Xem mẫu

  1. ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ AN GIANG GIÁO TRÌNH Môn học: MỸ THUẬT CĂN BẢN NGHỀ: THIẾT KẾ ĐỒ HỌA Trình độ : trung cấp (Ban hành theo Quyết định số: /QĐ-CĐN ngày tháng năm 20 của Hiệu trưởng trường Cao đẳng nghề An Giang) An Giang, Năm ban hành : 2021
  2. TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể được phép dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham khảo. Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm. LỜI GIỚI THIỆU Tài liệu này được thiết kế theo từng mô đun/ môn học thuộc hệ thống mô đun/môn học của một chương trình để đào tạo hoàn chỉnh nghề Thiết kế đồ họa và được dùng làm giáo trình cho học sinh trong các khóa đào tạo, cũng có thể được sử dụng cho đào tạo ngắn hạn. Trong quá trình biên soạn, mặc dù đã cố gắng tham khảo nhiều tài liệu và giáo trình khác nhưng tác giả không khỏi tránh được những thiếu sót và hạn chế. Tác giả chân thành mong đợi những nhận xét, đánh giá và góp ý để giáo trình ngày một hoàn thiện hơn. Nội dung chính của môn học: Chương 1: Giới thiệu về mỹ thuật Chương 2: Hình Chương 3: Đường Chương 4: Hình dạng Chương 5: Mức độ Chương 6: Chất liệu Chương 7: Màu sắc Chương 8: Không gian Chương 9: Nghệ thuật 3 chiều Chương 10: Nội dung và phong cách An Giang, ngày tháng năm 2021 Tham gia biên soạn Vương Thị Minh Nguyệt 1
  3. MỤC LỤC ĐỀ MỤC TRANG LỜI GIỚI THIỆU.....................................................................................................1 MỤC LỤC................................................................................................................2 CHƯƠNG TRÌNH MÔN HỌC ...............................................................................4 CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ MỸ THUẬT .........................................................6 1. Các yêu cầu mỹ thuật ...................................................................................6 2. Các đối tượng mỹ thuật................................................................................7 CHƯƠNG 2: HÌNH .................................................................................................9 1. Hình và thể hiện hình ...................................................................................9 2. Các nguyên tắc tổ chức hình ......................................................................10 CHƯƠNG 3: ĐƯỜNG...........................................................................................18 1. Đặc tính của đường ....................................................................................18 2. Đường và các thành phần mỹ thuật thể hiện đường ..................................18 CHƯƠNG 4: HÌNH DẠNG...................................................................................22 1. Xác định dạng ............................................................................................22 2. Nguyên tắc thiết kế dạng ...........................................................................23 3. Dạng và nội dung .......................................................................................24 CHƯƠNG 5: MỨC ĐỘ .........................................................................................26 1. Mối quan hệ về mức độ .............................................................................26 2. Thể hiện mức độ ........................................................................................28 