Xem mẫu

  1. …………..o0o………….. XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
  2. 1. Xây dựng Quân đội nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh 2. Chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về tổ chức hợp lý chính quyền địa phương ở nước ta. 3. Vĩnh Phúc chủ động khắc phục khó khăn, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội. 4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước kiểu mới. 5. “Trung với nước, hiếu với dân” – Một sáng tạo độc đáo của tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng quân đội. 6. Tăng cường cơ chế tự chủ đối với các đơn vị cung ứng dịch vụ công. 7. Cải cách hành chính tại sở tài nguyên và môi trường tỉnh Vĩnh Phúc. 8. Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức trong điều kiện mới. 9. Xây dựng quy chế quản lý hồ sơ điện tử về cán bộ, công chức. Một số vấn đề về cán bộ và tiêu chuẩn cán bộ, công chức. 10. Nâng cao hiệu quả công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. 11. Cải cách hành chính ở huyện Bình Xuyên – Vĩnh Phúc. 12. Phải biết nghe dân, hiểu dân và có trách nhiệm với dân. 13. Kinh nghiệm cải cách công vụ ở một số nước đang phát triển. 14. Văn phòng Chính phủ họp báo. 15. Hội thảo cơ sở khoa học xây dựng tiêu chuẩn và cơ cấu chức danh cán 16. bộ, công chức hành chính thành phố Hà Nội.
  3. KỶ NIỆM 64 NĂM NGÀY THÀNH LẬP QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM (22/12/1944 – 22/12/2008) VÀ 62 NĂM NGÀY TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN (19/12/1946 – 19/12/2008) XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRUNG TƯỚNG, T.S PHƯƠNG MINH HOÀ Uỷ viên BCH Trung ương Đảng, Chính uỷ Quân chủng Phòng không – Không quân T ư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội nhân dân là tư tưởng chiến tranh nhân dân Việt Nam và quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc được Đ ại h ội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng xác định là một trong những nội dung cơ bản trong hệ thống quan điểm, tư tưởng của Người về cách mạng Việt Nam. Kể từ ngày thành lập đến nay, Quân đội nhân dân Việt Nam đã mang nhi ều tên gọi khác nhau, như: Việt Nam tuyên truy ền gi ải phóng quân (tháng 12/1944); Việt Nam giải phóng quân (tháng 4/1945); Vệ quốc Đoàn (tháng 9/1945); Quân đội Quốc gia Việt Nam (tháng 5/1946); Quân đội nhân dân Việt Nam (tháng 2/1951). Mỗi tên gọi thể hiện nhiệm vụ chính trị của một giai đoạn lịch sử mà quân đội ta đã phấn đấu để thực hiện. Là quân đội chủ lực, trưởng thành từ đội du kích các đ ịa phương lớn mạnh trở thành giải phóng quân; do Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo và chỉ huy thống nhất; là quân đội chính quy của một nhà n ước, c ủa m ột qu ốc gia độc lập có chủ quyền, bảo vệ vững chắc chính quyền, bảo vệ tính m ạng, tài sản và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ nền độc lập th ống nh ất và b ản s ắc văn hoá dân tộc. Đó là quân đội của nhân dân, vì nhân dân mà chi ến đ ấu. M ặc dù mang những tên gọi khác nhau do tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong mỗi th ời kỳ phát triển lịch sử, quân đội ta vẫn là quân đội nhân dân, thực hiện ch ức năng đ ội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân sản xuất. Nguyên tắc xây dựng quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh luôn được giữ vững, bởi vì: Một là, “Quân sự phục tùng chính trị”(1), “quân sự mà không có chính trị nh ư cây không có gốc, vô dụng, lại có hại”(2). Sự lãnh đạo c ủa Đ ảng C ộng s ản là nhân tố quyết định bản chất cách mạng, sự trưởng thành và chiến th ắng của quân đ ội nhân dân. Có sự lãnh đạo của Đảng, quân đội ta luôn luôn l ấy vi ệc xây d ựng v ề chính trị làm cơ sở để nâng cao sức mạnh chiến đấu tổng hợp, thường xuyên tăng cường hiệu lực công tác Đảng - công tác chính trị. Khi có chính quy ền nhà n ước, tr ở thành một bộ phận của Nhà nước, quân đội ta tuân th ủ Hi ến pháp và pháp lu ật. Thực tiễn lịch sử cho thấy, cơ chế quản lý của Nhà nước đối với quốc phòng không làm suy yếu sự lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp, về mọi mặt của Đảng đối v ới quân
  4. đội; vì quân đội là một tổ chức quân sự, khác với các tổ chức khác trong bộ máy nhà nước… Đảng trực tiếp lãnh đạo nhà nước đồng thời trực tiếp lãnh đạo quân đội. Hai là, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, về nguyên tắc tổ ch ức Quân đ ội nhân dân Việt Nam: “Phải có tổ chức vững chắc và nghiêm mật”(3), “nếu không có tổ chức thì không phải là một đội quân cách mạng, không thể đánh thắng được kẻ thù, kết cục sẽ rơi vào tình trạng vô chính phủ và tan rã”(4). Người chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, xác định đúng đắn mối quan hệ giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Vận dụng sáng tạo nguyên t ắc t ập trung dân ch ủ của Đảng vào xây dựng quân đội cách mạng, Người nêu rõ có tổ chức mạnh mới có con người mạnh. Con người mạnh làm cho tổ chức mạnh, Đảng bộ trong quân đội làm nòng cốt và hạt nhân lãnh đạo, vừa có hệ thống lãnh đạo, vừa có hệ th ống ch ỉ huy, xác định rõ lãnh đạo là tập thể, chỉ huy là trách nhiệm cá nhân. Quân đội phải có kỷ luật sắt “quân lệnh như sơn”, xây dựng quân đội phải đi đôi với th ực hi ện dân chủ, phê bình, tự phê bình từ dưới lên, chống quan liêu, quân phiệt, độc đoán, chống tự do vô kỷ luật. Ba là, quân đội ta là quân đội của dân, do dân và vì dân. Vì v ậy, ph ải luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, có thái độ chính tr ị đúng đ ắn trước những mối quan hệ chính trị cơ bản: với nhân dân, quân đ ội ta là ng ười ph ục vụ trung thành, cùng nhân dân bảo vệ độc lập chủ quyền, chế độ xã hội, bảo v ệ nhà nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ tính mạng, tài sản và quyền làm chủ của nhân dân; với đất nước, quân đội ta là công cụ để bảo vệ độc lập thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ sự bình đẳng và đoàn k ết giữa các dân tộc, gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc…; với b ầu b ạn, quân đ ội ta th ấm nhuần tinh thần quốc tế vô sản, ủng hộ sự nghiệp đấu tranh cho độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội và hoà bình thế giới; với nội bộ, thực hiện toàn quân một ý chí, kỷ luật nghiêm minh, dân chủ, bình đẳng về chính trị. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một Quân đội nhân dân do Đ ảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”(5). Bốn là, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong xây dựng quân đội phải lấy vi ệc bồi dưỡng xây dựng con người là chính. Bác Hồ nói: “Người trước súng sau”. Chiến lược “trồng người” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo nên một đội ngũ cán bộ quân đội trung thành, có trí tuệ đáp ứng yêu cầu khắc nghiệt của đấu tranh và mọi thử thách của cách mạng. Người nói: “Muôn việc thành công hay thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”(6), “… cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(7). Đối với cán bộ trong quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Trí, Dũng, Nhân, Tín, Liêm, Trung”. Người đặt “Trí” lên hàng đầu. Theo đó, cán bộ quân sự trước hết ph ải là người có trí tuệ, không ngừng trau dồi trí thức, nâng cao trí tuệ mới hoàn thành nhiệm vụ. Người cán bộ phải có giác ngộ chính trị h ơn quần chúng, vì v ậy ph ải có trình độ hiểu biết về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học
