Xem mẫu

  1. Phần thứ ba YÊU CẦU VÈ TÍNH THÓNG NHẤT, ĐỒNG BỘ, MINH BẠCH, HIỆU QUẢ CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYÈN I. CÁC TIÊU CHÍ BẢO ĐẢM TÍNH THỐNG NHÁT, ĐỒNG Bộ, MINH BẠCH VÀ HIỆU QUẢ CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHÙ NGHĨA VIỆT NAM 1. Tiêu chí đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ Sự phát triển kinh tế và xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật. Một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ sẽ thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế và xã hội. Ngược lại, hệ thống pháp luật kém phát triển, kèm theo đó là các tiêu chuẩn, quy định, quy tắc và thủ tục hành chính rườm rà sẽ dẫn tới những hiện tượng quan liêu và lạm dụng quyền hành trong bộ máy chính quyền, kìm hãm sự phát triển của kinh tế. Mối quan hệ giữa nhà nước và công dân trong một hệ thống pháp luật như vậy sẽ ngày càng xa rời. Nhà nước tò vị trí phục vụ nhân dân lại trở thành rào cản đối với nhân dân trong việc thực hiện các quyền của mình. Hệ thống pháp luật có thể ít về sổ lượng nhưng cổ nội dung rõ ràng và khả thi, bảo đảm tính thống nhất trong nội tại cũng như đáp ứng được các nhu cầu khách quan là điều kiện cần thiết để xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. 21 7
  2. XÂY DỰNG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT... Việc xây dựng hệ thống pháp luật có sự thống nhất bên trong, không có sự mâu thuẫn, chồng chéo, có khả năng chấp nhận sự hội nhập và hợp tác quốc tế là một trong những tiền đề và điều kiện không thể thiếu được cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ở nước ta. Hệ thống pháp luật đó phải có khả năng tạo ra một trật tự pháp lý thống nhất trong cả nước, thực hiện chức năng liên kết, thống nhất các bộ phận của xã hội, liên kết các nhóm xã hội, các giai cấp, các dân tộc và toàn xã hội. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật không tồn tại một cách độc lập mà bên cạnh đó còn có mối quan hệ tác động qua lại với các yếu tố khác như kinh tế, chính trị, đạo đức... Muốn xây dựng một hệ thống pháp luật đáp ứng được tính đồng bộ thì hệ thống pháp luật cần phải xuất phát từ các yêu cầu của các yếu tố như kinh tế, chính trị, đạo đức và các hệ thống khác để trờ thành công cụ điều chinh các mối quan hệ xã hội, bảo đảm và bảo vệ các lợi ích của con người và lợi ích toàn cục của toàn xã hội. Với cách đặt vấn đề như trên, việc nghiên cứu, đánh giá các yêu cầu về tính thống nhất và tính đồng bộ của hệ thống pháp luật ữong nhà nước pháp quyền là hết sức cần thiết ừong điều kiện của Việt Nam hiện nay. 1.1. Quan niệm về tính thống nhất, đồng bộ Thuật ngữ tính thống nhất của hệ thống pháp luật được sử dụng khá rộng rãi trong khoa học pháp lý và trong thực tiễn xây dựng pháp luật trong những năm gần đây. Tuy nhiên, nội hàm của khái niệm tính thống nhất của hệ thống pháp luật là gì thì lại chưa được nghiên cứu và làm rõ. Nghị quyết sổ 48-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) ngày 24/5/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 có đề cập đến thuật ngữ này khi xác định mục tiêu "Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch". Tại khoản 1 Điều 3 của Luật ban hành văn bản 218
  3. Phần thứ ba. Yêu cầu về tính thống nhất... quy phạm pháp luật năm 2008 xác định nguyên tắc đầu tiên ữong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật là phải "Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật, v.v... Theo hiểu biết chung, thì "thống nhất" được hiểu là có sự phù hợp, không mâu thuẫn nhau1. Áp vào thuật ngữ "tính thống nhất của hệ thống pháp luật" ta có thể hiểu đó là sự phù hợp, không mâu thuẫn nhau giữa các thành tố cấu tạo nên hệ thống pháp luật. Pháp luật hiện hành tuy không quy định nội dung cũng như giải thích cụ thể như thế nào là tính thống nhất của hệ thống pháp luật, nhưng xem xét quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 khi quy định về nội dung tham gia thẩm tra của ủ y ban pháp luật của Quốc hội đối với các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết để bào đàm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự án, dự thảo này với hệ thống pháp luật đã cho thấy phần nào nội dung "tính thống nhất của hệ thống pháp luật". Như vậy, nội dung tại khoản 3 Điều 46 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 chưa có sự phân định rõ các khái niệm "tính hợp hiến", "tính hợp pháp" và "tính thống nhất". Đồng thời, với cách quy định như vậy, dường như tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất chỉ được xem xét dưới góc độ các văn bản theo các cấp ban hành chứ không đặt trong tổng thể của hệ thống pháp luật. Hơn nữa, với cách quy định phân ra làm hai khoản như trên thì dường như chưa có quy định trong luật về "tính hợp pháp" của các văn bản. Để làm rõ vấn đề này, trước tiên cần phân tích nội dung của quy định trên. 1. Viện ngôn ngữ học/ Trung tâm từ điển học, Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nang, 1995, tr. 921. 219
