Xem mẫu

Chương 3: Giáo dục điện tử (E-Learning) 0 CHƯƠNG 3: GIÁO DỤC ĐIỆN TỬ (E-LEARNING) GIỚI THIỆU Chương này giới thiệu cho sinh viên những kiến thức, khái niệm có liên quan về giáo dục điện tử (dưới đây được gọi tắt theo thuật ngữ tiếng Anh là E-Learning), từ đó giúp cho sinh viên có thể dễ dàng làm quen, tiếp cập sử dụng các công nghệ giáo dục- đào tạo mới, đã và đang được triển khai rộng rãi trên thế giới và tại Việt Nam. Nội dung của chương bao gồm: • Các khái niệm, định nghĩa trong E-Learning, đặc điểm của E-Learning, sự khác biệt giữa phương pháp học tập bằng E-Learning với phương pháp học tập truyền thống. • Cấu trúc, mô hình chức năng của hệ thống E-learning điển hình. • Các phương pháp và qui trình học bằng E-Learning. Để nắm được nội dung của chương này và có thể ứng dụng có hiệu quả vào hoạt động tự học tập và nghiên cứu của mình, sinh viên cần có một số kỹ năng sử dụng máy tính đơn giản và những kiến thức về Internet và dịch vụ như đã đề cập ở chương 1 và 2 của cuốn sách này. 3.1. KHÁI QUÁT CHUNG 3.1.1. Lịch sử phát triển Thuật ngữ E-learning đã trở nên quen thuộc trên thế giới trong một vài thập kỷ gần đây. Cùng với sự phát triển của Tin học và mạng truyền thông, các phương thức giáo dục, đào tạo ngày càng được cải tiến nhằm nâng cao chất lượng, tiết kiệm thời gian và tiền bạc cho người học. Ngay từ khi mới ra đời, E-Learning đã xâm nhập vào hầu hết các hoạt động huấn luyện đào tạo của các nước trên thế giới. Tập đoàn dữ liệu quốc tế (IDG) nhận định rằng sẽ có một sự phát triển bùng nổ trong lĩnh vực E-Learning. Và điều đó đã được chứng minh qua sự thành công của các hệ thống thống giáo dục hiện đại có sử dụng phương pháp E-Learning nhiều quốc gia như Mỹ, Anh, Nhật,… Gắn với sự phát triển của công nghệ thông tin và phương pháp giáo dục đào tạo, quá trình phát triển của E-Learning có thể chia ra thành 4 thời kỳ như sau [1]: - Trước năm: 1983: Thời kỳ này, máy tính chưa được sử dụng rộng rãi, phương pháp giáo dục “Lấy giảng viên làm trung tâm” là phương pháp phổ biến nhất trong các trường học. Học viên chỉ có thể trao đổi tập trung quanh giảng viên và các bạn học. Đặc điểm của loại hình này là giá thành đào tạo rẻ. 1 http://www.knowledgenet.com/corporateinformation/ourhistory/history.jsp 122 Chương 3: Giáo dục điện tử (E-Learning) - Giai đoạn: 1984 - 1993: Sự ra đời của hệ điều hành Windows 3.1, Máy tính Macintosh, phần mềm trình diễn powerpoint, cùng các công cụ đa phương tiện khác đã mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên đa phương tiện. Những công cụ này cho phép tạo ra các bài giảng có tích hợp hình ảnh và âm thanh dựa trên công nghệ CBT (Computer Based Training). Bài học được phân phối đến người học qua đĩa CD-ROM hoặc đĩa mềm. Vào bất kỳ thời gian nào, ở đâu, người học cũng có thể mua và tự học. Tuy nhiên sự hướng dẫn của giảng viên là rất hạn chế. - Giai đoạn: 1994 - 1999 Khi công nghệ Web được phát minh ra, các nhà cung cấp dịch vụ đào tạo bắt đầu nghiên cứu cách thức cải tiến phương pháp giáo dục bằng công nghệ này. Các chương trình: E-mail, Web, Trình duyệt, Media player, kỹ thuật truyền Audio/video tốc độ thấp cùng với ngôn ngữ hỗ trợ Web như HTML và JAVA bắt đầu trở lên phổ dụng đã làm thay đổi bộ mặt của đào tạo bằng đa phương tiện. Người thầy thông thái đã dần lộ rõ thông qua các phương tiện: E-mail, CBT, qua Intranet với text và hình ảnh đơn giản, đào tạo bằng công nghệ WEB với hình ảnh chuyển động tốc độ thấp đã được triển khai trên diện rộng. - Giai đoạn: 2000 - 2005 Các công nghệ tiên tiến bao gồm JAVA và các ứng dụng mạng IP, công nghệ truy nhập mạng và băng thông Internet được nâng cao, các công nghệ thiết kế Web tiên tiến đã trở thành một cuộc cách mạng trong giáo dục đào tạo. Ngày nay thông qua Web, giáo viên có thể kết hợp hướng dẫn trực tuyến (hình ảnh, âm thanh, các công cụ trình diễn) tới mọi người học, nâng cao hơn chất lượng dịch vụ đào tạo. Càng ngày công nghệ Web càng chứng tỏ có khả năng mang lại hiệu quả cao trong giáo dục đào tạo, cho phép đa dạng