  5. kỹ thuật quân sự; nắm vững đường lối chính sách của Đảng mới tự giác ph ấn đ ấu theo đường lối cách mạng mà Đảng đã vạch ra, có niềm tin thắng lợi, dựa vào căn cứ khoa học, có lý luận để thuyết phục quần chúng, có khả năng tổng kết thực tiễn, phát huy sức sáng tạo của quần chúng để góp ph ần c ụ th ể hoá, b ổ sung đ ường l ối, chủ trương của Đảng. Quân đội nhân dân Việt Nam đã đánh thắng quân đội nhà ngh ề hai đ ế qu ốc to, trước hết là thắng bằng trí tuệ, bằng tài thao lược, k ế th ừa truy ền th ống đánh gi ặc của tổ tiên, tiếp thu có chọn lọc nghệ thuật quân s ự của nhân lo ại, có ph ương pháp xem xét đúng, hiểu rõ sức mạnh quân đội của các nước đế quốc, sáng tạo cách đánh tài giỏi. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, quân đội cách mạng phải: “nghiên cứu cách đánh giặc”(8) để “có một lối đánh tài giỏi thì trăm trận trăm thắng”. Nếu “thiếu nghiên cứu tìm hiểu tình hình khả năng ta và địch một cách tỉ mỉ để định ra mục đích và cách đánh hợp lý thì sẽ “mắc nhiều khuyết đi ểm”. Ng ười căn d ặn cán bộ phải chịu khó học tập, không ngừng nâng cao trí tuệ, văn hoá để có phương hướng đúng cho việc trau dồi đạo đức cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi việc cán bộ học ở trường, ở sách vở và trong thực tiễn đấu tranh cách mạng đ ều r ất quan trọng. Theo Người, học phải đi đôi với hành, lời nói phải đi đôi v ới vi ệc làm. Người coi trọng quá trình xây dựng quân đội nhân dân phải là quá trình rèn luy ện lâu dài chiến đấu với kẻ thù, trong đấu tranh chính trị, trong vận động quần chúng, trong xây dựng nâng cao sức mạnh chiến đấu. Bản lĩnh chính trị, bản lĩnh chiến đấu của mỗi quân nhân trong quân đội chẳng những là sự tích luỹ m ột hàm lượng trí tu ệ mà còn là kết quả của sự đấu trí giữa ta và địch. Hơn n ửa th ế k ỷ xây d ựng và chi ến đấu, quân đội ta đã bồi dưỡng được một đội ngũ cán bộ quân sự tuy ệt đ ối trung thành với sự nghiệp cách mạng, giỏi thao lược, đánh th ắng mọi kẻ thù. Trong Quân đội nhân dân Việt Nam, có nhiều cán bộ cao cấp trưởng thành từ giai c ấp công nhân, nông dân, trí thức cách mạng đi lên. Đó là một thành công l ớn lao c ủa Đ ảng và Bác Hồ. Trải qua 64 năm, quân đội ta xây dựng và chiến đấu theo t ư t ưởng H ồ Chí Minh, đã hoàn thành nhiệm vụ trong chiến tranh giải phóng dân tộc và b ảo v ệ v ững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những năm hoà bình, quân đội ta là một lực lượng rất quan trọng bảo đảm sự ổn định chính trị và an toàn xã hội của nước nhà. Ngày nay, trong bối cảnh mới, đất nước bước vào th ời kỳ công nghi ệp hoá, hiện đại hoá, chúng ta đang đứng trước vận hội mới và những thách thức mới. Đảng ta xác định xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã h ội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược. Nhiệm vụ của quân đội ta rất nặng nề, phải bảo vệ được hoà bình, góp phần tạo môi trường ổn định để tiến hành công nghi ệp hoá, hi ện đ ại hoá, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, biên giới hải đảo của Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo v ệ Đ ảng và Nhà n ước, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ bản sắc văn hoá dân t ộc, l ợi ích qu ốc
  6. gia, chống lại các thế lực thù địch với các thủ đoạn “di ễn bi ến hoà bình”, b ạo lo ạn lật đổ và sẵn sàng đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm l ược ki ểu mới c ủa đ ịch. Chức năng cơ bản của quân đội là bảo vệ vững ch ắc đ ộc lập dân t ộc và ch ủ nghĩa xã hội, bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ tính mạng tài sản, quy ền làm ch ủ c ủa nhân dân và chức năng đội quân công tác, đội quân sản xuất có nh ững nội dung và yêu cầu mới. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi quân đội phải được xây dựng với chất lượng cao, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Nhi ệm v ụ đó đặt ra yêu cầu đầu tư hơn nữa vào công tác huấn luy ện b ộ đ ội, đào t ạo đ ội ngũ cán bộ có trình độ chỉ huy giỏi, sáng tạo cách đánh và tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học quân sự, vận dụng sáng tạo vào quá trình xây dựng h ọc thuy ết quân s ự Việt Nam trong thời đại mới, góp phần vào việc đổi mới phong cách lãnh đạo ch ỉ huy Quân đội nhân dân. Cần thiết phải bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật về xây dựng Quân đội nhân dân, củng cố nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc; tiếp tục thể chế hoá đường lối, quan điểm, Nghị quyết của Đảng về xây dựng quân đội; ban hành hệ thống điều lệnh, điều lệ về các hoạt động của Quân đ ội nhân dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quân đội, giải quyết tốt nhi ệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân trong nhà nước pháp quyền do Đảng lãnh đạo. Những vấn đề trên đang đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta ti ếp tục học tập, tìm hiểu và nghiên cứu sâu sắc hơn n ữa t ư tưởng H ồ Chí Minh v ề xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng Quân đội nhân dân, góp phần tăng cường nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, làm cho quân đội ta mãi xứng đáng với danh hiệu cao quý: “Bộ đội Cụ Hồ”./. __________________________________________________________ Ghi chú: (1) Hồ Chí Minh toàn tập (2000), Tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr.507. (2) Hồ Chí Minh toàn tập (1995), Tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr.555. (3), (4) Hồ Chí Minh toàn tập (1995), Tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr.470. (5) Hồ Chí Minh toàn tập (2002), Tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr.350. (6) Hồ Chí Minh toàn tập (1995), Tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr.240. (7) Hồ Chí Minh toàn tập (2002), Tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr.269. (8) Hồ Chí Minh toàn tập (1995), Tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr.318-319.