  4. XÂY DỰNG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT... * về tính hợp hiến: Hiến pháp là văn bản quan trọng nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Các quy phạm của Hiến pháp khi tồn tại độc lập, riêng lẻ với tư cách là các quy phạm (thành tố nhỏ nhất của hệ thống pháp luật) cũng càn được xem xét như các quy phạm pháp luật khác. Chính vì vậy, không thể đặt vấn đề hệ thống pháp luật có phù hợp hay không phù hợp với Hiến pháp mà tính hợp hiến chỉ có thể đặt trong mối quan hệ giữa các quy phạm pháp luật trong các văn bản pháp luật với các quy phạm pháp luật trong Hiến pháp. Tính hợp hiến đòi hỏi tất cả các quy phạm pháp luật trong mọi văn bản quy phạm không được trái hoặc mâu thuẫn với các quy phạm trong Hiến pháp. Như vậy, việc xem xét tính hợp hiến không chỉ được xác định trên cơ sở những lời văn, những quy định cụ thể mà còn trên cơ sở tinh thần, tư tưởng, nguyên tắc thể hiện trong Hiến pháp. Bởi vì, Hiến pháp suy cho cùng cũng chỉ là một văn bản hữu hạn, trong khi đó cuộc sống đòi hỏi các quy phạm điều chỉnh trong nhiều lĩnh vực và vì vậy, các quy phạm trong các văn bản pháp luật dưới Hiến pháp cần bảo đảm sự phù hợp với tinh thần Hiến pháp. Tính hợp hiến được xem xét dưới hai góc độ: phù hợp về thẩm quyền ban hành và phù hợp về nội dung quy định. Ở khía cạnh thứ nhất, sự phù hợp về thẩm quyền ban hành thể hiện ở chỗ khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đặt ra một quy phạm pháp luật thì phải phù hợp với thẩm quyền đã được Hiến pháp quy định, ví dụ như Quốc hội ban hành luật, nghị quyết hoặc quy định các thứ thuế thì đây là thẩm quyền do Hiến pháp quy định cho Quốc hội. Ở khÚ2 cạnh thứ hai, sự phù hợp về nội dung quy định thể hiện ở chỗ một cơ quan khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đặt ra quy phạm pháp luật điều chỉnh về vấn đề nào thì phải bảo đảm vấn đề đó không được trái với r quy định của Hiên pháp. * về tính hợp pháp: Cũng như tính hợp hiến, tính hợp pháp không đặt ra đối với một quy phạm trong hệ thống pháp luật mà cần được 220
  5. Phần thứ ba. Yêu cầu về tính thống nhất... đặt trong chỉnh thể một văn bản quy phạm pháp luật. Chỉ có như vậy mới có thể xác định được tính chất và tiêu chí của tính hợp pháp. Bởi vì, nếu chỉ đơn thuần là một quy phạm pháp luật ữong hệ thống pháp luật thì không thể quy định quy phạm này phải phù hợp với quy phạm kia và ngược lại. Như vậy, tính hợp hiến hay tính hợp pháp phải được đặt trong mối quan hệ giữa một quy phạm nằm trong một văn bản quy phạm pháp luật cụ thể. Hiện nay, bàn về tính hợp pháp có quan điểm cho rằng nó chỉ đòi hỏi cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải ban hành theo đúng thẩm quyền về hình thức, tức là theo đúng thẩm quyền ban hành với hình thức văn bản đã được quy định tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008. Tuy nhiên, tính hợp pháp không chỉ giới hạn ở việc bảo đảm sự tuân thủ thẩm quyền và hình thức mà bao gồm cả đối với nội dung điều chỉnh của mỗi quy phạm pháp luật. Nói cách khác, mỗi quy phạm được ban hành đòi hỏi phải có căn cứ của nó và phải bảo đảm đúng yêu cầu theo căn cứ ban hành. Với những phân tích nêu trên cho thấy, một văn bản, quy phạm đã bảo đảm tính hợp pháp thì chắc chắn là đã bảo đảm tính hợp hiến. Tuy nhiên, một văn bản, quy phạm tuy bảo đảm tính hợp hiến nhưng chưa chắc đã bảo đảm tính hợp pháp. Điều này có vẻ như vô lý nhưng hoàn toàn có khả năng xảy ra, nếu không có quan niệm chính xác về tính thống nhất. * về tính thổng nhất: Khác với tính hợp hiến và tính hợp pháp, tính thống nhất được đặt ra đối với cả hệ thống pháp luật cũng như đối với văn bản quy phạm pháp luật và quy phạm pháp luật. Đối với hệ thống pháp luật, chính do tính "hệ thống" của nó đã đặt ra yêu cầu phải bảo đảm tính thống nhất. Hệ thống pháp luật được cấu tạo nên bởi các thành tố khác nhau, cho nên để bảo đảm được tính thống nhất của hệ thống pháp luật thì giữa các thành tố cấu tạo nên nó phải không có sự mâu thuẫn, chồng chéo với nhau. Cụ thể là, 221