hoá các môi trường học tập. Tất cả những điều đó tạo ra một cuộc cách mạng trong đào tạo với giá thành rẻ, chất lượng cao và hiệu quả. Đó chính là làn sóng thứ 2 của E-learning, và hiện nay chúng ta đang ở trong giai đoạn của làn sóng này. Cùng với xu hướng chung của thế giới, ở Việt Nam, E-Learning cũng đã được một số cơ quan và tổ chức đào tạo truyền bá và triển khai ứng dụng. Trên mạng Internet có hàng trăm trang Web cung cấp dịch vụ đào tạo theo mô hình E-Learning, điển hình là dịch vụ luyện thi trực tuyến trên mạng của công ty phát triển phần mềm VASC với trang Web http://www.truongthi.com, Trung tâm đào tạo kỹ thuật viên mạng CISCO qua trang Web http://www.cisco.com,… Bộ khoa học và công nghệ cũng đã thành lập trung tâm VITEC chuyên sát hạch CNTT và hỗ trợ đào tạo. Một số trường đại trong nước cũng đã và đang áp dụng từng phần hình thức E-Learning. Trường đại học Mở Hà Nội là trường đi đầu trong việc tổ chức đào tạo đại học từ xa, các trường đại học lớn trong cả nước cũng đã bắt đầu xây dựng các bài giảng điện tử đưa lên trang Web của trường mình, … 3.1.2. E-Learning là gì? - E-Learning (Electronic Learning) Thật khó có thể định nghĩa một cách chính xác thuật ngữ E-Learning, xong ta có thể điểm qua một số cách giải thích khác nhau về E-Learning: • E-Learning nghĩa là việc học sử dụng Internet. 123 Chương 3: Giáo dục điện tử (E-Learning) • E-Learning nghĩa là sử dụng công nghệ mạng để thiết kế, phân phối, chọn lựa, quản lý và mở rộng việc Học. • E-learning là tổ hợp của công nghệ Internet và Web nhằm tạo ra, cho phép, phân phối, và/hoặc cung cấp các phương tiện phục vụ học tập. • E-Learning là Học bằng Internet. E-learning có thể bao gồm việc phân phối nội dung ở các dạng thức khác nhau; quản lý học tập; và một mạng của người học, người phát triển nội dung và các chuyên gia. • E-learning cung cấp cho người học tốc độ tiếp cận tri thức nhanh hơn với giá thành rẻ hơn, công bằng với mọi người học.[2] Việc triển khai áp dụng mô hình đào tạo E-learning khá đa dạng, đơn giản nhất là hình thức cung cấp các bài giảng điện tử trên đĩa CD cho học viên tự học, phức tạp hơn là những lớp học được tổ chức trên mạng Internet với sự quản lý một cách có hệ thống. Nhìn chung, hệ thống E-learning thường bao gồm nhiều thành phần chức năng được tích hợp trên môi trường mạng Internet, mỗi thành phần đều được tách riêng biệt và cung cấp các dịch vụ khác nhau, tuy nhiên tất cả các thành phần đó đều được tập trung trong một hệ thống thống nhất để cung cấp dịch vụ đào tạo cho người sử dụng. Về bản chất thì đó vẫn là quá trình truyền tải kiến thức từ giảng viên đến học viên dưới sự giám sát của hệ thống quản lý, do đó nó cần phải tuân thủ các tiến trình cơ bản trong quá trình đào tạo và triển khai thệ thống. E-learning luôn được hiểu gắn với quá trình Học hơn là với quá trình dạy-học. Lý do đơn giản là theo thời gian người ta đã thay đổi từng bước cách nhìn trong mối quan hệ giữa Dạy và Học: Lấy người Thầy làm trung tâm (Dạy) --> Tạo sự bình đẳng giữa Thày và Trò (Dạy-Học) ---> Lấy học Trò làm trung tâm (Học). Vậy một cách chung nhất, E-Learning hệ thống đào tạo sử dụng các công nghệ Multimedia dựa trên nền tảng của mạng Internet. Người học sẽ học bằng máy tính, thông qua trang Web trong một lớp học ảo. Nội dung bài học sẽ được phân phối tới học viên qua Internet, mạng intranet/extranet (LAN/WAN), băng audio và video, vệ tinh quảng bá, truyền hình tương tác, CD-ROM, và các loại học liệu điện tử khác. [3] Hình 3.1 mô tả một cách tổng quát khái niệm E-learning.Trong mô hình này, hệ thống đào tạo bao gồm 4 thành phần, được chuyển tải tới người học thông qua các phương tiện truyền thông điện tử. 2 theo http://www.learnframe.com/aboutelearning/ 3 theo http://www.learningcircuits.org/glossary.html 124 Chương 3: Giáo dục điện tử (E-Learning) • Nội dung: Các nội dung đào tạo, bài giảng được thể hiện dưới dạng các phương tiện truyền thông điện tử, đa phương tiện. Ví dụ: một file hướng dẫn sử dụng thiết bị viễn thông được tạo lập bằng phần mềm