  7. XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG CHỦ TRƯƠNG, QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ TỔ CHỨC HỢP LÝ CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG Ở NƯỚC TA T.S VĂN TẤT THU Thứ trưởng Bộ Nội vụ H ội đồng nhân dân (HĐND) ở nước ta hình thành ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Hơn 60 năm qua, với tính ch ất là c ơ quan chính quyền địa phương, đại diện cho ý chí nguy ện vọng và quy ền làm ch ủ c ủa nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên, HĐND đã thực hiện tốt các nhiệm vụ nhân dân uỷ thác, góp phần tích cực vào sự thành công của s ự nghi ệp cách m ạng xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động c ủa HĐND nói chung, của HĐND huyện, quận, phường nói riêng, bên cạnh những ưu điểm là c ơ bản còn bộc lộ những hạn chế, bất cập. Vì vậy, vấn đề tổ chức hợp lý chính quy ền đ ịa phương các cấp, đặc biệt là việc tổ chức hay không tổ chức HĐND ở một số loại đơn vị hành chính đã được Đảng và Nhà nước ta nhiều lần đề cập đến. Ngay t ừ những năm 1990, khi nghiên cứu đổi mới hệ thống chính trị và ban hành Hi ến pháp 1992, vấn đề này đã được đặt ra. Song, thực tiễn cải cách tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương diễn ra chậm, không đồng bộ, chưa thực sự tạo ra bước đổi mới có tính đột phá để hoàn thiện và xây dựng chính quyền địa phương. Tại Đại hội VII (tháng 6/1991), Đảng xác định tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước và đề ra nhiệm vụ về sửa đổi Hiến pháp, cải tiến tổ chức và hoạt động của Chính phủ, chính quyền địa phương. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương (BCHTW) lần thứ 8 khoá VII năm 1995 đã ra Nghị quyết tiếp tục hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà Xã h ội Ch ủ nghĩa Vi ệt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính, đề ra mục tiêu “xây dựng một nền hành chính trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hoá để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công vi ệc c ủa nhà n ước, thúc đ ẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống của nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong xã h ội”. Đ ể đ ề cao trách nhi ệm và phát huy hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quy ền các c ấp, Ngh ị quy ết khẳng định cần phải “tăng cường sự lãnh đạo và điều hành tập trung th ống nh ất của Trung ương, đồng thời phát huy trách nhiệm và tính chủ động, năng động của địa phương… phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của mỗi cấp chính quy ền, tập trung vào Trung ương quyền quyết định các vấn đề ở tầm vĩ mô”; “phân cấp
  8. quản lý để phát huy tính chủ động và tinh th ần trách nhi ệm c ủa chính quy ền đ ịa phương”(1). Đối với chính quyền địa phương cần phải “nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND và Uỷ ban nhân dân (UBND) các cấp. Đề cao trách nhi ệm và k ỷ luật của HĐND, UBND trong việc chấp hành pháp luật và các quy ết đ ịnh c ủa Qu ốc hội, Chính phủ và các cơ quan hành chính cấp trên. Tăng quy ền chủ động của HĐND trong việc quyết định các vấn đề mang tính địa phương, quy ết đ ịnh ngân sách trong phạm vi được phân cấp. Quy định nhiệm vụ và quyền hạn của HĐND và UBND từng cấp”. “Tổ chức bộ máy hành chính thành phố, thị xã phù h ợp với đ ặc điểm quản lý đô thị mang tính tập trung thống nhất cao. Xác định h ợp lý ph ạm vi ngoại thành, ngoại thị trên cơ sở quy hoạch đô th ị. Xác đ ịnh v ị trí và ch ức năng c ủa chính quyền cấp huyện với thẩm quyền trách nhiệm rõ ràng”(2). Đại hội VIII của Đảng một lần nữa khẳng định: “tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”. Đối với chính quyền địa phương, Đại hội đề ra nhiệm vụ “kiện toàn bộ máy chính quyền cấp huyện và cơ sở đủ sức quản lý, giải quy ết kịp th ời, đúng th ẩm quyền những vấn đề cuộc sống đặt ra và nhân dân đòi hỏi”(3). Hội nghị lần thứ 3 BCHTW khoá VIII (tháng 6/1997) ra Ngh ị quy ết “phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà Xã h ội Ch ủ nghĩa Việt Nam trong sạch vững mạnh” đề ra nhiệm vụ: “tiếp tục phát huy t ốt h ơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân qua các hình thức dân chủ đại di ện và dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ nhà n ước, nh ất là vi ệc giám sát, kiểm tra của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan và cán b ộ công ch ức nhà nước”(4). Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm ch ủ c ủa nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà nước “là vấn đề có ý nghĩa sống còn đ ối v ới xã hội ta”(5), “để thực hiện phương hướng trên, điều quan trọng hàng đ ầu là nâng cao chất lượng chế độ dân chủ đại diện, mở rộng và có cơ chế từng bước thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp một cách thiết thực, đúng hướng và có hiệu quả”(6). Nghị quyết nhấn mạnh, cần phải “nâng cao chất lượng hoạt động c ủa các c ơ quan dân cử (Quốc hội, HĐND) để các cơ quan này th ực sự là c ơ quan đ ại di ện c ủa nhân dân và là cơ quan quyền lực của nhà nước trong việc xem xét và quyết đ ịnh những vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương”(7). “Phân định trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cấp chính quyền theo hướng phân cấp rõ hơn cho địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực hi ện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”(8). “Việc phân định trách nhiệm và thẩm quy ền của các cấp chính quyền phải phù hợp với tính chất và yêu cầu của từng ngành và lĩnh vực hoạt động, với chức năng, nhiệm vụ của từng cấp chính quy ền trên t ừng đ ịa bàn, phù hợp với điều kiện, khả năng của các địa phương có quy mô, v ị trí khác nhau. Giữa các cấp chính quyền địa phương cần cụ thể hoá việc phân cấp theo hướng việc nào do cấp nào giải quyết sát với thực tế hơn thì giao nhi ệm v ụ, th ẩm
