Xem mẫu

  1. XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TỪ MỘT CUỘC ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC – SUY NGHĨ VỀ VIỆC XÂY DỰNG BỘ MÁY CHÍNH QUYỀN GẦN DÂN GS.TSKH. NGUYỄN VĂN THÂM Học viện Hành chính C ách đây không lâu, trong khuôn khổ Dự án cải cách hành chính (CCHC) tỉnh Ninh Bình, chúng tôi đã có dịp thực hiện một cuộc khảo sát xã hội học để chuẩn bị cho việc triển khai Dự án giai đoạn II (2007-2010). Cuộc điều tra đã mang lại nhiều kết quả thú vị và rất hữu ích trên nhiều phương diện. Bài viết này xin giới thiệu một khía cạnh của vấn đề từ cuộc khảo sát đó: vấn đề xây dựng một bộ máy chính quyền gần dân trong thực tế. Trước hết xin nói vài nét về cuộc khảo sát của chúng tôi. Dự án CCHC tỉnh Ninh Bình do Chính phủ Na Uy tài trợ, có 5 mục tiêu cụ thể là: 1. Thí điểm các giải pháp CCHC nhằm cải tiến việc cung cấp các dịch vụ để hỗ trợ thực hiện xoá đói giảm nghèo; 2. Tăng cường năng lực tổ chức và nguồn nhân lực cho chính quyền cơ sở; 3. Hỗ trợ cải cách đồng bộ về thể chế và tổ chức để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cả 3 cấp chính quyền địa phương; 4. Nâng cao năng lực và tăng cường sự tham gia của phụ nữ ở cả 3 cấp chính quyền địa phương; 5. Tăng cường năng lực cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận các cấp của địa phương trong việc theo dõi và giám sát thực hiện các quy định của Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở. Địa điểm khảo sát được lựa chọn và tiến hành là 4 xã và một phường thuộc 2 huyện và 1 thị xã của tỉnh Ninh Bình, cụ thể như sau: xã Gia Hoà thuộc huyện Gia Viễn; xã Thạch Bình và xã Cúc Phương thuộc huyện Nho Quan; xã Đông Sơn và phường Nam Sơn thuộc thị xã Tam Điệp.
  2. Trong các địa phương nói trên, Cúc Phương là xã thuộc diện đặc biệt khó khăn, được chương trình Quốc gia về xoá đói giảm nghèo (Chương trình 135) giúp đỡ và trước đây đã tham gia Dự án CCHC giai đoạn I (2001-2004). Các địa phương còn lại lần đầu tiên được lựa chọn để dự kiến sẽ tổ chức thí điểm dự án CCHC giai đoạn II. Việc khảo sát nhằm giúp làm sáng tỏ một số câu hỏi như: cần cải cách việc cung cấp các dịch vụ công như thế nào để chúng có khả năng hỗ trợ tốt nhất cho việc xoá đói giảm nghèo ở các địa phương trong giai đoạn hiện nay? Cần bồi dưỡng những kỹ năng nào cho cán bộ chính quyền cơ sở để giúp họ nâng cao năng lực thực hiện tốt các yêu cầu của công cuộc cải cách nền hành chính theo các mục tiêu mà Chính phủ đã đề ra? Cần đưa ra và thực hiện các giải pháp nào để đề cao được trên thực tế vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong việc giám sát thực hiện các quy định của Chính phủ trong bản Quy chế thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã? Giải pháp nào cần chú trọng triển khai để nâng cao sự bình đẳng giới tại các địa phương thuộc tỉnh Ninh Bình?.v.v... Chính vì thế nó có thể nêu lên nhiều vấn đề về xây dựng một bộ máy nhà nước gần dân mà hiện Đảng và Nhà nước ta đang rất quan tâm. Dưới đây là tóm tắt một số kết quả thu được qua cuộc khảo sát. Được hỏi về các dịch vụ mà chính quyền địa phương thông qua các chính sách chung của Nhà nước đã cung cấp cho người dân để thực hiện xoá đói giảm nghèo cho nhân dân của mình, 