Xem mẫu

  1. XU HƯỚNG TỰ CHỦ CỦA NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG VỚI NGÂN SÁCH TRUNG ƯƠNG TS. Phan Hữu Nghị1 Viện Ngân hàng Tài chính, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Tóm tắt Giai đoạn 2011-2016 cả nước có 13/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có khả năng tự chủ tài chính, năm 2017 con số này tăng l n 16 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Sau năm 2020 c c tỉnh có khả năng tự chủ sẽ tiếp tục nhiều hơn nữa. Nhưng sau nhiều năm thực hiện NSNN thì năm 2016 mặc dù kết quả thu NSNN vượt dự to n nhưng NSTW không hoàn thành kế hoạch. Xét cơ cấu giữa thu thường xuyên với chi thường xuyên có thể thấy tính bền vững NSNN có xu hướng giảm. Vậy nhà nước có tăng thuế trong những năm tới không? Từ khóa: Ngân sách nhà nước, tự chủ tài chính, thu thường xuyên, chi thường xuyên. 1. Đặt vấn đề Ngân sách nhà nước được chia thành nhiều cấp tuỳ thuộc mô hình nhà nước 2 cấp là liên bang và bang hay mô hình nhà nước trung ương và chính quyền địa phương. Tuy nhiên, mô hình nào cũng đều hướng tới tính tự chủ cho mỗi cấp ngân sách. Với NSNN gồm 2 cấp của Việt Nam là ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, việc phân cấp quản lý có ý nghĩa quan trọng cho mỗi cấp trong xây dựng, phát triển nguồn thu, tăng tính tự chủ và độc lập của mỗi cấp, hạn chế sự trông chờ vào ngân sách cấp trên. Phân cấp là quá trình phân chia nguồn thu và nhiệm vụ chi của mỗi cấp, giải quyết mối quan hệ giữa các cấp ngân sách. Với 2 cấp NSNN các nguồn thu được chia làm 3 nhóm: nhóm nguồn thu 100% của trung ương, nhóm nguồn thu 100% của địa phương và nhóm nguồn thu phân chia % giữa trung ương và địa phương. Thực tế cho thấy ngân sách địa phương triển khai thực hiện nhiệm vụ thu cho NSNN nói chung dựa trên dự toán được giao, dù địa phương có nguồn thu 1 Email của tác giả: nghiph.neu@gmail.com 95
  2. nhiều hay ít thì cơ cấu nguồn thu theo phân cấp sẽ không thay đổi. Với nguyên tắc NSTW giữ vai trò chủ đạo, các nguồn thu lớn của NSTW, các nhiệm vụ chi lớn do NSTW đảm nhận và cấp bù cân đối cho NSĐP. Vì vậy phần thu cho NSTW chiếm đa số tổng thu NSNN với các nguồn lớn như toàn bộ thu của cơ quan hải quan, thu từ dầu khí, thuế thu nhập doanh nghiệp của một số doanh nghiệp lớn hạch toán toàn ngành,… Để đảm bảo tính tự chủ của NSĐP các địa phương cần có sự bền vững về cơ cấu thu chi ngân sách gắn với các nguyên tắc trong phân cấp quản lý, trong đó phải đề cập tới nguồn thu được phân cấp có thể bù đắp chi cân đối hay không? Có nhiều công trình đề tài nói về tính bền vững của NSĐP là cơ sở cho việc tự chủ của mỗi địa phương khi phát triển nguồn thu. Vì vậy có thể hiểu: “Tính bền vững NSĐP là khả năng tự cân đối ngân sách của địa phương, không làm tăng gánh nặng nợ của NSĐP và không làm tăng tình trạng thâm hụt NSNN trong dài hạn”. Quan niệm này được mở rộng ra với NSNN nói chung, cùng với một nguyên tắc cơ bản trong chi tiêu NSNN ngoài các nguyên tắc như tập trung, dân chủ, tiết kiệm, hiệu quả, công khai mà chúng ta thường nói trong quản lý tài chính nhà nước thì nguyên tắc là: thu thường xuyên ngân sách nhà nước nói chung phải lớn hơn chi thường xuyên của ngân sách nhà nước để dành một phần thu thường xuyên cho chi đầu tư phát triển. Chính vì vậy nhà nước đi