  9. quyền cho cấp đó”(9). “Trên cơ sở xác định rõ chức năng và đổi mới sự phân cấp, tiếp tục điều chỉnh hợp lý tổ chức của các Bộ, các c ơ quan thu ộc Chính ph ủ và b ộ máy chính quyền địa phương”(10). “Kiện toàn và củng cố HĐND, UBND các cấp để bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ và thẩm quyền đã được phân cấp; đồng thời đề cao trách nhiệm tham gia cùng chính quyền cấp trên thực hi ện nhi ệm v ụ qu ản lý nhà nước đối với tổ chức theo ngành dọc trên địa bàn lãnh th ổ”, “Xây dựng HĐND các cấp có thực quyền để thực hiện đầy đủ vai trò là cơ quan đại di ện c ủa nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, thực hiện quy ền làm ch ủ c ủa nhân dân ở từng cấp”. “Nghiên cứu phân biệt sự khác nhau giữa hoạt động của HĐND và nhiệm vụ quản lý hành chính ở đô thị với hoạt động của HĐND và nhi ệm vụ qu ản lý hành chính ở nông thôn, có thể tiến hành thí đi ểm ở một vài đ ịa ph ương đ ể th ấy hết các vấn đề cần giải quyết”(11). Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCHTW khoá IX (tháng 2/2002) về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, th ị trấn đã xác đ ịnh: “chính quyền phường không quản lý toàn diện các hoạt động s ản xuất, đ ời s ống dân cư trên địa bàn như chính quyền xã, thị trấn, song có nhiệm vụ rất quan trọng trong quản lý đô thị. Cần phân định rõ hơn thẩm quy ền, trách nhi ệm và t ạo đi ều kiện để chính quyền phường thực hiện tốt nhiệm vụ, đặc biệt trong việc quản lý thực hiện quy hoạch, quản lý đất đai, nhà ở, h ộ t ịch, v ệ sinh môi tr ường, tr ật t ự đô thị”(12). Báo cáo của Bộ Chính trị kiểm điểm giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IX (tháng1/2004) chỉ rõ: “HĐND các cấp ở nhiều nơi hoạt động còn hình thức, nhiều đại biểu còn ít đóng góp vào công việc chung của hội đồng; một số vấn đề về tổ chức của HĐND vẫn chưa được làm rõ và chưa có định hướng đổi mới một cách căn bản, nhất là cấp huyện và mô hình tổ ch ức chính quy ền đô thị”(13). Đồng thời, báo cáo của Bộ Chính trị cũng đề ra nhiệm vụ: “Đổi mới tổ chức để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HĐND các cấp; kiện toàn HĐND và UBND ba cấp thông qua việc tổ ch ức t ốt cu ộc b ầu c ử đ ại bi ểu HĐND”. Khẩn trương hoàn thành việc phân cấp, phân quyền giữa trung ương với địa phương trên từng ngành, từng lĩnh vực một cách đồng bộ, bảo đảm hiệu lực quản lý thống nhất xuyên suốt của Trung ương đối với địa phương và khuyến khích tinh thần tự chịu trách nhiệm của từng địa phương, “thí điểm mô hình tổ chức chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn”(14). Báo cáo chính trị của BCHTW tại Đại hội X của Đảng (tháng 4/2006) cùng với việc nêu các thành tựu đạt được đã chỉ ra các khuyết điểm và yếu kém: “bộ máy quản lý nhà nước các cấp, nhất là ở cơ sở còn yếu kém… mô hình t ổ chức chính quyền địa phương, nhất là tổ chức HĐND còn nh ững điểm bất h ợp lý, c ải cách hành chính chưa đạt yêu cầu”(15), “bộ máy chính quyền cơ sở nhiều nơi còn y ếu kém”(16). Đồng thời báo cáo khẳng định, cần phải “Nâng cao chất lượng hoạt động
  10. của HĐND và UBND, đảm bảo quyền tự chủ, tự ch ịu trách nhi ệm c ủa chính quy ền địa phương trong phạm vi được phân cấp. Phát huy vai trò giám sát c ủa HĐND. T ổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân định lại thẩm quyền đối với chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo”(17), “điều chỉnh cơ cấu chính quyền địa phương cho phù hợp với những thay đổi chức năng nhiệm vụ. Phân biệt rõ nh ững khác biệt gi ữa chính quyền nông thôn và chính quyền đô thị để tổ chức bộ máy phù hợp”(18). Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Hội ngh ị l ần th ứ 5 BCHTW đã thông qua Nghị quyết về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hi ệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước, trong đó đề ra yêu cầu “xây dựng tổ chức bộ máy hành chính tinh gọn, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, phân đ ịnh rõ trách nhiệm giữa các cơ quan, giữa các cấp chính quy ền, giữa chính quy ền đô th ị và chính quyền nông thôn, giữa tập thể và người đứng đầu cơ quan hành chính; hoạt động có tính kỷ luật, kỷ cương và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước”(19). Đối với chính quyền địa phương, Nghị quyết chỉ ra “tính thống nhất và thông suốt của hệ thống hành chính nhà nước được đảm bảo trên c ơ s ở xác đ ịnh rõ vị trí trách nhiệm của chính quyền địa phương trong hệ thống các cơ quan nhà nước”; đồng thời khẳng định nguyên tắc “chính quyền địa ph ương ở nước ta được xây dựng, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc nhà nước đơn nh ất, quy ền l ực nhà nước là thống nhất”, cần có cơ chế bảo đảm nguyên tắc “xây dựng chính quy ền của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân”, “tổ chức hợp lý chính quyền đ ịa ph ương phân biệt rõ những khác biệt giữa chính quyền nông thôn và chính quyền đô thị”(20). Trên cơ sở các quan điểm, yêu cầu, nguyên tắc xây dựng chính quyền địa phương ở nước ta theo tinh thần xây dựng nhà nước pháp quy ền c ủa dân, do dân, vì dân, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội ch ủ nghĩa, mở cửa h ội nhập kinh tế quốc tế, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCHTW khoá X cho phép th ực hiện thí điểm “không tổ chức HĐND ở huyện, quận, phường”. Đối với chính quyền nông thôn: “không tổ chức HĐND ở huyện; ở huyện có UBND với tính chất là đại diện của cơ quan hành chính cấp tỉnh để gi ải quy ết các nhiệm vụ về hành chính và các công việc liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của người dân theo quy định của pháp luật. UBND huy ện t ập trung ch ỉ đ ạo, h ướng d ẫn kiểm tra cấp dưới thực hiện chủ trương, chính sách, ngh ị quy ết, k ế ho ạch c ủa c ấp trên. Cơ chế giám sát đối với tổ chức và hoạt động của UBND huyện được th ực hiện thông qua hoạt động giám sát của đại biểu và đoàn đại bi ểu Qu ốc h ội, HĐND, UBND cấp tỉnh, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, sự giám sát trực tiếp của nhân dân. Kiện toàn cấp uỷ huyện để đáp ứng tốt yêu cầu lãnh đạo toàn diện và lãnh đạo hoạt động của UBND huyện”(21). Đối với chính quyền đô thị: “tổ chức chính quyền đô thị phải đảm bảo tính thống nhất và liên thông trên địa bàn về quy hoạch đô th ị, k ết c ấu h ạ t ầng (nh ư điện, đường, cấp thoát nước, xử lý rác thải, bảo vệ môi trường) và đời sống dân cư.