3. Giá trị của mức độ......................................................................................33 CHƯƠNG 6: CHẤT LIỆU ....................................................................................36 1. Các mẫu chất liệu .......................................................................................36 2. Chất liệu và không gian .............................................................................40 CHƯƠNG 7: MÀU SẮC .......................................................................................42 1. Đặc tính của màu và cân đối màu ..............................................................42 2
  4. 2. Ánh sáng ....................................................................................................47 CHƯƠNG 8: KHÔNG GIAN ................................................................................48 1. Nhận thức không gian ................................................................................48 2. Dạng chính của không gian .......................................................................49 3. Thuộc tính của không gian.........................................................................50 4. Không gian và các yếu tố mỹ thuật ...........................................................51 CHƯƠNG 9: NGHỆ THUẬT 3 CHIỀU ...............................................................55 1. Điêu khắc ...................................................................................................55 2. Thành phần của tác phẩm 3 chiều..............................................................60 CHƯƠNG 10: NỘI DUNG VÀ PHONG CÁCH..................................................61 1. Một số mốc lịch sử mỹ thuật .....................................................................61 2. Sáng tác nghệ thuật ....................................................................................67 TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................69 3
  5. CHƯƠNG TRÌNH MÔN HỌC Tên môn học: MỸ THUẬT CƠ BẢN Mã số môn học: MH11 Thời gian môn học: 60 giờ (Lý thuyết: 20 giờ; Thực hành: 36 giờ; Kiểm tra: 4 giờ) I. VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT MÔN HỌC: - Vị trí của môn học: Môn học được bố trí sau các môn học chung và các môn học cơ sở về đồ hoạ. - Tính chất của môn học: Là môn học chuyên ngành bắt buộc. II. MỤC TIÊU MÔN HỌC: - Trang bị cho người học kiến thức về tạo hình mỹ thuật, kiến thức về đường, hình, khối và một số vấn đề mỹ thuật liên quan. - Rèn luyện kĩ năng thể hiện các yếu tố mỹ thuật. III. NỘI DUNG MÔN HỌC: Thời gian (giờ) Thực hành, TT Tên chương, mục Tổng Lý thí nghiệm, Kiểm số thuyết thảo luận, tra bài tập Chương 1:Giới thiệu về mỹ thuật 6 2 4 I. 1. Các yêu cầu mỹ thuật 2 1 1 2. Các đối tượng mỹ thuật 4 1 3 Chương 2: Hình 6 2 3 II. 1. Hình và thể hiện hình 2 1 1 1 2. Các nguyên tắc tổ chức hình 4 1 2 Chương 3: Đường 6 2 4 Đặc tính của đường 2 0.5 1.5 III. Đường và các thành phần mỹ thuật 2 0.5 1.5 Thể hiện đường 2 1 1 Chương 4: Hình dạng 6 2 3 1. Xác định dạng 2 0.5 1 1 IV. 2. Nguyên tắc thiết kế dạng 2 0.5 1 3. Dạng và nội dung 2 1 1 4
  6. Chương 5: Mức độ 6 2 4 1. Mối quan hệ về mức độ 2 0.5 1.5 V. 2.Thể hiện mức độ 2 0.5 1.5 3. Giá trị của mức độ 2 1 1 Chương 6: Chất liệu 6 2 3 VI. 1. Các mẫu chất liệu 2 1 1 1 2. Chất liệu và không gian 4 1 2 Chương 7: Màu sắc 6 2 4 VII. 1. Đặc tính của màu và cân đối màu 3 1 2 2. ánh sáng 3 1 2 Chương 8: Không gian 6 2 3 1. Nhận thức không gian 1 1 0 2. Dạng chính của không gian VIII. 1 0 1 1 3. Thuộc tính của không gian 2 1 1 4. Không gian và các yếu tố mỹ 2 0 1 thuật Chương 9: Nghệ thuật 3 chiều 5 1 4 IX. 1. Điêu khắc 2 1 1 2. Thành phần của tác phẩm 3 chiều 3 1 2 Chương 10: Nội dung và phong 5 1 3 cách X. 2 1 1 1 1. Một số mốc lịch sử mỹ thuật 3 1 1 2. Sáng tác nghệ thuật Ôn tập 2 1 1 Tổng cộng 60 20 36 4 5
  7. CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ MỸ THUẬT Giới thiệu Mỹ thuật cũng là thuật ngữ được sử dụng chung cho nghệ thuật tạo hình. Mỹ thuật là những cái đẹp từ nghệ thuật, có thể là do con người hoặc từ tự nhiên tạo nên và có thể nhìn thấy được. Vì thế mà người ta còn gọi môn này là “nghệ thuật thị giác” Mục tiêu Trang bị kiến thức cơ sở về mỹ thuật, lịch sử mỹ thuật và các đối tượng của mỹ thuật Nội dung chính 1. Các yêu cầu mỹ thuật Mỹ thuật được hiểu nôm na là “nghệ thuật của cái đẹp”. Đây là một từ Hán Việt, với “mỹ” nghĩa là đẹp, còn “thuật” nằm trong từ “nghệ thuật”. Hiểu một cách đơn giản, mỹ thuật là những cái đẹp từ nghệ thuật, có thể là do con người hoặc từ tự nhiên tạo nên và có thể nhìn thấy được. Vì thế mà người ta còn gọi môn này là “nghệ thuật thị giác” – hay còn có tên tiếng anh là “visual art”. Theo nghĩa hàn lâm, có rất nhiều cấp độ thưởng thức cái đẹp, phụ thuộc vào sự hiểu biết, khiếu thẩm mỹ cũng như thích của riêng từng người. Chính vì vậy, quan niệm về mỹ thuật cũng chưa nhất quán theo một chuẩn mực nào. Tuy nhiên, một tác phẩm được đánh giá là có phần mĩ thuật biểu hiện tốt thì ít nhiều tác phẩm đó phải có âm vang về tính kinh viện, hàn lâm. 6
  8. Đôi khi ta còn gặp thuật ngữ “mỹ thuật” trên sân khấu và trong cuộc sống hằng ngày. Hiểu theo nghĩa rộng, từ “mỹ thuật” còn được sử dụng để phân biệt những ngành lớn của hội họa: mỹ thuật ứng dụng, mỹ thuật công nghiệp, mỹ thuật trang trí…; mỗi ngành có một đặc thù riêng về kỹ thuật thể hiện và giá trị sử dụng. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, những người hoạt động trong ngành thường chỉ thừa nhận khái niệm mỹ thuật theo nghĩa hàn lâm và có sự phân biệt rõ rệt giữa mỹ thuật với thủ công mỹ nghệ và mỹ thuật ứng dụng. Đơn giản hơn, mỹ thuật là những đường nét được con người tự quy ước với nhau theo cảm nhận được sử dụng để biểu lộ thế giới thực tại gián tiếp qua một chất liệu nào đó theo một cách riêng của mỗi người cho là đẹp . 2. Một số loại hình mỹ thuật cơ bản Mỹ thuật cũng là thuật ngữ được sử dụng chung cho nghệ thuật tạo hình. Dưới đây là một số loại hình mỹ thuật cơ bản: 2.1 Hội họa Hội họa được xem là phần quân trọng của mỹ thuật. Đây cũng là loại hình nghệ thuật phổ biến nhất. Hội họa là nghệ thuật tạo hình trên bề mặt hai chiều một cách trực tiếp, hay giải thích nôm na là người vẽ sử dụng màu và bút chì để tô lên một bề mặt láng (giấy, vải,…) để thể hiện những ý tưởng nghệ thuật. Người làm việc này còn được gọi là họa sĩ. Kết quả của hoạt động này là những tác phẩm hội họa được ra đời, hay người ta còn gọi là tranh vẽ. Nói cách khác, hội họa là một hình thức để thể hiện ý tưởng của người nghệ sĩ bằng các tác phẩm hội họa sử dụng kỹ thuật (nghệ) và phương pháp (thuật) của họa sỹ. 2.2 Điêu khắc Điêu khắc được hiểu là nghệ thuật tạo hình trong không gian ba chiều (tượng tròn) hoặc hai chiều (chạm khắc, chạm nổi). Vật liệu sử dụng trong điêu khắc thường là đá, đất sét, gỗ…. Yếu tố quan trọng nhất trong điêu khắc là phải làm sao để “Lột tả được hình dáng chung nhất và giữ được cái hồn của tác phẩm”. 