vay nợ chỉ nhằm cho chi đầu tư phát triển chứ không phải chi thường xuyên và đó chính là công cụ trái phiếu Chính phủ hay công trái. Vậy tính khả năng tự chủ của mỗi cấp NSNN của Việt Nam như thế nào và xu hướng sẽ ra sao? 2. Thực trạng Ngân sách Nhà nƣớc những năm qua Một quy luật được nhắc tới trong lĩnh vực tài chính nhà nước là: “quy luật mở rộng nhà nước”. Mở rộng ở đây không phải là lãnh thổ mà tuyệt đại đa số các nước trên thế giới mở rộng về chi tiêu NSNN. Thực tế tốc độ tăng chi tiêu NSNN rất nhanh cả về số tuyệt đối và số tương đối, tốc độ tăng thu và chi NSNN nhanh hơn hẳn tốc độ tăng trưởng nền kinh tế. Từ đó đặt ra một câu hỏi vậy giới hạn tăng thu, chi NSNN ở mức nào là phù hợp. Số liệu NSNN những năm qua cho thấy như sau: 96
  3. DỰ TOÁN CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC NĂM 2013-2017 (Dự to n được Quốc hội thông qua) Đơn vị: Tỷ đồng Dự toán Dự toán Dự toán Dự toán Dự toán STT Chỉ tiêu 2017 2016 2015 2014 2013 TỔNG THU CÂN A ĐỐI NGÂN SÁCH 1.212.180 1.014.500 911.100 782.700 816.000 NHÀ NƢỚC 1 Thu nội địa 990.280 785.000 638.600 539.000 545.500 2 Thu từ dầu thô 38.300 54.500 93.000 85.200 99.000 Thu cân đối từ hoạt 3 180.000 172.000 175.000 154.000 166.500 động xuất nhập khẩu 4 Thu viện trợ 3.600 3.000 4.500 4.500 5.000 TỔNG CHI CÂN B ĐỐI NGÂN SÁCH 1.389.180 1.273.200 1.147.100 1.006.700 978.000 NHÀ NƢỚC Trong đó: - - - 1 Chi đầu tư phát triển 357.150 254.950 195.000 163.000 175.000 Chi trả nợ lãi (từ 2016 2 98.900 155.100 150.000 120.000 105.000 về trước gồm cả gốc) 3 Chi thường xuyên 896.280 823.995 767.000 704.400 658.900 Chi bổ sung quỹ dự trữ 4 100 100 100 100 100 tài chính BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC C 177.000 254.000 226.000 224000 162.000 (2017 không bao gồm trả nợ gốc) Tỷ lệ bội chi so GDP 3,47% 4,95% 5,00% 5,30% 4,8% Nguồn: Vụ NSNN - Bộ Tài chính. Với số liệu dự toán nêu trên ta thấy tốc độ tăng thu và chi NSNN tăng rất nhanh, nhanh hơn hẳn tốc độ tăng trưởng kinh tế đặt ra hàng năm. Nếu truy xuất dữ liệu các năm trước 2013 cho thấy tốc độ tăng thu và chi NSNN luôn ở 97
  4. mức hơn 10% và chi tăng nhanh hơn thu NSNN. Nếu tính bình quân số thu NSNN trên một người dân ta cũng thấy số thu tăng qua các năm. Chính vì vậy, khi nền kinh tế gặp khó khăn như năm 2012 và 2013 đã phản ánh thực trạng bất ổn trong hoàn thành dự toán thu NSNN, mà nếu không tập trung đủ nguồn thu thì dự toán chi NSNN cũng không hoàn thành. Năm 2013, kết thúc 10 tháng cho thấy NSNN có nguy cơ không hoàn thành kế hoạch, vì vậy, kỳ họp Quốc hội cuối năm 2013 đã điều chỉnh toàn phần dự toán NSNN cho phép nới trần nợ công lên 0,5% số thâm hụt NSNN trong năm (đầu năm dự toán thâm hụt 4,8% cuối năm là 5,3%). Điều may mắn là cuối năm dự toán NSNN ước thực hiện hoàn thành vượt 0,1%. Nhưng có bất thường là năm 2014 dự toán NSNN thấp hơn 2013 trong khi tăng trưởng GDP 2014 đặt ra kế hoạch tăng 5,8%. Điều này đã được các nhà kinh tế và học giả đặt ra câu hỏi là: phải chăng số thu NSNN năm 2013 hoàn thành nhờ ứng trước NSNN của năm 2014? Nên dự toán 2014 mới thấp hơn so với 2013? Xét về nguyên nhân thì đây là do điều kiện khách quan bị ảnh hưởng của suy thóai nhưng xét về cơ cấu nguồn thu thường xuyên kết hợp thu nội địa phản ánh sự chưa bền vững trong nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu mặc dù GDP vẫn tăng. Sự phục hồi kinh tế năm 2014 đã đem lại kết quả bất ngờ so với dự toán NSNN đặt ra với số thu vượt dự toán. Tuy nhiên, xét về cơ cấu nguồn thu thường xuyên và chi thường xuyên lại đặt ra nhiều vấn đề cần xem xét. Để thấy rõ hơn những vấn đề này cần phân tích thêm kết quả ước thực hiện NSNN 2015 và 2016 từ đó đánh giá những khó khăn vướng mắc. 98