  11. Xác định cấp đô thị có HĐND là: HĐND thành phố trực thuộc Trung ương, HĐND thành phố thuộc tỉnh, HĐND thị xã; không tổ chức HĐND ở quận, ở phường. Tại quận, phường có UBND là đại diện của cơ quan hành chính c ấp trên đ ặt t ại đ ịa bàn để thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của pháp luật và phân cấp của chính quyền cấp trên”(22). Khi không tổ chức HĐND ở huyện, quận, ph ường cần ph ải tổ chức lại UBND theo hướng là cơ quan hành chính “để quản lý, th ực hiện các nhi ệm vụ theo quy định của pháp luật và phân cấp của cơ quan cấp trên. UBND huy ện, quận, phường bao gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các uỷ viên do UBND cấp trên bổ nhiệm, miễn nhiệm trên cơ sở xem xét nhân sự do cấp u ỷ huy ện, qu ận, ph ường giới thiệu và được cấp có thẩm quyền quản lý cán bộ đồng ý”(23). Không t ổ ch ức HĐND huyện, quận, phường “cần tăng cường HĐND tỉnh, thành ph ố trực thu ộc Trung ương về số lượng, chất lượng đại biểu, về cơ sở vật chất, điều kiện làm việc”(24). Như vậy, thực hiện không tổ chức HĐND huy ện, qu ận, ph ường ph ải điều chỉnh nhiệm vụ, thẩm quyền và đổi mới mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở nước ta theo tinh thần cải cách hành chính. Thực hiện chủ trương, quan điểm của Đảng nêu trong các nghị quyết nói trên, Chính phủ đã ban hành chương trình, nghị quyết chỉ đạo thực hiện cụ thể như: Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010, đề ra nhiệm vụ: “xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền h ạn, trách nhi ệm c ủa chính quyền địa phương, phân biệt chức năng, nhiệm vụ của chính quy ền đô th ị v ới chính quyền nông thôn; tổ chức hợp lý HĐND và UBND từng cấp căn cứ vào quy định của Hiến pháp”; Quyết định số 94/2006/QĐ-TTg ngày 27/4/2006 của Th ủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2006- 2010, xác định nhiệm vụ “sắp xếp tổ chức bộ máy các cơ quan hành chính nhà nước trong đó có việc thí điểm mô hình chính quy ền đô th ị theo h ướng không t ổ ch ức HĐND ở một số đơn vị hành chính thuộc nội thị”; Nghị quy ết số 53/2007/NQ-CP ngày 7/11/2007 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động th ực hi ện Ngh ị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCHTW khoá X về đẩy mạnh cải cách hành chính nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Đề án “thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, ph ường”. Trên cơ sở Đề án của Chính phủ, Quốc hội đã thảo luận và thông qua Ngh ị quy ết s ố 26/2008/QH12 ngày 15/11/2008 về thực hiện thí điểm không tổ ch ức HĐND huy ện, quận, phường. Thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường là vấn đề hệ trọng nhưng cần thiết phải làm trong tiến trình c ải cách hành chính. Sau thời gian thực hiện thí điểm sẽ tiến hành tổng kết đánh giá đ ể có c ơ s ở s ửa đ ổi, b ổ sung Hiến pháp, Luật Tổ chức HĐND và UBND và các luật chuyên ngành khác, t ạo cơ sở pháp lý tổ chức hợp lý chính quyền đại phương, bảo đảm tính th ống nh ất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước, đáp ứng yêu cầu xây
  12. dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế./. ____________________________________________________________ Ghi chú: (1), (2) Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 BCHTW khoá VII, Hà Nội, 1995, Tr. 25, 34. (3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, Hà Nội. (4), (5), (6), (7), (8), (9), (10), (11) Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 BCHTW khoá VIII, Nxb CTQG, Hà Nội, 1997, Tr.41, 44, 51, 52, 53, 55. (12) Văn ki ện H ội ngh ị l ần th ứ 5 BCHTW khoá IX, Nxb CTQG, Hà N ội, 2002, Tr.172. (13), (14) Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 BCHTW khoá IX, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004, Tr.98, 99. (15), (16), (17), (18) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, Tr.64, 175, 127, 254. (19), (20), (21), (22), (23), (24) Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 BCHTW khoá IX, Nxb CTQG, Hà Nội, 2007, Tr.159, 170, 171, 172.