2.3 Đồ Họa Đồ họa là hình thức nghệ thuật tạo hình trên bề mặt hai chiều một cách gián tiếp thông qua kỹ thuật in ấn. Chính vì thế, tác phẩm đồ họa thường có nhiều bản sao. Đồ họa thường được sử dụng cho những mục đích về truyền thông, quảng cáo, kinh doanh,… Do đó, đây là ngành đang nổi và thu hút được nhiều bạn trẻ tham gia học hỏi. Không chỉ có óc sáng tạo và tính thẩm mỹ, ngành thiết kế đồ họa đòi hỏi người làm cần sử dụng được những công cụ, thiết bị hiện đại và những phần mềm chuyên 7
  9. dụng. Có rất nhiều loại đồ họa khác nhau như: đồ họa độc lập, đồ họa in ấn, đồ họa máy tính,… Bên cạnh những loại hình chính trên, mỹ thuật còn bao gồm một số loại hình khác như:  Nghệ thuật Sắp đặt  Nghệ thuật Trình diễn  Nghệ thuật Hình thể  Nghệ thuật Đại chúng 8
  10. CHƯƠNG 2: HÌNH Giới thiệu Nghệ thuật tạo hình là tên gọi chung của nhiều loại hình nghệ thuật như hội họa, điêu khắc, đồ họa, kiến trúc, trang trí. Hội họa là nghệ thuật dùng màu sắc, hình mảng, đường nét để diễn đạt cảm xúc của người vẽ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, con người, xã hội. Mục tiêu Trang bị kiến thức cơ sở về hình trong các tác phẩm mỹ thuật Nội dung chính 1. Hình và thể hiện hình Nghệ thuật tạo hình là tên gọi chung của nhiều loại hình nghệ thuật như hội họa, điêu khắc, đồ họa, kiến trúc, trang trí. Hội họa là nghệ thuật dùng màu sắc, hình mảng, đường nét để diễn đạt cảm xúc của người vẽ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, con người, xã hội. Nói một cách khác hội họa là một loại hình nghệ thuật tạo hình sử dụng đường nét, hình mảng, màu sắc sắp xếp trên một mặt phẳng không gian hai chiều để xây dựng hình tượng nghệ thuật, biểu hiện hiện thực cuộc sống phong phú và đa dạng. Như vậy, ta thấy rằng hội họa là một loại hình nghệ thuật tạo hình đặc trưng bởi sự biểu hiện không gian trên mặt phẳng bằng các yếu tố nghệ thuật tạo hình. Không gian trong một bức tranh có thể là không gian thực được biểu hiện bằng quy luật của mắt nhìn xa và gần, hay còn gọi là luật xa gần. Do đặc điểm của mắt nhìn do đó hình ảnh trong không gian ba chiều có những sự thay đổi, ví dụ như trong thực tế thì hai đường thẳng song song không bao giờ gặp nhau tại một điểm. Nhưng theo mắt nhìn thì tất cả các đường thẳng song song lại có độ hụt và sẽ tụ vào một điểm trên đường chân trời. Với sự nghiên cứu về các quy luật diễn tả xa gần bằng đường nét, tương quan màu sắc, đậm nhạt các họa sĩ Phục Hưng đã thành công trong việc diễn tả chiều sâu của không gian. Ngoài ra trong hội họa các họa sĩ còn có thể dùng các thủ pháp ước lệ để gợi cảm xa gần, gợi không gian mà vẫn thuận mắt và tạo cảm xúc thẩm mỹ. Cách tạo không gian ước lệ được thấy rõ trong Hội họa Ai C ập và một số nền nghệ thuật khác. Trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam, nhiều họa sĩ đã sử dụng không gian ước lệ để biểu đạt hiện thực có hiệu quả. Tranh “Tre” của họa sĩ Trần Đình Thọ là một ví dụ. Trên nền tranh với màu đỏ lộng lẫy, bằng cách sắp xếp các hình tượng khóm tre, bóng nước vạt đất… tác giả gợi cho người xem cảm nhận về chiều sâu không gian trời và nước khác nhau. 9