  5. QUYẾT TOÁN CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC NĂM 2013 -2014 (Kèm theo Quyết định số 1440/QĐ-BTC ngày 23 th ng 7 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Tài chính) Đơn vị: Tỷ đồng STT Chỉ tiêu QT 2013 QT2014 A THU CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC 1.084.064 1.130.609 Thu theo dự toán Quốc hội 828.348 877.697 1 Thu nội địa (không kể thu từ dầu thô) 567.403 593.560 2 Thu từ dầu thô 120.436 100.082 Thu cân đối NSNN từ hoạt động xuất khẩu, 3 129.385 173.005 nhập khẩu 4 Thu viện trợ không hoàn lại 11.124 11.050 Thu từ quỹ dự trữ tài chính 130 60 B CHI CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC 1.277.170 1.339.489 Chi theo dự toán Quốc hội 1.088.153 1.103.983 1 Chi đầu tư phát triển 271.680 248.452 2 Chi trả nợ, viện trợ 112.055 131.940 3 Chi thường xuyên 704.165 723.292 4 Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính 253 299 C CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC 1 Bội chi ngân sách nhà nước 236.229 249.362 2 Tỷ lệ phần trăm (%) bội chi NSNN so với GDP 6,6% 6,33% Nguồn: Vụ NSNN - Bộ Tài chính 99
  6. - Năm 2015 với dự toán thu 911.100 tỷ và chi là 1.147.100 tỷ kết quả ước thực hiện thu trong năm là 996.870 tỷ đồng tăng hơn 9% so với dự toán và chi NSNN là 1.262.870 tỷ đồng tăng hơn 10%. Tuy nhiên, điều đáng nói là NSTW luôn hoàn thành dự toán được giao. - Năm 2016 dự toán thu cân đối NSNN 1.014,5 nghìn tỷ đồng, ước thực hiện cả năm đạt khoảng 1.071 nghìn tỷ đồng, vượt 56,5 nghìn tỷ đồng (+5,6%) so với dự toán (toàn bộ tăng thu thuộc về NSĐP). BÁO CÁO ƢỚC THỰC HIỆN NSNN 2016 Đơn vị: tỷ đồng Ƣớc cả năm Nội dung Dự toán % so dự Số thu toán 1 2 Tổng số 1.014.500 1.071.000 105,6 1. Thu nội địa 785.000 853.500 108,7 - Không kể tiền SD đất 735.000 768.643 104,6 - Thu tiền sử dụng đất 50.000 84.857 169,7 2. Thu từ dầu thô 54.500 40.500 74,3 3. Thu XNK 172.000 172.000 100 - Tổng thu từ XNK 270.000 270.000 100 - Hoàn thuế GTGT -98.000 -98.000 100 4. Thu viện trợ 3.000 5.000 166,7 Nguồn:Vụ NSNN – Bộ Tài chính. Về thu cân đối NSTW, NSĐP: - Thu NSTW: Dự toán thu cân đối NSTW 596,9 nghìn tỷ đồng, báo cáo Quốc hội ước đạt 585 - 589 nghìn tỷ đồng, giảm 8 - 12 nghìn tỷ đồng so dự toán. Thực hiện thu NSTW đến ngày 26/12/2016 mới đạt 523,2 nghìn tỷ đồng, 100
  7. bằng 87,7% dự toán. Để NSTW đạt dự toán, thì trong tuần cuối cùng của năm 2016 cần phải thu thêm 73,2 nghìn tỷ đồng. Sau nhiều năm mới có tình trạng NSTW không hoàn thành dự toán. Thực tế này phản ánh nguồn thu lớn của NSTW chưa thực sự được nuôi dưỡng và phát triển tốt, các nguồn thu này đang có sự tăng trưởng không như mong muốn. Tuy nhiên, theo chế độ quy định thì số dự kiến phải thưởng vượt thu các khoản thu phân chia % và được đầu tư trở lại cho các địa phương khoảng 4,1 nghìn tỷ đồng; trong đó: Hà Nội không được thưởng vượt thu và