  13. VĨNH PHÚC CHỦ ĐỘNG KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN, ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NGUYỄN NGỌC PHI Phó Bí thư Tỉnh uỷ - Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc N ăm 2008, năm bản lề của kế hoạch 5 năm 2006-2010, tỉnh Vĩnh Phúc th ực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện có nhi ều khó khăn, đó là: sản xuất nông nghiệp gặp thời tiết xấu, diễn biến ph ức tạp và khó lường; thiếu điện cho sản xuất và sinh hoạt trên diện rộng; lạm phát cao tác đ ộng x ấu đ ến sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân; công tác bồi th ường, gi ải phóng m ặt bằng ngày càng khó khăn; khủng hoảng tài chính thế giới tác động tiêu cực đến kinh tế của đất nước, của tỉnh… Trước tình hình trên, các cấp ủy đảng, chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc đã tăng cường công tác lãnh đạo, ch ỉ đạo, đi ều hành, huy đ ộng h ệ th ống chính trị, cùng nhân dân các dân tộc trong tỉnh tháo g ỡ khó khăn, phát tri ển s ản xu ất kinh doanh, tập trung giải quyết những vấn đề trọng tâm, bức xúc, đ ảm bảo an sinh xã hội. Do vậy năm 2008 các mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh đều hoàn thành và hoàn thành vượt mức đề ra. Về phát triển kinh tế: Tăng trưởng kinh tế năm 2008 của tỉnh đạt gần 14,8%, trong đó: khu vực công nghiệp trên 14,9%, dịch vụ gần 19%, nông nghiệp gần 7%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, tỷ trọng nông nghiệp còn trên 18% trong GDP. Thu hút đ ầu t ư trực tiếp vào tỉnh đạt kết quả khá, cả năm đã thu hút được 31 dự án FDI vốn đăng ký 535,3 triệu USD, 93 dự án DDI vốn đăng ký g ần 6 nghìn t ỷ đ ồng. Thu ngân sách trên địa bàn đạt kết quả cao nhất từ trước đến nay, dự kiến trên 9.228 t ỷ đ ồng (tăng 57,2% so năm trước). Ngành công nghiệp tuy sản xuất có chững lại và giảm vào các tháng cu ối năm nhưng giá trị sản xuất vẫn tăng trên 17,7% so năm 2007. Trong đó tăng cao nh ất v ẫn là khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực ti ếp c ủa n ước ngoài (FDI). Ph ần l ớn các s ản phẩm công nghiệp chủ yếu đều tăng so cùng kỳ. Sản xuất nông nghiệp năm 2008 tuy gặp khó khăn về thiên tai, nhưng giá trị sản xuất vẫn tăng gần 7% so với năm trước. Các ngành dịch vụ hoạt động ổn định và duy trì được tốc độ tăng trưởng khá. Giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2008 ước đạt gần 352 triệu USD, tăng 28,4% so cùng kỳ. Về phát triển văn hóa xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng: kinh tế phát triển, đời sống nhân dân tiếp tục được nâng lên. GDP bình quân đ ầu ng ười (theo giá th ực tế) năm 2008 ước đạt 21,1 triệu đồng tăng 34,4% so với năm 2007 (tương đương 1.250 USD). Tỷ lệ hộ nghèo giảm 0,9% so với năm 2007. Chỉ số giá tiêu dùng đã
  14. được kiềm chế và giảm dần vào những tháng cuối năm; an sinh xã hội đ ược b ảo đảm, các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, th ể thao có nhi ều ti ến b ộ. Công tác thanh tra, kiểm tra, phòng chống tham nhũng, phòng chống tệ nạn xã hội, thực hành ti ết kiệm chống lãng phí; công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại t ố cáo đ ược tăng cường đạt hiệu quả. Công tác cải cách hành chính tiếp tục được đẩy m ạnh, nh ất là cải cách thủ tục hành chính gắn với việc thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông”, đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân và doanh nghiệp. Tình hình an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được bảo đảm và gi ữ vững, t ạo môi trường ổn định cho phát triển kinh tế của tỉnh. Đạt được những kết quả trên đây, năm 2008 tỉnh Vĩnh Phúc luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và giúp đỡ rất hiệu quả của Đảng, Nhà n ước và các bộ ngành trung ương. Đồng thời các cấp ủy đảng, chính quy ền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã không ngừng phấn đấu, từng bước khắc ph ục khó khăn, quy ết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội năm 2008 đã đề ra. Tuy nhiên, năm 2008, kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc còn gặp khó khăn, h ạn chế. Kinh tế tuy đạt tốc độ tăng trưởng cao, song ch ất l ượng tăng tr ưởng, kh ả năng hấp thụ vốn còn nhiều hạn chế. Hệ thống kết cấu h ạ t ầng k ỹ thu ật đô th ị, khu công nghiệp còn thiếu và chưa đồng bộ. Sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thu ỷ sản chủ yếu là quy mô nhỏ, mức độ áp dụng kỹ thuật - công ngh ệ và trình độ cơ giới hoá còn thấp. Một số lĩnh vực văn hóa - xã hội chưa theo kịp tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tình trạng ô nhiễm môi trường ở các khu công nghiệp, khu dân c ư ch ậm được khắc phục. Các tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp và vẫn là vấn đề bức xúc. Những khó khăn hạn chế trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Về khách quan, điểm xuất phát nền kinh tế thấp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn nhiều bất cập. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đô thị hóa nhanh, nảy sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc. Thời tiết, dịch bệnh diễn biến ph ức tạp, giá c ả tăng đã ảnh hưởng tới sản xuất và đời sống. Suy giảm kinh tế thế giới tác động tiêu c ực đ ến nước ta. Tỷ lệ lao động trong nông nghiệp, nông thôn còn cao, bình quân diện tích canh tác đầu người thấp. Nhu cầu đầu tư lớn trong khi kh ả năng đáp ứng từ ngân sách còn hạn chế. Về chủ quan, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của một số cấp ủy, chính quyền và bộ phận cán bộ, công chức ch ưa đáp ứng yêu c ầu phát tri ển của tỉnh. Bước sang năm 2009, theo dự báo việc thực hiện các m ục tiêu phát tri ển kinh tế - xã hội của tỉnh sẽ gặp khó khăn thách thức lớn hơn: cơn bão kh ủng hoảng tài chính sẽ ảnh hưởng mạnh hơn đến nền kinh tế thế giới và trong nước, tác động mạnh đến kết quả thu hút đầu tư, xuất khẩu và kết quả sản xuất kinh doanh c ủa các doanh nghiệp FDI trên địa bàn tỉnh; giá cả thị trường quốc tế, trong n ước còn biến động; thiên tai, dịch bệnh tiếp tục diễn biến ph ức tạp, khó l ường... Năm 2009 tỉnh Vĩnh Phúc xác định là năm “Tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh sản xu ất, thúc đẩy
  15. tăng trưởng, phát triển bền vững” với các mục tiêu ch ủ y ếu là: Tăng tr ưởng kinh t ế trên 10%, trong đó công nghiệp 10,6 - 11%, dịch vụ 13 - 13,5% và nông nghi ệp 3%; sản lượng lương thực có hạt đạt trên 34 vạn tấn; giá trị xuất kh ẩu trên 700 tri ệu USD; vốn đầu tư phát triển toàn xã h ội 11 - 11,5 nghìn t ỷ đ ồng; thu hút đ ầu t ư FDI khoảng 500 triệu USD; GDP bình quân đầu người tương đương 1.500 USD; tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt trên 10 nghìn tỷ đồng. Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội năm 2009, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể tập trung vào các trọng tâm sau: (1) Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các ch ủ trương, gi ải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế, bảo đảm an sinh xã h ội và tăng tr ưởng bền vững. Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao, bảo đảm phát tri ển b ền vững, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế, nh ất là khu v ực kinh t ế trong nước. (2) Đẩy mạnh công tác quy hoạch, hoàn thành h ệ thống quy hoạch, g ồm: quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, huyện, quy hoạch ngành, lĩnh vực và các quy hoạch đô thị. (3) Đẩy mạnh phát triển sản xuất công nghiệp; phát triển đa dạng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ; tiếp tục đầu tư cho sản xuất nông nghi ệp và phát triển nông thôn, triển khai nhanh, hiệu quả các ch ương trình, đ ề án, d ự án nh ằm c ụ thể hoá Nghị quyết của Đảng về phát triển nông nghiệp, nông thôn nâng cao đời sống nông dân. (4) Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, môi trường sản xuất kinh doanh, thu hút mạnh các nguồn lực trong và ngoài nước, tập trung phát tri ển h ệ th ống k ết c ấu hạ tầng thiết yếu. Thực hiện tốt công tác bồi th ường giải phóng m ặt b ằng, t ập trung giải quyết đất dịch vụ, tái định cư và giải quyết việc làm cho nhân dân khu vực bị mất đất cho phát triển công nghiệp, dịch vụ và đô thị. (5) Giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật t ự, an toàn xã hội. Tăng đầu tư cho an sinh xã hội; giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã h ội bức xúc, tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường. (6) Tiếp tục cải cách hành chính; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ch ất lượng giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khoẻ và nâng cao đời sống v ật ch ất tinh th ần cho nhân dân, nhất là các xã nghèo. Tăng cường công tác phòng chống tham nhũng, giải quyết tốt các đơn thư khiếu nại, tố cáo; nâng cao hiệu lực, hi ệu qu ả ho ạt đ ộng của bộ máy nhà nước./.