  11. Qua một số tác phẩm hội họa như trên đã phân tích ta thấy một trong những đặc trưng của ngôn ngữ hội họa đó là tính không gian. Bởi vậy theo giáo sư Phạm Công Thành: nghệ thuật tạo hình còn được gọi là nghệ thuật không gian. Những hình tượng được xây dựng trong tranh bằng các yếu tố ngôn ngữ tạo hình đưa lại cho người xem những hình ảnh cụ thể chân thực của thực tế khách quan. Hội họa là một nghệ thuật tạo hình trực tiếp với hai đặc trưng là tính không gian và tính tạo hình trực tiếp bằng các yếu tố đường nét, hình khối, màu sắc. Đây cũng là đặc trưng nghệ thuật của tạo hình nói chung. 2. Các nguyên tắc tổ chức hình - Đường nét (Line): Theo từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ thông thì đường nét (line) là đường hiện lên ở trong tranh rõ ràng, đứt đoạn hoặc liên tục dùng để phác hình, viền hình, xác định hình. Theo từ điển tiếng Anh thì line là vệt hẹp, dài, thẳng, hoặc cong trên mặt phẳng đường – vạch – đường nét trong nghệ thuật – biên giới…). Nếu tách rời đường và nét ta thấy đây là hai khái niệm khác nhau. Ta vẫn thường quan niệm đường là lối đi được tạo lập, khoảng không gian phải đi qua, là cách thức, biện pháp (đường lối), là phương tiện, mặt của vấn đề (đường công danh, đường tình yêu). Trong hội họa cũng sẽ gặp các khái niệm đường chân trời, đường diềm, đường trục, đường uốn lượn, đường viền… Như vậy ta thấy các thuật ngữ “đường” trong mỹ thuật gắn với phương hướng, sự vận động của các mảng hình, màu sắc, đậm nhạt. Trong hình học, nét là quỹ đạo của một điểm trong không gian. Về cơ bản có hai loại nét đó là nét thẳng và nét cong. Nét thẳng cho thấy sự chuyển động của điểm theo một hướng nhất định. Ví dụ như quỹ đạo của điểm chuyển động theo chiều thẳng đứng, tạo ra nét thẳng đứng. Cũng như thể nếu điểm chuyển động theo chiều nằm ngang hoặc chéo tạo ra nét thẳng ngang, hoặc nét thẳng chéo. Mặt khác quỹ đạo vận động của một điểm nếu đổi hướng sẽ tạo ra nét cong, gãy, zích zắc, uốn lượn… Đường nét có thể tồn tại một cách cụ thể trên tranh mà cũng có thể chỉ được cảm nhận thông qua sự vận động, nhịp điệu của mảng màu, hình hoặc ranh giới của các mảng màu… 10
  12. Bầu trời đầy sao – Tranh sơn dầu – Van Gogh Với sự sắp xếp của các nét đậm nhạt… còn có thể gợi khối của các nhân vật, hình tượng trong tranh. Sự thay đổi nét trước, sau cũng góp phần tạo dựng lên không gian cho một hình tượng, một tác phẩm. Ghé thăm nhà – Lụa – Nguyễn Trọng Kiệm Mọi sự vật, hình tượng nhân vật đều tồn tại nhờ có hình, khối và màu sắc. Dưới sự tác động của ánh sáng, mắt ta cảm nhận và nhìn thấy các sự vật, con 11
  13. người, thú, chim muông… ở những hình dạng những màu sắc vốn có. Muốn thể hiện thiên nhiên, vạn vật vào trong tranh người họa sĩ phải sử dụng tất cả các yếu tố tạo hình như đường nét, màu sắc, hình khối… Trong đó đường nét có vai trò quan trọng. Ở mỗi tác giả, trong mỗi tác phẩm cụ thể, yếu tố đường nét lại được sử dụng khác nhau để tạo nên những hiệu quả biểu cảm thẩm mỹ phù hợp với nội dung, chủ đề của tác phẩm. Nếu sử dụng nhiều đường thẳng dễ gây cảm giác nghiêm trang, mực thước…. Nếu tất cả đều là đường nét cong mềm mại thì lại dễ sa vào yếu ớt… Vì vậy khi xây dựng tác phẩm các họa sĩ luôn cân nhắc sự hài hòa của các yếu tố tương phản của đường nét như mềm – cứng, gai góc – mượt mà… Tác phẩm “Cô gái trên quả cầu” của Picasso là một minh chứng. Hình tượng nhân vật đàn ông trong tranh được tác giả dựng lên bằng những đường nét thẳng, khỏe, dứt khoát thì hình tượng Cô gái trên quả cầu được tạo dựng bằng những đường cong dài mảnh. Sự khác biệt đó đã tạo được sự tương phản giữa sự khỏe khoắn, chắc chắn, vững chãi với sự mềm mại, thanh mảnh Cô gái trên quả cầu – Tranh sơn dầu - Picasso - Hình khối: Hình là tổng thể các đường nét để cho ta thấy được đặc điểm của một vật này so với vật khác. Ví như chiếc khăn hình chữ nhật, mảnh trăng hình 12
  14. lưỡi liềm, hồ hình bản nguyệt. Điều kiện để thấy những hình bao gồm: vật thể, ánh sáng và con mắt của chúng ta. Như vậy hình là hiệu quả thụ cảm của thụi giác đối với vật thể trong không gian do tác động của ánh sáng. Người họa sĩ sử dụng các yếu tố đường, nét, mảng để tạo nên các hình ảnh con người, đồ vật trong thiên nhiên… trên mặt phẳng tranh. Mỗi vật thể tồn tại có hình dáng nhất định và chiếm một chỗ, một khoảng nào đó trong không gian. Điều này cũng bộc lộ hai đặc điểm nhận dạng hình và khối của vật thể. Khi có ánh sáng chiếu vào, các diện của vật thể sẽ tiếp nhận ánh sáng khác nhau, diện nào nhận được nhiều ánh sáng sẽ sáng nhất. Cứ như thế sẽ tồn tại diện trung gian, diện tối. Tối, sáng, trung gian và các độ khác nhau tùy thuộc vào sự tiếp nhận nhiều hay ít ánh sáng chiếu vào vật thể. Khi diễn tả các độ, diện sáng tối đó, người họa sĩ đã tạo nên hình khối trên mặt phẳng cho các hình tượng trong tranh. Sự thay đổi, biến dạng của hình, khối sẽ tạo nên hiệu quả vận động cho các hình tượng. Xem xét trong thực tế ta thấy có những khối cơ bản như khối lập phương, khối chữ nhật, khối cầu và khối tam giác đều. Khối lập phương là khối gây cảm giác bền vững, ổn định và tĩnh vì nó được tạo bởi các hình vuông góc đều đặn. Khối chữ nhật là biến dạng của khối lập phương, các góc vẫn là vuông, nhưng các mặt của khối lại là hình chữ nhật. Khối cầu gợi cảm giác đầy đủ, khép kín, cân bằng và động (dễ lăn). Vì vậy trong nghệ thuật hội họa, sử dụng bố cục hình tròn luôn gợi hiệu quả về sự “no”, đầy, tròn trặn và vận động. Khối tam giác đều cho cảm giác vững vàng hơn cả khối lập phương và khối chữ nhật. Các khối kể trên được tạo lập bởi hai loại hình cơ bản như khối trụ, khói chóp, khối nón, khối cụt. Vì vậy bên cạnh hình, yếu tố khối cũng là môt trong những yếu tố của các ngôn ngữ tạo hình. Bằng cách diễn tả đậm, nhạt, màu sắc các họa sĩ đã biểu hiện được khối đầy đặn, căng tròn khi diễn tả con người, vạn vật đem lại cho người xem những cảm xúc thẩm mỹ về chất da thịt sống động, trái quả chín mọng, cây cối xanh tươi… tất cả những điều đó thổi hồn, thổi khí cho bức tranh, làm bức tranh sống động, tràn đầy khí lực. Như vậy, bên cạnh các yếu tố đường nét thì hình, khối cũng góp phần tạo nên chân dụng và sức sống cho bức tranh. Tuy nhiên, khối trong hội họa là khối ảo, được tạo nên bởi các mảng đậm nhạt trung gian… trên mặt phẳng hai chiều. Nó chính là một yếu tố của ngôn ngữ tạo hình nói chung và của nghệ thuật hội họa nói riêng. - Màu sắc: Khi ta quan sát trong tự nhiên, con mắt không những nhận biết được các hình, khối, đường nét mà còn nhận biết được màu sắc của các sự vật, hiện tượng. Sở dĩ như vậy là do đặc điểm, cấu tạo của con mắt. Hàng trăm triệu tế bào trong mắt giúp chúng ta cảm nhận được ánh sáng. Không những thể các tế bào còn 13
  15. phân biệt được các màu cơ bản như: màu lục, màu lam và màu đỏ. Ngoài ra mắt ta còn nhận biết màu trắng, màu đen. Mặc dù vậy trên dải màu cầu vồng ta còn thấy xuất hiện nhiều màu như vàng, da cam, lam, chàm, tím, phân tích những màu này ta thấy do hai màu pha trộn tạo nên như màu da cam (vàng + đỏ), màu tím (đỏ + lam), màu lục (vàng + lam). Ba màu đỏ, vàng, lam được coi là ba màu cơ bản hay còn được gọi là ba màu gốc. Và cứ như vậy hai màu bất kỳ trộn với nhau sẽ tạo màu thứ ba. Sự thay đổi, biến hóa của màu sắc là vô tận. Theo