đầu tư trở lại (do thu không đạt dự toán); TP.Hồ Chí Minh không được thưởng vượt thu, nhưng được đầu tư trở lại khoảng 3,4 nghìn tỷ đồng; thưởng các khoản thu phân chia cho 6 địa phương khác khoảng 700 tỷ đồng. - Thu NSĐP: Dự toán thu cân đối NSĐP 417,6 nghìn tỷ đồng; trong đó thu tiền sử dụng đất 46,7 nghìn tỷ đồng; thu không kể tiền sử dụng đất 370,9 nghìn tỷ đồng. Báo cáo Quốc hội ước đạt khoảng 453,6 nghìn tỷ đồng, vượt khoảng 36 nghìn tỷ đồng (+8,6%) so dự toán, chủ yếu vượt thu tiền sử dụng đất. Thực hiện thu NSĐP đến ngày 26/12/2016 đạt 475,8 nghìn tỷ đồng, bằng 113,9% dự toán. Trong đó, thu tiền sử dụng đất đạt 79,2 nghìn tỷ đồng, bằng 169,6% dự toán; thu nội địa không kể tiền sử dụng đất đạt 395,4 nghìn tỷ đồng, bằng 106,6% dự toán. Có 50/63 địa phương thu nội địa vượt dự toán (không kể thu sử dụng đất thì có 36/63 địa phương vượt dự toán); trong đó 34/63 địa phương vượt dự toán thu NSTW. Như vậy, tổng hợp chung các nguồn thu được phân cấp cho địa phương đã được nuôi dưỡng và phát triển tốt. - Tuy vậy, riêng thu nội địa 13 địa phương có điều tiết với NSTW (kể cả dầu thô) chỉ đạt 97,8% dự toán. Không kể thu sử dụng đất (49,8 nghìn tỷ) và thu dầu thô (37,1 nghìn tỷ), thì hoàn thành đạt 96,6% dự toán. Ước thực hiện cả năm thu NSĐP đạt khoảng 485 - 487 nghìn tỷ đồng, vượt khoảng 68 - 70 nghìn tỷ đồng (+16%) so dự toán. Trong đó, có 5/63 địa phương không đạt dự toán; không kể tiền sử dụng đất thì ước khoảng 17/93 địa phương không hoàn thành dự toán, cần nhấn mạnh rằng số thu từ đất không phải là nguồn thu thường xuyên. 101
  8. Với nguyên tắc thu thường xuyên phải lớn hơn chi thường xuyên để dành một phần cho chi đầu tư phát triển, thì hàng năm dự toán NSNN được lập đúng theo nguyên tắc đặt ra. Căn cứ vào số liệu NSNN công bố quốc tế 3 năm gần nhất theo dự toán chưa được quyết toán như sau: CƠ CẤU CHI THƢỜNG XUYÊN VÀ THU THƢỜNG XUYÊN (Số liệu theo dự to n công bố quốc tế) Đơn vị: tỷ đồng STT Nội dung Năm Năm Năm 2015 2016 2017 1 Thu thường xuyên NSNN 867.195 961.093 1144.631 2 Chi thường xuyên NSNN 862.040 935.600 1004.030 3 Chi dự phòng NSNN 25.000 29.300 25.000 Nguồn: Website Bộ tài chính. Như vậy những năm qua chi thường xuyên gần bằng thu thường xuyên, nếu cộng thêm khoản chi dự phòng hàng năm bắt buộc, thì tổng thu thường xuyên NSNN có những năm nhỏ hơn tổng chi thường xuyên. Điều này đồng nghĩa NSNN sẽ phải đi vay một phần cho chi thường xuyên, còn chi đầu tư phát triển bắt buộc phải vay 100% (cụ thể 2 năm 2015-2016). Nhưng cách phân loại các khoản mục thu thường xuyên của Việt Nam đã nhận được nhiều khuyến cáo cả trong và ngoài nước của các nhà nghiên cứu rằng: Cần xem lại tính chất thường xuyên và không thường xuyên của từng nguồn thu. Nguồn thu từ dầu khí trên dưới 100 nghìn tỷ tuỳ từng năm, nguồn thuế tài nguyên khoảng 30 nghìn tỷ/năm không nên xếp vào nguồn thu thường xuyên. Cần dành nguồn này cho chi đầu tư phát triển để tạo nguồn thu mới cho tương lai, vì đây là nguồn thu không tái tạo, không có tính thường xuyên như thuế GTGT hay cho thuê đất và cơ sở hạ tầng,… Nếu tách những nguồn thu này ra khỏi nhóm thu thường xuyên, rõ ràng NSNN cần xem lại tính bền vững như khái niệm đưa ra ở trên, đồng thời nguyên tắc thu thường xuyên lớn hơn chi thường xuyên không còn được tuân thủ. 102