adobe pdf, bài giảng CBT viết bằng phần mềm công cụ Toolbook, Director, Flash,... • Phân phối: Việc phân phối các nội dung đào tạo được thực hiện thông qua các phương tiện điện tử. Ví dụ tài liệu được gửi cho học viên bằng e-mail, học viên học trên website, học qua đĩa CD-ROM multimedia,… • Quản lý: Quá trình quản lý học tập, đào tạo được thực hiện hoàn toàn nhờ phương tiện truyền thông điện tử. Ví dụ như việc đăng ký học qua mạng, bằng bản tin nhắn SMS, việc theo dõi tiến độ học tập (điểm danh), thi kiểm tra đánh giá được thực hiện qua mạng Internet,... • Hợp tác: Sự hợp tác, trao đổi của người học trong quá trình học tập cũng được thông qua phương tiện truyền thông điện tử. Ví dụ như việc trao đổi thảo luận thông qua email, chatting, forum trên mạng,… Ngày nay với sự hội tụ của máy tính và truyền thông, E-learning được hiểu một cách trực tiếp hơn là quá trình học thông qua mạng Internet và công nghệ Web. 125 Chương 3: Giáo dục điện tử (E-Learning) 3.1.3. Đặc điểm của E-Learning E-Learning đang phát triển mạnh mẽ và được coi là phương thức đào tạo cho tương lai. Vậy điều gì khiến cho E-Learning được coi trọng như vậy? Tất nhiên về bản chất, có thể coi E-learning cũng là một hình thức đào tạo từ xa. Vì vậy nó có những đặc điểm khác biệt chung của đào tạo từ xa so với đào tạo truyền thống. Những đặc điểm nổi bật của E-Learning so với đào tạo truyền thống được liệt kê ở dưới đây: • Không bị giới hạn bởi không gian và thời gian: Sự phổ cập rộng rãi của Internet đã dần xoá đi khoảng cách về thời gian và không gian cho E-Learning. Một khoá học E-learning được chuyển tải qua mạng tới máy tính của người học, điều này cho phép các học viên học bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu. • Tính hấp dẫn: Với sự hỗ trợ của công nghệ multimedia, những bài giảng tích hợp text, hình ảnh minh hoạ, âm thanh tăng thêm tính hấp dẫn của bài học. Người học giờ đây không chỉ còn nghe giảng mà còn được xem những ví dụ minh hoạ trực quan, thậm chí còn có thể tiến hành tương tác với bài học nên khả năng nắm bắt kiến thức cũng tăng lên. • Tính linh hoạt : Một khoá học E-learning được phục vụ theo nhu cầu người học, chứ không nhất thiết phải bám theo một thời gian biểu cố định. Vì thế người học có thể tự điều chỉnh quá trình học, lựa chọn cách học phù hợp nhất với hoàn cảnh của mình. • Dễ tiếp cận và Truy nhập ngẫu nhiên: Bảng danh mục bài giảng sẽ cho phép học viên lựa chọn đơn vị tri thức, tài liệu một cách tuỳ ý theo trình độ kiến thức và điều kiện truy nhập mạng của mình. Học viên tự tìm ra các kĩ năng học cho riêng mình với sự giúp đỡ của những tài liệu trực tuyến. • Tính cập nhật: Nội dung khoá học thường xuyên được cập nhật và đổi mới nhằm đáp ứng và phù hợp tốt nhất cho học viên. • Học có sự hợp tác, phối hợp (Collaborative learning): Các học viên có thể dễ dàng trao đổi với nhau qua mạng trong quá trình học, trao đổi giữa các học viên và với giảng viên. Các trao đổi này hỗ trợ tích cực cho quá trình học tập của học viên. Tất nhiên E-learning cũng có một số cách học khác. Ví dụ như, các lớp học thông qua trang Web dùng phần mềm hội thảo video trên mạng, và các phần mềm khác cho phép học viên ở xa tham gia một khoá học trên lớp học truyền thống. Một số khoá học trên trang Web theo yêu cầu có giảng viên (hoặc người hướng dẫn) tương tác thường xuyên với từng học viên hoặc với các nhóm học viên. Có nên chuyển đổi sang E-learning hay không? Phần dưới đây sẽ đưa ra các đánh giá chung nhất cho cả hai phía: phía cơ sở đào tạo hoặc nhà cung cấp dịch vụ đào tạo và phía người học (lưu ý rằng nếu như trong giáo dục đào tạo truyền thống, các thuật ngữ dịch vụ đào tạo rất ít được sử dụng thì trong môi trường E-learning thì thuật ngữ dịch vụ đào tạo lại được biết đến một cách khá phổ biến). Nếu đối với cả phía cơ sở đào tạo và người học, học bằng E-learning có nhiều lợi ích hơn so với bất lợi, thì việc chuyển đổi sang học bằng E-learning có thể là một phương pháp hữu hiệu. 126 ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn