo ngành ATTT ở các của Đảng ủy từng nhà trường. Bên cạnh đó, còn có các trường ĐH hiện nay là một trong những vấn đề rất quan chủ thể quản lí khác là các phó hiệu trưởng; lãnh đạo các trọng nhằm đào tạo được nguồn nhân lực đảm bảo ATTT phòng, ban chức năng; các khoa, bộ môn chuyên ngành. phục vụ phát triển KT-XH và đảm bảo quốc phòng, an Những người này do hiệu trưởng trực tiếp bổ nhiệm, có ninh đất nước. Để thực hiện được điều này cần phải làm vị trí, vai trò, chức trách, nhiệm vụ khác nhau trong chỉ rõ một số vấn đề như: Khái niệm về đào tạo ở các trường đạo, tổ chức điều khiển, kiểm tra giám sát tất cả các hoạt ĐH; khái niệm về ATTT và đào tạo ngành ATTT ở các động đào tạo, chịu trách nhiệm cấp ủy, tổ chức đảng cùng trường ĐH. Đặc biệt, phải chỉ rõ đặc điểm đào tạo ngành cấp và hiệu trưởng nhà trường về toàn bộ mức độ, chất ATTT ở trường ĐH trong bối cảnh hiện nay. Có như vậy, lượng nhiệm vụ được phân công. mới đảm bảo cho các trường ĐH có cơ sở lí luận vững chắc, từ đó làm nền tảng đánh giá thực trạng đào tạo Đặc biệt, trong bối cảnh trước nhu cầu nguồn nhân ngành ATTT và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao lực lĩnh vực CNTT quốc gia ngày càng lớn, ngày chất lượng đào tạo ngành ATTT đáp ứng tốt với yêu cầu 16/11/2017, Bộ GD-ĐT đã ban hành Hướng dẫn số của thực tiễn đặt ra hiện nay. 5544/BGDĐT-GDĐH về việc áp dụng cơ chế đặc thù đào tạo các ngành thuộc lĩnh vực CNTT trình độ ĐH [9] (Xem tiếp trang 56) 48
  6. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 459 (Kì 1 - 8/2019), tr 52-56 phẩm ban đầu của mình để biết được sự: đúng - sai, hay trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập - dở, đủ - thiếu; - Kiểm tra lí lẽ, tìm kiếm luận cứ để có quốc tế. cơ sở chứng minh cho sự đúng - sai; - Tổng hợp, bổ sung [3] Nguyễn Cảnh Toàn (1999). Luận bàn và kinh thêm lí lẽ, chốt lại vấn đề; - Sửa chữa những chỗ sai sót, nghiệm về tự học. NXB Giáo dục. hoàn thiện sản phẩm; - Rút kinh nghiệm về cách học, [4] Đặng Vũ Hoạt - Hà Thị Đức (2013). Lí luận dạy học cách xử lí tình huống, cách giải quyết vấn đề. đại học. NXB Đại học Sư phạm. Việc tự đánh giá, điều chỉnh kết quả học tập được [5] Nguyễn Hiến Lê (2007). Tự học - Một nhu cầu của thực hiện bằng nhiều hình thức, như: Dùng các thang đo thời đại. NXB Văn hoá - Thông tin. mức độ đáp ứng yêu cầu mà GV đưa ra, hay các bảng [6] Trần Thị Minh Hằng (2011). Tự học và yếu tố tâm lí kiểm; tự đánh giá, điều chỉnh; sự đánh giá nhận xét của cơ bản trong tự học của sinh viên sư phạm. NXB tập thể, thông qua thảo luận, tự đối chiếu so sánh với mục Giáo dục Việt Nam. tiêu đặt ra ban đầu. Tất cả cách làm đó đều mang một ý [7] Nguyễn Bá Kim (1998). Học tập trong hoạt động và nghĩa tích cực, cần được quan tâm thường xuyên. Thông bằng hoạt động. NXB Giáo dục. qua đó, người học tự đối thoại để thẩm định, hiểu được [8] Nguyễn Văn Cường - Bernd Meier (2014). Lí luận cái gì làm được, điều gì chưa đáp ứng nhu cầu học tập, dạy học hiện đại - Một số vấn đề về đổi mới phương nghiên cứu, để từ đó có hướng