  9. Với dự toán NSNN 2016 hoàn thành kế hoạch trong khi đó NSTW không hoàn thành, còn NSĐP vượt mức, điều này buộc Chính phủ tập trung nhiều hơn vào nguồn thu NSTW những năm tới trong đó phải kế tới nguồn thu cân đối xuất khẩu gắn với ràng buộc là quỹ hoàn thuế GTGT 2 năm qua bị vỡ, chỉ sau khoảng 10 tháng đã hết quỹ. Kết hợp với hệ thống các doanh nghiệp lớn đóng góp cho NSTW không thực sự tốt, từ đó xu hướng chung cũng là xu hướng tất yếu rằng các địa phương có đóng góp cho NSTW sẽ phải chia sẻ ngày càng nhiều hơn. Cụ thể năm 2017 đã có thêm 3 tỉnh đóng góp cho NSTW và tỷ lệ điều tiết nguồn thu phân chia % của NSĐP được hưởng đã giảm xuống, nhất là các tỉnh có đóng góp lớn như Thành phố Hồ Chí Minh giảm từ 23% xuống 18%, Hà Nội giảm từ 42% xuống còn 37% và dự toán thu của hai thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh dự kiến đem lại khoảng 550.000 tỷ cho NSNN năm 2017. Theo tính toán từ nghiên cứu số liệu NSNN qua các năm, cùng với khó khăn trong tìm kiếm nguồn thu mới cho NSNN trước sức ép tăng chi tiêu, không loại trừ một giải pháp ngắn hạn được đưa ra là tăng thuế gián thu trong thời gian tới (như GTGT, TTĐB và thuế môi trường), vì những loại thuế đang đóng góp chủ yếu nguồn thu cho NSNN hiện nay chiếm hơn 50% nguồn thu NSNN từ các loại thuế gián thu. Trong khi đó thuế trực thu và thuế xuất nhập khẩu sẽ khó thu và khó có khả năng tăng thuế trước xu hướng chung là cạnh trạnh thuế giữa các nước và hội nhập về kinh tế. Ví dụ, mức thuế suất thuế GTGT phổ thông có thể sẽ không còn là 10% nữa. Để hướng tới năm 2020 có nhiều hơn 16 tỉnh tự chủ tài chính có đóng góp cho NSTW, ngay bây giờ chúng ta cần xem xét cơ cấu thu được phân cấp và chi cân đối NSNN của các tỉnh. Với số liệu công bố của Bộ Tài chính năm 2017 có 6 tỉnh NSTW phải cấp bổ sung từ 1000 đến dưới 2000 tỷ nhằm cân đối ngân sách và có 7 tỉnh phải cấp bổ sung cân đối từ 2000 đến dưới 3000 tỷ đồng. Như vậy, số tỉnh còn nhận trợ cấp trên 3000 tỷ từ NSTW là rất lớn chiếm tới hơn 50% số tỉnh thành cả nước. Vì vậy tự chủ NSĐP với các tỉnh này là khó khăn hơn. Nhưng nhóm các tỉnh có số thiếu hụt cần cân đối dưới 2000 tỷ rất có triển vọng đóng góp cho NSTW sau 4 năm nữa. 103
  10. 3. Khuyến nghị - Để hướng tới mở rộng khả năng tự chủ của NSĐP với NSTW luật và những quy định mới trong khuôn khổ chi tiêu trung hạn cần phân cấp rộng hơn nữa các nguồn thu về NSĐP, nhất là các đơn vị hạch toán toàn ngành. - Mặc dù luật NSNN 2015 đã mở rộng và có sự phân loại và cho phép từng nhóm NSĐP được quyền vay nợ so với luật NSNN 2002, nhưng thực tế vay nợ NSĐP nếu thực sự khả thi và hiệu quả xét về khả năng vay và trả nợ chỉ có Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh trong khi các tỉnh thành khác cần có cơ chế hỗ trợ từ trung ương nhiều hơn trong vấn đề này. Từ trước 2016 vay nợ trong cân đối ngân sách gần như tuyệt đối thuộc về NSTW. - Cần ban hành sớm một số loại thuế dành cho NSĐP được hưởng 100% tạo sự công bằng xã hội và phù hợp xu hướng quốc tế: Như thuế tài sản, thuế trường học (đây là loại thuế đánh vào sở hữu đất gần giống như thuế sử dụng đất phi nông nghiệp nhưng NSĐP được hưởng nhằm phát triển dịch vụ công của địa phương cấp Huyện, Xã và phát triển các trường học công lập). - Sớm đẩy nhanh Chính phủ điện