  6. XÂY DỰNG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT... nội dung chính sách phải nhất quán trong toàn hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, giữa các văn bản quy phạm pháp luật, giữa các quy phạm pháp luật trong một văn bản và giữa quy phạm pháp luật trong văn bản này với quy phạm pháp luật trong văn bản khác phải không có sự mâu thuẫn, chồng chéo nhau. Bất cứ một sự mâu thuẫn, chồng chéo nào xảy ra trong hệ thống pháp luật đều phải được phát hiên và loai khỏi hê thốne. vấn đề đăt ra là. khi xảv ra mâu thuẫn đinh thuẫn với quy định trong nghị đảm tính thốne nhất của hê thố Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật - biểu hiện cụ thể của hệ thống pháp luật - bao gồm nhiều loại văn bản khác nhau theo thứ bậc hiệu lực pháp lý, tính thống nhất cùa hệ thống pháp luật đặt ra yêu cầu văn bản có hiệu lực pháp lý thấp phải phù hợp với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn; quy phạm pháp luật do cơ quan cấp dưới ban hành phải phù hợp với quy phạm pháp luật do cơ quan cấp trên ban hành và đều phải phù hợp với quy định của Hiến pháp. Do đó, để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật thì khi xảy ra trường hợp tồn tại một quy định trong văn bản do cấp dưới ban hành trái với với quy định trong văn bản do cơ quan cấp trên ban hành, ví dụ như một quy định trong thông tư mâu thuẫn, trái với quy định trong nghị định của Chính phủ, thì phải loại bỏ quy định trong thông tư vì đây là quy định do cơ quan cấp dưới ban hành. Với những phân tích nêu trên, trong mối quan hệ giữa tính hợp hiến, tính hợp pháp với tính thống nhất cho thấy do tính thống nhất đặt ra đối với hệ thống pháp luật còn tính hợp hiến, hợp pháp chỉ đặt ra đối với văn bản quy phạm pháp luật, các quy phạm pháp luật cụ thể, đây là những thành tố cấu tạo nên hệ thống pháp luật, cho nên tính thống nhất của hệ thống pháp luật bao trùm lên cả tính hợp hiến và tính hợp pháp. Nói một cách khác, khi hệ thống 222
  7. Phần thứ ba. Yêu cầu về tính thống nhất... pháp luật đã bảo đảm được tính thống nhất thì các văn bản quy phạm pháp luật cũng như các quy phạm pháp luật đã bảo đảm được tính hợp hiến và tính hợp pháp. Chính vì vậy, khi phân tích về mối quan hệ giữa tính hợp hiến, tính hợp pháp với tính thống nhất, có thể nói rằng "đây là phạm trù có liên hệ mật thiết với hai phạm trù được trình bày trên (là tính hợp hiến và tính hợp pháp), bởi lẽ, khi văn bản pháp luật đã bảo đảm tính hợp hiến và hợp pháp thì giữa chúng đã đạt được sự thống nhất nhất định, cả về nội dung và hình thức"1. Như vậy, tính thống nhất của hệ thống pháp luật đòi hỏi mỗi quy phạm trong hệ thống pháp luật phải thống nhất một cách tương đối, không mâu thuẫn, chồng chéo với nhau. Nói thống nhất một cách tương đối, bởi vì giữa các quy phạm vẫn có thể có những nội dung khác nhau, vấn đề là quy phạm đó điều chỉnh trong lĩnh vực nào, đặt trong bối cảnh nào và trong một văn bản quy phạm cụ thể nào. Chẳng hạn, các quy định chung ừong Bộ luật dân sự có thể khác với các quy định trong Luật thương mại. Đó là do nguyên tắc điều chỉnh trong dân sự khác trong thương mại. Do đó, cũng không nên nhìn nhận ở đó có sự mâu thuẫn, chồng chéo. Trong trường hợp này, cần đánh giá trên cơ sở lĩnh vực và nguyên tắc điều chinh trong lĩnh vực đó. 1.2. Cóc tiêu chí đảnh giả tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật - Thứ nhất, các quy phạm pháp luật đều phải phù hợp với quy định của Hiến pháp. Sự phù hợp đó không chỉ được nhìn nhận dưới góc độ lời văn của Hiến pháp mà còn phải phù hợp với tinh thần của Hiến pháp; 1. http://nguoidaibieu.com.vn/Trangchu/V"N/tabid/66/CatID/2/ContentID /33294/Default.aspx. 223
  8. XÂY DỰNG * HỆ THỐNG PHÁP LUẬT... - Thứ hai, các quy phạm pháp luật do cơ quan cấp dưới ban hành phải phù hợp với quy phạm do cơ quan cấp trên ban hành. Theo đó, quy phạm do cơ quan cấp dưới ban hành phải dựa trên cơ sở và không được có quy định nào trái quy định của quy phạm do cơ quan cấp trên ban hành; - Thứ ba, các quy phạm pháp luật do ủ y ban nhân dân ban hành phải phù hợp và không được trái với quy phạm do Hội đồng nhân dân cùng cấp ban hành; - Thứ tư, các quy phạm pháp luật do một cơ quan ban hành phải thống nhất với nhau. Theo đó, văn bản, quy phạm do một cơ quan ban hành sau phải phù hợp với văn bản, quy phạm do chính cơ quan mình đã ban hành trước đó; trường hợp có sự khác với quy định của văn bản, quy phạm được ban hành trước đó thì phải đồng thời sửa ngay các quy định trong văn bản đã ban hành trước đó để bảo đảm thống nhất với văn bản được ban hành sau; * - Thứ năm, các quy phạm pháp luật trong một văn bản quy phạm pháp luật phải thống nhất với nhau. Theo đó, các quy định trong nội tại văn bản không được mâu thuẫn với nhau; - Thứ sáu, văn bản quy phạm pháp luật, các quy phạm pháp luật phải phù hợp với các điều ước, thỏa thuận quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Trong quá trình hội nhập quốc tế và mở rộng quan hệ với các nước, Việt Nam đã ký kết, gia nhập làm thành viên của nhiều điều ước quốc tế cũng như ký kết nhiều thỏa thuận quốc tế. Với tư cách là thành viên của điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế, chúng ta có nghĩa vụ phải thi hành nghiêm chỉnh các điều ước, thỏa thuận này. Chính vì vậy, dẫn đến yêu cầu các văn bản pháp luật ban hành phải bảo đảm không được trái, mâu thuẫn hoặc làm cản trở việc thực hiện các điều ước, thỏa thuận quốc tế đó. 224