  16. HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỘT NHÀ NƯỚC KIỂU MỚI ĐẠI TÁ, T.S TRẦN NAM CHUÂN Viện Chiến lược quân sự, Bộ Quốc phòng M ột trong những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xây dựng một nhà nước kiểu mới - nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Đây là tư tưởng độc đáo, sáng tạo của Bác Hồ và của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đã được minh chứng và kiểm nghiệm trong lịch sử đấu tranh giành chính quyền và xây dựng chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân. Theo Chủ t ịch Hồ Chí Minh, nhà nước kiểu mới - nhà nước pháp quy ền ph ải là nhà n ước c ủa dân, do dân và vì dân; đó là tư tưởng, ý chí nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người yêu nước, th ương dân n ồng nàn tha thiết. Người đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin bằng niềm tin mãnh liệt: “Bây giờ h ọc thuyết nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nh ất là ch ủ nghĩa Lê- nin” và con đường duy nhất mang lại độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào là con đường cách mạng vô sản, dùng bạo lực cách mạng để giành chính quy ền v ề tay nhân dân. Chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng như V.I.Lê-nin đã chỉ rõ: “Cùng với việc tổ chức xây dựng Đảng cách mạng thì trong cuộc đấu tranh này, trước hết phải có Đảng cách mệnh”(1), “Đảng có vững cách mệnh mới thành công”(2). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng nền tảng tư tưởng cho đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng. Trong đó tư tưởng của Người về vấn đề chính quyền nhà nước hình thành khá sớm và rõ nét. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong xây dựng nhà nước kiểu mới, trước hết bắt nguồn từ đường lối cách mạng của Đảng. Một mặt, Người khẳng định bản chất giai cấp công nhân c ủa nhà nước, mặt khác Người cũng khẳng định sự thống nhất giữa bản ch ất giai c ấp công nhân, tính chất nhân dân và dân tộc của nhà nước pháp quy ền vì nó là đ ại di ện cho toàn thể nhân dân và toàn dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nhà nước pháp quy ền, nhà n ước kiểu mới của dân, do dân và vì dân là một h ệ th ống quan đi ểm t ư t ưởng trên nhi ều lĩnh vực và nhiều tổ chức trong bộ máy nhà nước, gắn li ền v ới hoạt đ ộng th ực ti ễn không mệt mỏi của Người về xây dựng bộ máy nhà nước.
  17. Năm tháng sẽ qua đi, song tư tưởng Hồ Chí Minh về xây d ựng m ột nhà n ước kiểu mới và một đảng cầm quyền vẫn còn giữ nguyên giá trị, có ý nghĩa thực ti ễn sâu sắc và lâu dài. Hiện nay, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, trước sự thoái hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước âm mưu chống phá của kẻ thù nhằm chia rẽ Đảng với dân, với Nhà nước hòng làm biến ch ất nhà nước, ti ến tới thủ tiêu và xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ vai trò lãnh đạo c ủa Đ ảng trên đất nước ta, chúng ta cần tiếp tục học tập, tìm hiểu thêm t ư tưởng c ủa Ch ủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề nhà nước kiểu mới, nhất là việc vận dụng vào th ực hiện các nghị quyết của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền, thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhà nước ta được thành lập sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là nhà n ước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Việt Nam và ở Đông Nam Châu Á, dựa trên nền tảng công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Bản Hiến pháp năm 1946 ở nước ta ra đời là mốc son quan trọng đánh dấu quá trình bắt đầu xây d ựng m ột nhà n ước pháp quyền. Đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “dân là chủ, Chính phủ là đầy tớ”(3). Đây là một trong nh ững vấn đ ề h ết s ức căn b ản trong xây dựng nhà nước kiểu mới, phản ánh mối quan hệ giữa nhà nước và công dân của nhà nước kiểu mới mà Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng xây dựng. Trong th ư gửi Uỷ ban hành chính các bộ, huyện, làng xã ngày 17/10/1954, Ng ười vi ết: “C ơ quan Chính phủ từ toàn quốc đến các làng là đầy tớ của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung chứ không phải đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật”(4). “Dân là chủ thì Chính phủ là đầy tớ, nếu Chính phủ làm h ại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ đi”(5). Mối quan hệ giữa nhà nước với công dân được thể hiện cụ thể trong mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ. Nhà nước có nghĩa vụ với công dân đồng thời có những quyền theo quy định của pháp luật để thực thi công quyền mà nhân dân giao phó; ngược lại công dân vừa có quy ền, đ ồng th ời có nghĩa vụ công dân đối với nhà nước. Người viết: “nhưng khi dân dùng đ ầy t ớ đ ể b ảo v ệ cho mình thì phải giúp đỡ, nếu Chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình không có nghĩa là chửi”(6). Trên tinh thần đó, Hiến pháp năm 1992 của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có những quy định rất cụ thể về quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, đồng thời cũng dành toàn b ộ Ch ương V v ới 34 điều (từ Điều 49 đến Điều 82) quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đối với cán bộ, đảng viên, nhân viên nhà nước, Người gọi đó là “công bộc”(7) của dân, cách gọi ấy thật là dân dã mà sâu sắc. Trong buổi đ ầu thành l ập chính quyền, khi thuyết phục cụ Huỳnh Thúc Kháng ra làm Bộ trưởng B ộ Nội vụ, Ch ủ tịch Hồ Chí Minh đã tâm sự với cụ Huỳnh Thúc Kháng: “… Khi x ưa làm quan là hưởng đỉnh chung, bây giờ chúng ta làm việc cho dân, cho nước gọi là công b ộc”(8). Khi Quốc hội tín nhiệm bầu Người làm Ch ủ tịch nước - ng ười đứng đ ầu Chính