khắc phục nhược điểm pháp dạy học. NXB Đại học Sư phạm. hay phát huy ưu điểm. Quá trình tự đánh giá cần được [9] Nguyễn Hữu Châu (2005). Những vấn đề cơ bản về diễn ra thường xuyên và liên tục làm cho người học đánh chương trình và quá trình dạy học. NXB Giáo dục. giá được hiệu quả quá trình tự học của bản thân, từ đó có định hướng cho quá trình tự học thích hợp. Đồng thời, với quá trình tự đánh giá, GV có thể đa MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN... dạng hoá các hình thức kiểm tra, đánh giá nhằm tạo động lực, khích lệ SV tự học. Trước mỗi HĐ bài học mới, GV (Tiếp theo trang 48) có thể dành thời gian để kiểm tra HĐ chuẩn bị bài của SV. Trong quá trình học tập, GV giao những bài tập lớn Tài liệu tham khảo theo nhóm, theo cặp để SV tự hoàn thiện và sau đó báo [1] Thủ tướng Chính phủ (2014). Quyết định số 99/QĐ- cáo kết quả tự học. Trước khi GV đánh giá, yêu cầu SV TTg ngày 14/01/2014 về Phê duyệt Đề án đào tạo và tự đánh giá trong nhóm thông qua trình tự: SV tự đánh phát triển nguồn nhân lực an toàn, an ninh thông tin giá bản thân, thành viên trong nhóm tự đánh giá nhau và đến năm 2020. sau đó, GV đánh giá, tổng kết. Quá trình đánh giá được [2] Collins Cobuild (1993). Essential English triển khai thông qua nhiều kênh thông tin sẽ giúp SV có Dictionary. HarperCollins Publisher, London. động lực tự học và thúc đẩy quá trình tự học của SV được [3] Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách diễn ra thường xuyên và liên tục. khoa Việt Nam (2009). Từ điển Bách khoa Việt 3. Kết luận Nam. NXB Từ điển Bách khoa. Tự học là một năng lực quan trọng và cần thiết với [4] Hoàng Phê (2009). Từ điển Tiếng Việt. NXB Đà mỗi cá nhân. Điều này còn quan trọng hơn với mỗi SV Nẵng. ngành Sư phạm bởi dạy học là một nghề gắn với quá [5] Bùi Hiền - Vũ Văn Tảo - Nguyễn Văn Giao - trình học tập và GV cũng phải luôn tự học không Nguyễn Hữu Quỳnh (2001). Từ điển Giáo dục học. ngừng. Do đó, việc nâng cao năng lực tự học cho SV là NXB Từ điển Bách khoa. điều thiết yếu. Trong quá trình giảng dạy, GV cần luôn [6] Quốc hội (2013). Luật Giáo dục đại học. Luật số tạo điều kiện cho mỗi SV có thêm cơ hội để rèn luyện 08/2012/QH13. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. và phát triển năng lực tự học. [7] SO/IEC 27000:2009 (E). (2009). Information technology - Security techniques - Information security management systems - Overview and Tài liệu tham khảo vocabulary. ISO/IEC. [1] Luật Giáo dục (2005). NXB Chính trị Quốc gia - Sự [8] Quốc hội (2018). Luật An ninh mạng. Luật số: thật. 24/2018/QH14, ngày 12/6/2018. [2] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số [9] Bộ GD-ĐT (2017). Hướng dẫn số 5544/BGDĐT- 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn GDĐH về việc áp dụng cơ chế đặc thù đào tạo các diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công ngành thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin trình độ nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị đại học, ngày 16/11/2017. 56
nguon tai.lieu . vn