nghiên cứu vật lý con mắt của chúng ta nhận biết được 10 triệu màu riêng biệt. Với những nghiên cứu khoa học về màu sắc trong tự nhiên, các họa sĩ đã khai thác và đưa vào trong tranh những bảng màu vô cùng phong phú. Bên cạnh tính chất vật lý, màu sắc còn có tính chất tâm lý và mang ý nghĩa xã hội. Trong quá trình sống sử dụng màu sắc, con người ở từng vùng, miền, quốc gia, dân tộc khác nhau, thường “gán” cho màu sắc các ý nghĩa khác nhau. Ví dụ màu đỏ hay được dùng trong đám tang của nhiều dân tộc trên thế giới với quan niệm màu đỏ đồng nghĩa với sự tái sinh, tái hiện cuộc sống nhưng với người Trung Quốc, màu đỏ lại là màu được dùng tuyệt đối trong đám cưới. Thiếu nữ bên hoa huệ - Tranh sơn dầu – Tô Ngọc Vân Trong vòng tròn, các màu vẽ phía đỏ gây cảm giác nóng và ngược lại. Như thể là trong lý thuyết về màu sắc có thêm khái niệm màu nóng và màu lạnh. 14
  16. Trong thực tế các màu nóng, lạnh còn tạo hiệu quả xa gần rất rõ. Màu đậm, nóng gợi cảm giác gần lại. Các màu lạnh, nhạt gợi cảm giác xa ra. Do đó trong hội họa muốn biểu hiện không gian xa gần cần lưu ý tương quan nóng, lạnh, tương quan đậm, nhạt của màu sắc. Trong nghệ thuật tôn giáo các họa sĩ hay dùng màu đỏ để tạo sự chú ý về thị giác: Chúa, Đức mẹ hay mặc áo đỏ trong hầu hết các tranh thờ. Về điểm này họa sĩ Tô Ngọc Vân đã rất thành công khi vẽ tranh “Thiếu nữ bên hoa huệ” trên gam màu trắng xanh, ghi lạnh, ông đưa vào mấy mảng màu đỏ trên môi, màu hồng trên má cô thiếu nữ, dù chỉ là mảng mù đỏ song cũng đủ làm bức tranh đạt sự hài hòa, ấm áp, gần gũi. Ngoài ra khi dùng màu sắc trong tranh cần chú ý tới sắc và độ của màu. Độ là sự thay đổi đậm nhạt của một hay nhiều màu: độ đậm, độ trung gian, độ sáng… Như vậy độ chỉ đậm nhạt của màu, còn sắc là sắc thí của màu như sắc xanh, sắc đỏ, sắc vàng… Nếu lấy màu trắng cộng với một màu nào đó thì tùy theo lượng màu trắng nhiều hay ít sẽ tạo ra các độ đậm nhạt của màu đó. Nhưng nếu đem các màu đỏ cộng với các màu khác sẽ cho chúng ta những sắc thái của màu: ví dụ như màu tím đỏ, tím sẫm, tím hoa sim, tím hồng, tím huế… Sắc và độ là hai yếu tố của màu trong tác phẩm hội họa. Trong một bức tranh nếu dùng màu sắc có độ gần nhau sẽ gợi cảm giác hài hòa, êm ả. Tuy vậy hài hòa cùng gam màu dễ gây cảm giác buồn lạnh lẽo, cô đơn. Những bức tranh trong thời kỳ màu lam của Picasso cho ta thấy rõ điều này. Toàn bộ tranh được họa sĩ sử dụng gam màu lam, vàng nhợt nhạt đã tạo nên các hình tượng những con người yếu ớt, bệnh tật, buồn bã, cô độc, khốn khó, bế tắc. Nhưng sang thời kỳ màu hồng tranh ông bớt màu lam, thêm vào đó là những màu hồng, vàng, nhẹ nhàng, ấm áp. Các tác phẩm thời kỳ này đã tạo nên sự hy vọng, lạc quan hơn. Hiệu quả này chính do màu sắc tạo nên. Thậm chí trong nhiều tác phẩm các họa sĩ còn dùng những tương phản màu mạnh như: đỏ - lục; vàng – tím; lam – da cam.. Các cặp màu này bổ túc cho nhau, màu này làm màu kia nổi bật hơn. Khi đặt màu vàng cạnh màu tím ta cảm giác dường như màu vàng sáng hơn, màu tím sẫm hơn, sâu hơn. 15
  17. Ông già mù chơi đàn - Tranh sơn dầu – Picasso Màu sắc tạo nên sự hài hòa, đẹp mắt cho bức tranh. Màu sắc còn gây hiệu quả về tương quan xa, gần, mạnh yếu, nặng nhẹ, nóng lạnh. Khả năng biểu đạt của màu sắc rất phong phú và đa dạng, có thể nói là vô tận. Điều này còn tùy thuộc vào khả năng cảm nhận tinh tế của mỗi cá thể. Song mỗi tác phẩm lại có một gam màu khác nhau, không tác phẩm nào trùng lặp. Màu sắc trong các tác phẩm tạo ra còn tùy thuộc vào tâm lý thị hiếu và khả năng cảm nhận của từng họa sĩ. Hội họa hiện đại ngày nay bên cạnh các yếu tố đó còn có sự gia nhập của các yếu tố lý trí, khoa học. Nhưng dù truyền thống hay cổ đại thì những hình thức biểu hiện của màu sắc luôn luôn và mãi mãi là điểm thu hút, khám phá của các họa sĩ. 16
  18. Như vậy ta thấy rằng các yếu tố tạo nên một bức tranh gồm có đường nét, hình khối, màu sắc. Trong đó đường nét tạo nên hình; mảng đậm nhạt tạo nên khối. Màu sắc có tiếng nói mạnh mẽ, giúp họa sĩ bộc lộ rõ ý đồ, tư tưởng chủ đề muốn thể hiện. Cùng một bố cục hình khối giống nhau nhưng nếu ta vẽ bằng nhiều gam màu khác nhau sẽ cho ta nhiều hiệu quả thẩm mỹ khác nhau nhưng chỉ có một gam màu phù hợp mới có thể biểu hiện được tư tưởng, chủ đề. Do đó màu sắc cũng giữ một vai trò quan trọng trong hội họa. Nó cùng với các yếu tố đường nét, hình khối tạo nên tiếng nói riêng cho hội họa. Khi sử dụng các yếu tố ngôn ngữ kể trên để tạo dựng tác phẩm, các họa sĩ sẽ phải sắp xếp chúng sao cho có một hình thức phù hợp với nội dung để tác phẩm có một “tiếng nói” mạnh mẽ và rung động lòng người. Vì vậy khi bàn về ngôn ngữ nghệ thuật tạo hình nói chung và ngôn ngữ hội họa nói riêng ta cũng không thể bỏ qua hai yếu tố: bố cục và nhịp điệu. Hai yếu tố này ẩn sau các yếu tố nét – màu – khối – hình. 17
  19. CHƯƠNG 3: ĐƯỜNG Giới thiệu Đường là một hình ảnh được tạo ra từ công cụ điểm là cọ, bút chì, que, bút,… và thường được định nghĩa như một điểm chuyển động. Đường được tạo ra nhờ chuyển động của một công cụ và điểm màu, và thường gợi ra chuyển động trong sơn hoặc vẽ. Mục tiêu Trang bị kiến thức cơ sở về đường, nét và phương pháp xác định đường trong tác phẩm mỹ thuật Nội dung chính 1. Đặc tính của đường Đường là một hình ảnh được tạo ra từ công cụ điểm là cọ, bút chì, que, bút,… và thường được định nghĩa như một điểm chuyển động. Nó có chiều dài và chiều rộng, nhưng chiều rộng thì rất mỏng so với chiều dài. Đường được tạo ra nhờ chuyển động của một công cụ và điểm màu, và thường gợi ra chuyển động trong sơn hoặc vẽ. 1.1 Các thuộc tính của đường - Ngắn (short) – dài (long) - Dầy (thick) – mảnh (thin) - Đậm (bold) – nhạt (delicate) - Thẳng (straight) – cong (curved) - Gấp khúc (zigzag) – uốn lượn (wavy, curly) - Liền lạc (smooth) – đứt khúc (broken, Dotted line) - Nét đều (regular) – nét vuốt (changing) - Có hướng – vô hướng 1.2 Tính chất biểu cảm của đường nét Đường nét mạnh hay nhẹ; mềm hay gắt; nhạt hay đậm đều có thể hiện - Cá tính người vẽ: Là nữ hay nam; trầm tính hay nóng nảy - Cảm xúc hay trạng thái của người vẽ: vui, buồn, nóng giận.. Sự khác biệt của đường nét còn do công cụ tạo ra chúng: Nét chì – Nét mực – Nét cọ – Nét phấn 2. Đường và các thành phần mỹ thuật thể hiện đường 2.1 Đường trong thiết kế thị giác Những bức họa của Tobey đều tạo nên từ đường. Ông thật sự vẽ bằng cọ, sau đó lặp lại các đường để tạo nên những hoa văn phức tạp. Đường của Tobey chính là đối tượng trong tác phẩm và chúng không phải được dùng để tạo đường viền cho hình dạng hoặc vật thể. 18
  20. Nét ngang (horizontal lines) Đường nằm ngang cho cảm giác TĨNH: trạng thái cân bằng, bình yên. Ở trạng thái cân bằng tuyệt đối, 1 giọt nước cũng không lăn. Thể hiện rõ nhất trong tranh phong cảnh là đường chân trời Nét đứng (vertical lines) Đường thẳng đứng cho cảm giác TRỤ hoặc VƯƠN: vững vàng, cứng cáp, có sức mạnh, tỉnh táo, .. như hình ảnh của 1 người lính đứng nghiêm. 19
nguon tai.lieu . vn