tử, nhất là trong quản lý thu thuế. Hiện tại tỷ lệ thất thu thuế của Việt Nam được các tổ chức quốc tế (như IMF) đánh giá quá cao so với khu vực. Nguyên nhân do không quản lý được dòng tiền và điểm đến của các dòng tiền này. Công nghệ thông tin ngành thuế còn lạc hậu không theo kịp công nghệ thông tin lĩnh vực ngân hàng và viễn thông. Hệ thống dữ liệu bán hàng cuối ngày của đối tượng thuế không được tin học hóa chuyển về máy chủ cơ quan thuế tại các cấp quản lý,… Trong khi hệ thống Tabmis mới chỉ giúp quản lý một phần cơ bản về chi NSNN. - Cần rà soát và đánh giá định kỳ công tác quản lý chi (từ phân bổ đến giải ngân và thanh kiểm tra, kiểm soát chi) nhằm phân bổ hiệu quả nguồn lực hạn chế áp lực tăng chi NSNN từ đó tác động đến tăng thu NSNN. Hiện tại tiêu chí đánh giá, phân bổ, kiểm soát chi theo đầu ra chưa rõ ràng, chưa định lượng tốt làm cơ sở khoa học quản lý ngân sách, kết hợp với khả năng dự báo nếu không tốt sẽ khó thực hiện hiệu quả chi tiêu trung hạn. 104
  11. - Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, khuyến khích khởi nghiệp, phát triển doanh nghiệp, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh: Tiếp tục tổ chức thực hiện Nghị quyết số 30c/NQ-CP của Chính phủ về chương trình cải cách tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020; xây dựng và triển khai các chương trình, kế hoạch nhiệm vụ năm 2017 về cải cách hành chính, kiểm soát thủ tục hành chính. Tập trung triển khai các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra theo Nghị quyết số 19/2016/NQ-CP, Nghị quyết số 35/NQ-CP và Nghị quyết số 36a/NQ-CP của Chính phủ, góp phần thu hẹp khoảng cách năng lực cạnh tranh quốc gia với các nước ASEAN-4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để những cải cách thủ tục hành chính đi vào thực tế, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, người nộp thuế. Kết hợp với đó là cơ chế quản lý vốn thật hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước và khai thác hệ thống cơ sở hạ tầng, tài sản công đang có giá trị bằng khoảng 2 lần GDP của nước ta. Nếu khai thác tốt nguồn tài sản công này sẽ là nguồn thu thường xuyên và lâu dài của NSNN. Tóm lại: với thực tế NSNN trong 5 năm qua cần có những thay đổi cơ bản trong điều hành NSNN hướng tới một sự cân đối bền vững cho cả NSTW và NSĐP đồng thời thúc đẩy cho nền kinh tế phát triển mạnh. Đó chính là nuôi dưỡng, phát triển nguồn thu kết hợp với tăng cường quản lý và hệ thống cơ chế chính sách đồng bộ, từ đó tạo tính chủ động, khuyến khích cho các cấp NSNN tiến tới tự chủ và đóng góp nhiều hơn cho Ngân sách Trung ương. Tài liệu tham khảo 1. Tổng cục Thuế: Báo cáo tổng kết công tác các năm từ 2010 đến 2016. 2. Bộ Tài chính: Báo cáo tình hình thực hiện NSNN các năm 2013- 2014-2015 và 2016. 3. Luật NSNN 2015. 4. Các Nghị quyết của Chính phủ : NQ 30/2016/NQ-CP; 19/2016/NQ-CP,… 105
  12. 5. Bài giảng NSNN – Tài liệu giảng dạy của Bộ môn Tài chính công – Viện NHTC - 2014. 6. Thanh tra Chính phủ (2015), "Kết luận Thanh tra về thu nộp ngân sách tại khu chế xuất và DN chế xuất trên địa bàn thành phố Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương và Đồng Nai". 7. Website Bộ Tài chính http://www.mof.gov.vn. 8. Website Tổng cục Thuế http://www.gdt.gov.vn. 106
nguon tai.lieu . vn