  9. Phần thứ ba. Yêu cầu về tính thống nhất... 2. Tiêu chí đảm bảo tính minh bạch 2.1. Quan niệm về tính minh bạch Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, một trong những nguyên tắc quan trọng được áp dụng cho pháp luật là minh bạch hóa pháp luật. Không phải ngẫu nhiên mà Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ đã dành nhiều điều khoản để quy định cụ thể về các yêu cầu minh bạch hóa pháp luật và nhìn chung, toàn bộ nội dung của Hiệp định cũng thể hiện nguyên tắc này. Đối với giới luật Việt Nam, "minh bạch hóa pháp luật" là một khái niệm còn khá mới mẻ và vì vậy sự cảm nhận và nhận thức về nó còn đang khá tản mạn và chưa thực sự đầy đủ. Có nhiều quan điểm khác nhau về "minh bạch hóa pháp luật" trong khoa học pháp lý hiện nay. Có quan điểm cho rằng: "minh bạch hóa pháp luật" chính là những yêu cầu về tính đúng đắn, tính tường minh của "chính sách pháp luật". Bởi vì, suy cho cùng "chính sách pháp luật" là linh hồn của cả hệ thống pháp luật. Khi chính sách pháp luật được coi là bộ phận cấu thành của đời sống pháp lý thì sự tường minh của một chính sách pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Theo nghĩa rộng, có thể hiểu "tính minh bạch của pháp luật" là tính rõ ràng, thông suốt, tính đúng đắn của cả hệ thống pháp luật và rộng hơn là đời sống pháp lý. Điều đó thể hiện ở chỗ: - Bắt đầu từ sáng kiến lập pháp phải dựa trên những nhu cầu và cơ sở thực tế của đời sống kinh tế, chính trị nhất định; - Các quy phạm pháp luật phải mang tính hệ thống, nhất quán, chặt chẽ, tránh trùng lặp và mâu thuân; - Pháo luât Dhải tao ra hành * w w tham hệ pháp lý mà rộng hơn là đời sống pháp lý; 225
  10. XÂY DựNG HỆ THỒNG PHÁP LUẬT... - Việc truyền đạt các nội dung pháp lý đến đối tượng thi hành phải kịp thời và đúng thủ tục; - Các cơ quan thi hành pháp luật phải được tổ chức một cách khoa học cũng như các cán bộ, công chức tiến hành các hoạt động áp dụng pháp luật phải được trao những quyền năng độc lập; - Các phán quyết của tòa án phải được công bố công khai trong quần chúng; - Pháp luật phải thực sự đi vào cuộc sổng của nhân dân, tạo niềm tin đối với nhân dân, từng bước nâng cao ý thức pháp luật trong quần chúng. 2.2. Các tiêu chí đánh giá tỉnh minh bạch của hệ thống pháp luật Khi xem xét tính minh bạch của pháp luật theo nghĩa hẹp trong phạm vi tính rõ ràng của nội dung và trình tự ban hành pháp luật, theo đó minh bạch hóa pháp luật là sự đòi hỏi: (i) Pháp luật phải nhất quán; (ii) Pháp luật phải công khai, dễ tiếp cận đối với người dân; (iỉi) Pháp luật phải tin cậy được, phải lường trước được và có thể dự đoán trước được. * Pháp luật phải nhẩt quán Bản thân hệ thống pháp luật là một cơ thể sống hoàn chinh, bao gồm các yếu tố có mối liên hệ logic, chặt chẽ không thể mâu thuẫn, chồng chéo lẫn nhau. Yêu cầu này được đặt ra với cả hệ thống pháp luật, đối với từng lĩnh vực luật và ngay cả đối với từng văn bản pháp luật hoặc quy phạm pháp luật. Trong pháp luật kinh doanh ở Việt Nam hiện nay, tính không nhất quán có thể thấy rất rõ. Một đòi hỏi nữa của tính chất nhất quán là các văn bản hướng dẫn thi hành luật không được mâu thuẫn với đạo luật mà chúng dựa vào, các quy định trong cùng một văn bản không được trái ngược, 226
  11. ____ Phần thứba. Yêu cầu về tính thống nhắt... triệt tiêu nhau. Đặc biệt trong quá trình quan hệ giao lưu thương mại quốc tế ngày càng phát triển, đặt ra cho chúng ta rất nhiều cơ hội và thách thức, đồng thời để thực thi tốt các cam kết quốc tế trong các điều ước quốc tế mà chúng ta đã và sẽ là thành viên trong tương lai thì những hiện tượng này không bao giờ có lý do để tồn tại. Như vậy, một mặt phải dần từng bước tiến hành thống nhất trong nội dung pháp luật quốc gia, một mặt phải chuyển hóa nội dung các cam kết quốc tế vào pháp luật quốc gia. Điều này có ý nghĩa hơn rất nhiều trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, thiết thực hơn cả là quá trình hội nhập AFTA và WTO sẽ được rút ngắn. Để pháp luật ngày càng nhất quán, nhất thiết phải xem xét lại cách thức làm việc của cơ quan dân cử (Quốc hội), bởi vì đây là cơ quan cỏ quyền lập pháp duy nhất mà pháp luật phải tạo ra cho nó một trình tự lập pháp ngày càng nghiêm ngặt. Đồng thời, hạn chế đến mức tối đa việc ban hành các văn bản pháp quy