96% người được hỏi trả lời là họ được vay vốn để tổ chức sản xuất; 87% trả lời họ được tư vấn kỹ thuật trong sản xuất, canh tác; 67% người trả lời cho biết họ được chính quyền giúp đỡ xây dựng nhà ở, giúp đỡ con em họ có điều kiện học tập. Căn cứ vào kết quả thực tế của việc xoá đói giảm nghèo tại các địa phương Ninh Bình thời gian qua, có thể nhận xét rằng những biện pháp cung cấp dịch vụ mà chính quyền thực hiện thời gian qua đã có tác dụng nhất định. Điều đáng quan tâm hiện nay là chất lượng và hiệu quả của các dịch vụ đó. Trên thực tế, một số hoạt động xoá đói giảm nghèo hiện đang được triển khai tại các địa phương, nhưng việc nâng cao chất lượng các dịch vụ phục vụ người nghèo vẫn còn nhiều điều chưa thực hiện được. Vì vậy, việc phát triển kinh tế bền vững của các địa phương còn hạn chế. Về việc cung cấp các dịch vụ công cho dân, đại đa số người được hỏi cho rằng vai trò của các dịch vụ đó ở mức độ bình thường. Trong số các dịch vụ được nêu để khảo sát, chỉ có dịch vụ cho vay vốn được đánh giá là có vai trò tốt nhất (78% số người trả lời đánh giá tốt trở lên). Điều đó cho phép nêu lên một nhận xét
  3. quan trọng là chính quyền các cấp rõ ràng cũng có thể đã thấy được vai trò của các dịch vụ mà mình cung cấp để giúp cho công cuộc xoá đói giảm nghèo của địa phương mình là quan trọng, nhưng do nhiều nguyên nhân, việc tổ chức các dịch vụ đó còn nhiều hạn chế. Từ cách làm của các cơ quan chưa hiệu quả mà người dân chưa thấy hết ý nghĩa thực sự của mỗi loại dịch vụ xoá nghèo. Rất có thể điều đó là do trình độ tổ chức của các nhà cung cấp dịch vụ còn hạn chế, cũng có thể là do thiếu những thể chế cụ thể và thích hợp nên các dịch vụ đưa ra đã không phát huy được vai trò và tác dụng của mình trong thực tế nên người dân đã không quan tâm. Khảo sát cụ thể hơn về hiệu quả của từng dịch vụ đã được cung cấp tại 5 xã thí điểm, kết quả tổng hợp được cho thấy chỉ có dịch vụ cho vay vốn để giúp xoá nghèo là được đánh giá có hiệu quả nhất (71%). Các dịch vụ còn lại ít hiệu quả. Đánh giá nghiêm túc vấn đề này là rất quan trọng vì nó cho thấy nguyên nhân thực tế đã dẫn đến việc tiếp cận của người nghèo với các dịch vụ do chính quyền hoặc các tổ chức khác cung cấp chưa có hiệu quả như mong muốn. Hơn 80% số người cho rằng các công trình phúc lợi chưa phục vụ người nghèo có hiệu quả. Vì sao họ đánh giá như vậy? Khi được phỏng vấn trực tiếp thêm ngoài câu hỏi, một số không ít người trả lời rằng mặc dù ở các địa phương điều có trạm xá, trường học, nhưng chất lượng phục vụ cho người nghèo thấp, học sinh nghèo thường gặp khó khăn khi đến trường mà việc hỗ trợ thêm thì hầu như rất hạn chế. Những bác sĩ được đào tạo tốt, các giáo viên giỏi, vì nhiều lý do khác nhau, trong đó có lý do lương thấp và điều kiện làm việc không bảo đảm, đã không có nhiều người muốn về nông thôn phục vụ. Đó là một thực tế không riêng gì ở Ninh Bình. Về quan hệ giữa chính quyền địa phương và các đoàn thể trong hệ thống chính trị, đại đa số người dân tham gia trả lời câu hỏi ở tất cả 5 địa phương đều xác nhận rằng việc phối hợp của các đoàn thể với chính quyền địa phương trong việc triển khai chính sách xoá đói giảm nghèo ở địa phương là đúng mức. Nếu hiệu quả của việc thực hiện