  18. phủ, Người trả lời các nhà báo: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ gánh vác chức Chủ tịch là vì đồng bào u ỷ thác thì tôi ph ải gắng làm, cũng như một người lính vâng lệnh quốc dân ra trước mặt trận”(9). Người căm ghét thói cậy quyền, cậy thế, chia rẽ, kiêu ngạo, tham ô, lãng phí, quan liêu, móc ngoặc, tham nhũng… vì nó “là kẻ thù của nhân dân, của dân tộc, của Chính phủ. Nó là kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm súng, nó nằm trong tổ chức của ta, nó là giặc nội xâm để làm hỏng công việc của ta”(10). Người dạy: “Cơm của chúng ta ăn, áo của chúng ta mặc, vật li ệu chúng ta dùng đều là mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy chúng ta ph ải đ ền ơn xứng đáng cho nhân dân. Chớ vác mặt làm quan cách mạng để dân ghét, dân khinh, dân không ủng hộ”(11). Điều đó không những khẳng định: Hồ Chí Minh là nhà l ập pháp mà còn chứng tỏ Người rất coi trọng xây dựng hệ thống pháp luật tạo hành lang pháp lý cho mọi hoạt động của nhà nước ta trong sự nghi ệp kháng chi ến và kiến quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất cương quy ết với những hành vi vi ph ạm pháp luật và trừng trị nghiêm khắc những kẻ phạm tội, dù người đó ở cương vị nào. Trong trả lời chất vấn của Quốc hội vào năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Chính phủ hết sức làm gương, nếu làm gương không xong thì sẽ dùng pháp lu ật mà trị những kẻ hối lộ, đã trừng trị, đang trừng trị và sẽ trừng trị cho kỳ hết”(12). Hồ Chủ tịch đã bác đơn xin ân xá giảm án tử hình của nhi ều k ẻ ph ạm t ội đ ặc bi ệt nghiêm trọng, dù đó là cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước; Người cho rằng: “Không dùng xử phạt cũng là không đúng, song việc gì cũng dùng đ ến xử ph ạt cũng không đúng”(13). Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, có luật pháp cũng chưa đủ, điều quan trọng là pháp luật của nhà nước phải đi vào cuộc sống, phải trở thành hoạt động t ự giác c ủa mỗi người trong xã hội, vì: công bố luật chưa phải đã là xong, ph ải tuyên truy ền, giáo dục lâu dài. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng, ban hành, th ực thi pháp luật trong hoạt động của bộ máy nhà nước, đồng thời Người không bao gi ờ xem nhẹ các hình thức, biện pháp khác, nhất là trong vận động tổ chức quần chúng, trong việc tuyên truyền giáo dục, việc nêu gương trước quần chúng của đội ngũ cán bộ đảng viên, đặc biệt là việc giáo dục truyền thống tốt đẹp của dân t ộc và đ ạo đức cách mạng, bởi tác dụng lớn lao của nó đối với hoạt đ ộng qu ản lý c ủa nhà nước và thực hiện quyền dân chủ của công dân. Cuộc đời của Ch ủ t ịch H ồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về chấp hành pháp luật, về đạo đức, phong cách mà chúng ta mãi mãi học tập, noi theo. Về vấn đề đảng cầm quyền và lãnh đạo nhà nước kiểu mới, ngay t ừ năm 1925 trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” khi đề cập đến mô hình nhà nước trong tương lai và nhiệm vụ của nó, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đảng Cộng sản cầm quyền, tổ chức ra Chính phủ công - nông - binh, phát đ ất cho dân cày, giao công
  19. xưởng cho thợ thuyền… ra sức tổ chức kinh tế mới để thực hành thế giới đại đồng”(14). Đến trước khi vĩnh biệt đồng bào, đồng chí, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán b ộ ph ải th ực s ự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần kiệm, liêm, chính, chí công vô t ư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là ng ười đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(15). Như vậy, tư tưởng về Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo chính quy ền là tư tưởng nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời hoạt đ ộng cách mạng khi đất nước chưa giành được chính quyền cũng như khi có chính quy ền dân chủ nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở các tổ chức đảng và đảng viên: Đảng cầm quyền chứ không phải đảng trị, mọi cán bộ đảng viên của Đảng phải biết tôn trọng nhà nước dân chủ nhân dân, gương mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật của nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước đã được thể ch ế hoá trong Hi ến pháp - Đạo luật cơ bản của Nhà nước ta. Điều 4, Hi ến pháp năm 1992 vi ết: “Đ ảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Vi ệt Nam, đ ại bi ểu trung thành cho quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao đ ộng và c ủa c ả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là lực l ượng lãnh đ ạo nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 4/2006) cũng đánh giá những thành tựu rất quan trọng đạt được trong đ ường l ối đ ổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Qua 78 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta ngày càng tích luỹ thêm nhiều kinh nghiệm; nhận th ức ngày càng sáng tỏ hơn, sâu sắc hơn về một đảng cầm quyền và con đường đi lên chủ nghĩa xã h ội ở nước ta; giữ vững bản chất cách mạng và khoa h ọc, trung thành v ới giai c ấp và dân tộc, kiên định trước mọi thách thức, vững vàng lãnh đạo sự nghiệp cách m ạng n ước ta. Vận dụng sáng tạo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng đã không ngừng đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước, tích cực, chủ động sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn th ể nhân dân. Đ ảng không làm thay các cơ quan nhà nước, bảo đảm hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Song điều quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội là ở chỗ: ngoài lợi ích của dân tộc và giai cấp, Đảng không có lợi ích nào khác, là sự hy sinh phấn đấu của Đảng suốt hành trình 78 năm qua vì mục tiêu độc lập dân tộc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân ch ủ văn minh theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã l ựa ch ọn, được nhân dân và toàn dân tộc thừa nhận. Trong công cuộc đổi m ới hiện nay, cùng
  20. với tiến trình phát triển của cách mạng, nội dung, ph ương thức lãnh đ ạo c ủa Đ ảng đối với nhà nước pháp quyền ngày càng phát triển, được cụ thể hoá trong nhi ều Nghị quyết của Đảng, trong các hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước. Đương nhiên, như Đảng ta khẳng định, để không ngừng nâng cao hi ệu l ực lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong tình hình m ới, Đ ảng cũng không ng ừng tự chỉnh đốn và đổi mới cho ngang tầm với yêu cầu lãnh đạo c ủa th ời kỳ m ới - th ời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong sự nghiệp xây dựng và b ảo v ệ T ổ quốc như tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X c ủa Đ ảng đã đề ra./. ____________________________________________________________ Ghi chú: Từ (1) đến (14) Hồ Chí Minh toàn tập (1995), t ập 4, 5, 6, Nxb Chính tr ị Qu ốc gia, Hà Nội, Tr.247, 346, Tr 201- 410, Tr.161, 162. (15) Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969).
nguon tai.lieu . vn