cùa các cơ quan hành pháp. Chúng tôi cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, cần khắc phục ngay tình trạng: Thứ nhất, nhận thức chưa chuẩn xác về quan niệm luật chung - luật chuyên ngành mà gần đây thường được ghi nhận trong Điều 2 của các đạo luật. Cách hiểu hiện nay không những không hoàn toàn phù hợp với lý thuyết chung (của các quốc gia và tổ chức quốc tế) mà thậm chí còn không tuân thủ cả luật về thẩm quyền và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của chính Việt Nam. Thứ hai, tính chất cát cứ và cục bộ trong việc soạn thảo (rồi ban hành) của các văn bản pháp luật nói chung. Trên thực tế, khi cần ban hành một đạo luật, mỗi ngành chủ quản thường được giao chủ trì việc soạn thảo đạo luật về ngành mình. Theo đó, một mặt, ban soạn thảo thường không quan tâm nghiên cứu về tính liên ngành của sự điều chỉnh pháp luật và vì thể gây mâu thuẫn và thiếu nhất quán 227
  12. XÂY DỰNG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT... trong cả hệ thống pháp luật. Mặt khác, vì phải đúng trên quan điểm của ngành nên thường các lợi ích cục bộ và không đồng đều của mỗi ngành đều được đưa ra giành giật khi soạn thảo các đạo luật. Thứ ba, sự thấp kém về tính khoa học pháp lý trong các văn bản pháp luật, đặc biệt là những sai sót về khoa học pháp lý cơ bản. Sự tham gia của giới chuyên môn (nghiệp vụ và pháp lý) vào quá trình soạn thảo văn bản pháp luật nhìn chung là còn mang tính hình thức. Điều đáng nói là những nghiên cứu để tìm cơ sở khoa học cho sự điều chỉnh pháp luật đôi khi được kết luận bằng ý kiến chủ quan của các chính khách, trong khi cuộc sống của pháp luật cũng có triết lý và nguyên tắc riêng của nó mà thậm chí quyền lực nhà nước cũng bị nó giới hạn. Thứ tư, thiếu một cơ chế hữu hiệu để giám sát tính hợp hiến của các đạo luật và hợp pháp của các văn bản dưới luật; thiếu khả năng để đề cao trách nhiệm (cố nhiên, không phải là trách nhiệm vật chất hay hành chính) cho việc ban hành quy định sai, thậm chí có hại cho nền kinh tế và đời sống xã hội. Nói khác đi, đã đến lúc cần lên tiếng về một loại trách nhiệm chính trị, trách nhiệm hiến pháp của những người đã ban hành văn bàn pháp luật vi hiến hay trái luật. Cần phải hiểu được rằng, xuất phát từ tính chất và mục đích đặc thù của hành vi lập pháp nên thiệt hại do những sai lầm trong lập pháp là vô cùng to lớn so với một hành vi pháp lý thông thường. * Pháp luật phải công khai, dễ tiếp cận đổi với người dân Việc xây dựng, ban hành và thực hiện pháp luật phải được tiến hành công khai, tạo điều kiện cho mọi lực lượng trong xã hội bảo vệ và cân bằng lợi ích của mình. Sau khi được ban hành, luật của quốc gia phải được công bố trên công báo, văn bản hành chính của các cơ quan hành pháp phải được công bố bởi các phương tiện thông tin dễ dàng tiếp cận đối với người dân. 228
  13. Phần thứ ba. Yêu cầu về tính thống nhất... Kể tò khi luật về thẩm quyền và thủ tục ban hành các văn bản pháp luật được ban hành và rồi sửa đổi, công tác đăng tải các văn bản quy phạm pháp luật trên công báo đã có sự tiến bộ rõ rệt. Mặc dù vậy, với số lượng văn bản tăng nhanh chóng nên nhiều văn bản không được đăng hoặc đăng chậm, có nhiều văn bản có hiệu lực áp dụng rồi mới được đăng. Bên cạnh việc đăng tải công báo, sự tồn tại của những văn bản không phải là quy phạm pháp luật nhưng lại có tính áp dụng chung là một hiện tượng đang gây ra cho chúng ta rất nhiều khó khăn trong việc đảm bảo nguyên tắc minh bạch cũng như đã có sự phản ứng từ phía các doanh nghiệp về sự tồn tại của chúng. Ở nước ta, không có sự phân biệt rạch ròi giữa văn bản pháp luật và văn bản hành chính. Bên cạnh đó, cổ những loại văn bản có giá trị thi hành trên thực tế song lại khó xếp chúng vào danh mục các loại văn bản pháp luật (thí dụ công văn của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến của Thủ tướng). Đây là một hiện tượng mà phía Hoa Kỳ đã lường trước được khi ký kết Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ nên đã đề nghị đưa vào trong Hiệp định một quy định là: "... đăng tải một cách định kỳ và kịp thời tất cả các luật, quy định và thủ tục hành chính có tính áp dụng chung liên quan đến bất kỳ vấn đề nào được quy định trong Hiệp định...". Thêm nữa, để đời sống pháp lý theo nghĩa rộng ngày càng trở nên dân chủ, thì các bản án được tuyên bởi các tòa án cũng cần được công bổ, chí ít là các bản án đã có hiệu lực của tòa án nhân dân cấp tỉnh và tòa án nhân dân tối cao. Đây là một truyền thống đã được người Pháp du nhập vào Việt Nam, song cho đến nay đã không được duy trì. v ề nguyên tắc, chỉ coi tất cả những quy phạm pháp luật, những tập quán pháp luật và những án lệ (nếu ở Việt Nam được thừa nhận) là có giá trị áp dụng nếu như chúng được công bố công khai 229
  14. XÂY DựNG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT... một cách chính thức. Để đáp ứng yêu cầu này, cần phải cải tiến cách công bố văn bản pháp luật hiện nay. Không thể có những văn bản được coi vào loại "mật" mà không đăng công báo. Hơn thế nữa, cần có những hướng dẫn chính thức về giá trị áp dụng (tùy nghi, lựa chọn) của những thông lệ thương mại đang tồn tại trên thế giới (thí dụ Incoterms). Có một điều đáng bàn thêm là, công báo của ta khi được công bổ bằng tiếng nước ngoài đang thiếu độ chuẩn xác về ngôn ngữ pháp lý. Điều này đã làm cho người nước ngoài không thể hiểu đúng được nội dung pháp luật của ta, dẫn đến việc hiểu không đúng về pháp luật Việt Nam trong quá trình giao lưu và hội nhập pháp luật hiện nay. * Pháp luật phải tin cậy được và dự đoán trước được Một đặc tính của pháp luật là tính công bằng, do đó pháp luật phải đáng tin cậy, phải là những đại lượng tượng trưng cho lẽ phải. Bởi vì an toàn pháp lý là một dịch vụ công cộng mà người dân chờ đợi ở nhà nước. Nếu pháp luật không đáng tin cậy thì thực sự là một điều nguy hiểm. Khi đó, người dân có thể đang sống trong một xã hội có hàng nghìn, hàng vạn văn bản pháp luật nhưng họ lại xử sự với nhau không theo luật, thiếu tính pháp lý. Tình trạng đáng buồn này cũng đồng nghĩa với việc nhà nước không thể hiện được vai trò và quyền lực của mình. Muốn tránh được những tình trạng đó thì việc xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật không được gây ra những cú sốc, ngạc nhiên, bất ngờ cho đối tượng bị áp dụng. Việc sửa đổi, bổ sung pháp luật phải được thông báo công khai trước một thời hạn hợp lý để người dân có thời gian chuẩn bị. Điều ấy ngày càng có ý nghĩa trong việc tạo môi trường ổn định trong kinh doanh. Hơn thế nữa, để có thể lường trước được, trong chừng mực nhất định, những đối tượng xã hội có liên quan đến một văn bản sắp được ban hành cần được tạo điều kiện để họ có ý kiến về nội dung của pháp luật. Quả thực trong thời gian gần đây, Phòng Thương 230
  15. Phần thứ ba. Yêu cầu về tính thống nhất^. mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã có nhiều cổ gắng tổ chức các hoạt động này nhân dịp có những dự thảo văn bản pháp luật mới về kinh tế, song vẫn có thể khẳng định rằng, việc lấy ý kiến đó vẫn chưa tỏ ra là thực chất và đặc biệt đáng buồn là những ý kiến khách quan và phù hợp, đôi khi không được các ban soạn thảo tham khảo một cách nghiêm túc. Gần đây, việc lấy ý kiến về các dự thảo văn bản pháp luật có được tổ chức rầm rộ và đều khắp hơn, song trong quy trình soạn thảo và ban hành văn bản pháp luật vẫn chưa có một quy định và sự khẳng định một cách rõ ràng về giá trị tham khảo của các loại ý kiến của các chính giới - điều lẽ ra cần quy định trong luật về trình tự và thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Tính có thể dự đoán được của pháp luật không chỉ dừng lại ở việc chuẩn bị cho nhận thức về nội dung của pháp luật và tinh thần sẵn sàng áp dụng pháp luật. Một văn bản pháp luật ra đòi và nếu được áp dụng sẽ gây tác động đến đời sống xã hội. Những tác động đó có thể ở hướng tích cực và tiêu cực đối với những đối tượng khác nhau; ở dạng tinh thần và vật chất của việc đưa pháp luật trở thành hiện thực thực tế. Những sự gia tăng hay giảm bớt các chi phí về sức người, sức của khi một văn bản ra đời và đi vào cuộc sống được gọi là giá (hay giá thành) của một đạo luật và việc tính toán (dự toán) đó phải được coi là nhiệm vụ tiên liệu của những người chuẩn bị và ban hành pháp luật. Đáng tiếc là chưa thấy một tờ trình nào đề cập vấn đề này, có chăng chỉ là tranh cãi về cơ quan chủ quản, chủ trì thi hành luật. Tính có thể dự đoán được của luật còn bao gồm cả vấn đề mà trong hoạt động tố tụng, các cơ quan áp dụng pháp luật phải lấy lẽ công bằng là một nguyên lý cho hoạt động của mình. Nếu người dân nhờ đến tòa án giải quyết những tranh chấp mà pháp luật chưa quy định, thì thẩm phán phải lấy lẽ công bằng mà phán xét, chứ không 231
  16. XÂY DỰNG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT... phải trả lại đơn chi vì thiếu văn bản quy định. Để làm được việc này, pháp luật phải trả lại cho tòa án cái quyền mà đáng ra từ truớc đến nay nó không được phép mất: đó là "quyền giải thích pháp luật". Đặc biệt, trong lĩnh vực luật tư cần thiết phải thực hiện nguyên tắc "áp dụng tương tự". Theo thể chế hiến định của Việt Nam, ủ y ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền giải thích luật, song có lẽ vì còn thiếu những quy định về trình tự và thủ tục giải thích pháp luật nên hiệu quả công tác của ủy ban thường vụ Quốc hội trong lĩnh vực này chưa cao. Quả thực là, trên thực tế, Tòa án nhân dân tối cao cũng như Hội đồng thẩm phán của nó vẫn có những vãn bản chỉ đạo và hướng dẫn xét xử trên thực tế. Tuy nhiên, giá trị và bản chất pháp lý của những văn bản kiểu như vậy vẫn là vấn đề cần phải bàn và khẳng định. Trong khi yêu cầu cần nâng cao chất lượng xét xử, thì hiện tại cơ chế hoạt động của tòa án đang tạo ra cho các thẩm phán cách thức xét xử theo những công thức rập khuôn bằng những quy định cứng nhắc trong những văn bản pháp luật. Trong mọi lĩnh vực khác, người dân phải có cơ hội để bày tỏ quan điểm của mình và được giải thích mọi thủ tục cần thiết. Có như vậy pháp luật mới trở thành công cụ, niềm tin của nhân dân và chân lý sống của xã hội. Đây có lẽ cũng là một phương diện cần lưu ý khi xây dựng nhà nước pháp quyền, theo đó, không nên quan niệm rằng, chi có các quy phạm pháp luật nằm trong và ngoài văn bản mới là nguồn gốc để tạo ra công lý và công bằng trong xã hội. 3. Tiêu chí đảm bảo tính hiệu quả 3.1. Quan niệm về tính hiệu quả của pháp luật Trong khoa học pháp lý, hiệu quả của pháp luật là một chủ đề rất phức tạp và có nhiều ý kiến, quan niệm rất khác nhau. 232
  17. Phần thứ ba. Yêu cầu về tính thống nhất... Quan niệm thứ nhất xuất phát từ góc độ xem xét hiệu quả pháp luật từ bản thân pháp luật, coi chất lượng của pháp luật là yếu tố quyết định hiệu quả của pháp luật. Theo đó, khái niệm hiệu quả pháp luật thường được hiểu đồng nhất hoặc về cơ bản với sự đúng đắn, tính tối ưu và có cơ sở của pháp luật nói chung và của bản thân pháp luật nói riêng. Đây là quan điểm xuất hiện rất sớm vào cuối những năm năm mươi, đầu những năm sáu mươi ở Liên Xô1. Quan điểm thứ hai do chú trọng tính thực chứng nên đã cho rằng, có những trường hợp pháp luật được ban hành với chất lượng tốt, với kỹ thuật pháp lý cao, nhưng lại có hiệu quả thấp; ngược lại, có trường hợp pháp luật được ban hành còn có những khiếm khuyết nhất định, nhưng do có sự vận dụng, áp dụng sáng tạo kiên quyết hoặc do những yếu tố khác, lại đạt hiệu quả cao. Cho nên, cần phải xem xét hiệu quả pháp luật từ chính thực tiễn thực hiện và áp dụng pháp luật. Theo đó, hiệu quả pháp luật được hiểu là mức độ đạt được những mục đích và lợi ích xã hội trên thực tế mà vì những điều đó pháp luật được ban hành. Quan điểm thứ ba xuất phát chủ yếu từ góc độ kinh tế, cho rằng cần phải tính đến các chi phí và mức chi phí để xem xét vấn đề hiệu quả pháp luật. Nếu số lượng và mức chi phí trung bình thấp nhưng vẫn đạt được mục đích đề ra khi ban hành quy phạm pháp luật thì hiệu quả pháp luật là cao; ngược lại, nếu số lượng và mức độ chi phí trung bình là cao để đạt được mục đích thì hiệu quả pháp luật là thấp. Theo đó, hiệu quả pháp luật được hiểu là sự đạt được mục đích đề ra khi ban hành quy phạm pháp luật với những chi phí ít nhất. Những chi phí này có thể là chi phí về tài chính, về thời gian, về công sức... vì suy cho cùng, thời gian, công sức cũng là những giá trị có thể và phải được quy đổi thành vật chất. 1. Lê Minh Tâm, "về khái niệm hiệu quả pháp luật và những tiêu chí xác định hiệu quả pháp luật", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11, năm 2000, tr. 46. 233
  18. XÂY DỰNG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT... Quan điểm thứ tư, tuy về cơ bản tán thành với quan điểm thứ ba, nhưng lại thận trọng hơn khi cho rằng, hiệu quả pháp luật là "khả năng của pháp luật có thể tác động được vào các quan hệ xã hội và ý thức xã hội để điều chinh các quan hệ đó với những phí tổn vật chất và tinh thần ít nhất và mang lại kết quả theo hướng cần điều chỉnh và cần được xác định của pháp luật"1. Một quan điểm khác lại coi hiệu quả của pháp luật là "mối quan hệ giữa kết quả thực tế của tác động pháp luật và những mục đích xã hội mà để đạt được chúng, các quy phạm pháp luật đã được ban hành"2. Mỗi quan điểm nói trên đều có yếu tố hợp lý, có căn cứ khoa học và thực tiễn, nhưng chưa đầy đủ, toàn diện. Cụ thể là quan điểm thứ nhất đã rất đúng khi coi chất lượng của pháp luật là điều kiện tiên quyết, là yếu tổ có tính quyết định hiệu quả pháp luật. Nhưng nếu tuyệt đối hóa yếu tố này thì sẽ không thấy được vai trò và ý nghĩa của các yếu tố khác như tổ chức, kinh tế, văn hóa... mà thực tiễn đã chứng minh là cũng không kém phần quan ừọng. Vì vậy, có thể coi việc xem xét hiệu quả pháp luật từ chính bản thân pháp luật là cách tiếp cận ở trạng thái tĩnh, chưa phản ánh được đầy đủ tính phong phú và sinh động của đời sống pháp luật và sự đòi hỏi phải có nhiều biện pháp mới bảo đảm cho pháp luật đạt được hiệu quả mong muốn. Quan điểm thứ hai cũng đã đúng khi nhấn mạnh tính thực chứng, vì chỉ có thể đánh giá được hiệu quà pháp luật khi nó đã đi vào thực tiễn và phát huy tác dụng. Quan điểm này đã khắc họa được nội dung cơ bản của khái niệm hiệu quả pháp luật, mở hướng cho các nghiên cứu về xã hội học để đánh giá hiệu quả pháp luật. Tuy nhiên, quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật 1. Viện Nhà nước và Pháp luật, Những vẩn đề lý luận cơ bản về Nhà nước và Pháp luật, Nxb. Chính tri quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 441. 2. Lê Minh Tâm, "về khái niệm hiệu quả pháp luật và những tiêu chí xác định hiệu quả pháp luật", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11, năm 2000, tr. 47. 234
  19. Phần thứ ba. Yêu cầu về tính thống nhất... dù có quan trọng đến mấy cũng phải dựa cơ bản trên cơ sở của pháp luật thực định; sự linh hoạt và "sáng tạo quá mức” có thể dẫn đến những hậu quả và vi phạm pháp chế. Quan điểm thứ ba đã bổ sung một khía cạnh quan trọng - khía cạnh kinh tế, làm cho khái niệm hiệu quả pháp luật có tính toàn diện và thực tiễn hơn. Quan điểm thứ tư, mặc dù đã mở rộng khái niệm hiệu quả pháp luật tới phạm vi của sự tác động pháp luật, đồng thời xem xét hiệu quả pháp luật trên cơ sở tính đến khía cạnh kinh tế, tạo ra khả năng cho việc nghiên cứu về hiệu quả pháp luật ở những giới hạn rộng hom và ở mức độ sâu hom. Tuy nhiên, do quan niệm hiệu quả pháp luật mới chỉ là "khả năng tác động của pháp luật..." nên quan điểm này chưa phản ánh được đầy đủ tính chất và nội dung cùa khái niệm hiệu quả pháp luật, vì khi nói đến hiệu quả là nói đến cái có thể xác định, đánh giá được trên thực tế. Quan điểm thứ năm đã đi vào cốt lõi của khái niệm đó là "mối quan hệ" giữa kết quả thực tế của tác động pháp luật với những mục đích xã hội của pháp luật. Tuy nhiên, nếu hiểu hiệu quả pháp luật là "mối quan hệ” thì còn chưa bao quát hết những nội dung cần thể hiện của khái niệm. Bởi thế, để xây dựng khái niệm hiệu quả pháp luật cũng cần phải ừở về phân tích bản thân thuật ngữ hiệu quả, từ đó liên hệ với lý luận và thực tiễn pháp luật để hình thành một định nghĩa vừa phản ánh được nét chung vừa thể hiện được những đặc thù của hiệu quả pháp luật. Theo sách Gốc và nghĩa từ Việt thông dụng thì thuật ngữ hiệu quà gồm hai chữ đều có gốc Hán là Hiệu và Quả, trong đó Hiệu có nghĩa là đúng như mong muốn còn Quả là kết cục của sự việc. Theo đó, hiệu quả được hiểu là "có kết cục tốt, đúng như mong muốn"1 mà có thể diễn đạt theo ngôn ngữ hiện đại là kết quả đạt được đúng như mục đích và yêu cầu đặt ra. Tương tự, theo Từ điển tiếng Việt thì hiệu quả là kết quả như yêu cầu của việc làm 1. Vũ Xuân Thái, Gốc và nghĩa từ Việt thông dụng, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội 1999, tr. 378-379. 235
  20. XÂY DỰNG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT... mang lại1. Như vậy, nói về hiệu quả pháp luật bao giờ cũng phải chú ý hai mặt có mối quan hệ hữu cơ là: phải có kết quả thực tế và kết quả đó không phải là do ngẫu nhiên, mà xuất phát từ ý muốn, từ những mục tiêu, yêu cầu có chủ định từ trước và mong muốn đạt được. Do đó, hiệu quả khác với kết quả thông thường vì kết quả chỉ là sự việc sau cùng, là kết cục của sự việc. Sự khác nhau đó cho thấy rằng, trong thực tiễn việc đánh giá kết quả thường dễ hơn rất nhiều so với đánh giá hiệu quả. Việc xác định, đánh giá về một hoạt động, một lĩnh vực, một phương tiện, một hiện tượng có đạt được hiệu quả hay không; hiệu quả đó cao hay thấp... luôn đòi hỏi phải có quan điểm toàn diện và thực tiễn. Với tính cách là một hiện tượng thuộc thượng tầng kiến trúc, pháp luật có quan hệ đa chiều, đa diện, có phạm vi tác động rộng và mọi sự tác động để đạt được hiệu quả đều phải thông qua hành vi cụ thể của con người. Vì vậy, hiệu quả pháp luật có thể phát sinh trực tiếp nhưng cũng có thể phát sinh gián tiếp. Hơn thế, trong nhiều trường hợp pháp luật chỉ thể hiện dưới dạng khung, những khuôn khổ và nguyên tắc để các chủ thể có thể chủ động xác lập và thực hiện những hành vi trong khuôn khổ và theo những nguyên tắc đó. Hiệu quả của pháp luật được biểu hiện ở nhiều mức độ và cấp độ khác nhau: hiệu quả của cả hệ thống pháp luật nói chung, của một ngành luật, một chế định pháp luật, một nhóm quy phạm pháp luật hay chỉ là của một quy phạm pháp luật xác định. Vì vậy, xét theo quan điểm hệ thống thì cũng cần phải có sự phân biệt giữa khái niệm hiệu quả quy phạm pháp luật và hiệu quà cùa từng bộ phận của quy phạm pháp luật (giả định, quy định, chế tài). Tuy nhiên, có thể thấy ràng, dù xem xét ở cấp độ nào, mức độ nào thì mục đích và yêu cầu của pháp luật cũng có thể tìm thấy được để làm cơ sở cho việc đối chiếu, đánh giá. 1. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Năng, 1996, ừ. 424. 236
nguon tai.lieu . vn