chính sách đang nói đến chưa cao thì điều đó không phải là do nguyên nhân không có sự phối hợp giữa các cơ quan có trách nhiệm mà là ở các nguyên nhân khác. Đánh giá quá trình làm việc của cán bộ địa phương khi họ tiếp cận với công dân để thực hiện các nhiệm vụ được giao, bên cạnh sự hài lòng của nhiều người thì vẫn còn có một tỷ lệ nhất định công dân không hài lòng với cán bộ địa phương bởi nhiều lý do khác nhau. Lý do đáng nói nhất là do trình độ làm việc hạn chế nên để công việc chậm, người dân phải đi lại nhiều lần mới được giải quyết. Đây là một thực tế đã được người dân nêu lên rất công bằng. Tuy nhiên, cần chú ý rằng nếu sự hài lòng của dân gắn với trách nhiệm của cán bộ thì sự không hài
  4. lòng lại không phải do trách nhiệm thấp mà do năng lực hạn chế của cán bộ gây nên. Do đó, để cải thiện thái độ của dân với cán bộ trong trường hợp sau không thể chỉ là ở chỗ nâng cao tinh thần trách nhiệm mà phải chú ý cải thiện trình độ của cán bộ địa phương để giải quyết công việc cho dân tốt hơn, nhanh chóng hơn. Tiếp tục khảo sát về năng lực chung của cán bộ dưới con mắt của người dân, kết quả tổng hợp cho thấy 43,8% số người trả lời câu hỏi cho rằng năng lực của cán bộ chính quyền địa phương mình là tốt, 53,4% cho là bình thường. Chỉ có 2,7% đánh giá là năng lực còn yếu. Như vậy, những người có trình độ trung bình và yếu đang làm việc trong các xã hiện nay theo người dân đánh giá là hơn một nửa. Còn nhiều người năng lực làm việc bình thường và yếu trong bộ máy chính quyền cơ sở thì hiệu quả làm việc của bộ máy này không cao là điều dễ hiểu. Hạn chế cần chú ý khắc phục của cán bộ chính quyền cơ sở các xã được khảo sát được xác nhận chủ yếu là về nghiệp vụ chuyên môn. Kết quả trao đổi với cán bộ địa phương các xã cũng xác nhận điều này. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là do nguồn cán bộ được tuyển vào làm việc tại các xã nhìn chung có mặt bằng văn hoá thấp và còn ít được đào tạo, bồi dưỡng. Tổ chức cho người dân thực hiện các chủ trương, chính sách đã ban hành dĩ nhiên là nhiệm vụ trọng yếu của chính quyền cơ sở. Điều này làm được tốt hay không lệ thuộc một phần rất lớn vào các phương pháp vận động quần chúng mà chính quyền áp dụng trong thực tế. Yêu cầu của việc vận động là làm cho mọi người hiểu rõ mục tiêu công việc do chính quyền đưa ra để họ tích cực tham gia thực hiện. Đây thuộc về một nguyên tắc trong làm việc: trước khi khởi hành cần biết rõ mình sẽ đi đến đâu. Kết quả khảo sát cho thấy có 66,4% số người trả lời đánh giá bằng phương pháp mà chính quyền áp dụng để vận động quần chúng tham gia thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là thích hợp. 32,2% số người trả lời cho là bình thường. Số người trả lời chưa thích hợp là không đáng kể (1,4%). Được hỏi kỹ hơn về những tồn tại trong phương pháp vận động quần chúng của chính quyền địa phương, có 11,6% số người trả lời cho rằng hiện còn nhiều điều chưa hiểu rõ về các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước mà chính quyền địa phương không giải thích cho người dân. Có 6,8% số người trả lời rằng có những chủ trương, chính sách khi đi vào đời sống đã không được người dân ủng hộ. Tỷ lệ này không cao nhưng rất đáng suy nghĩ về phương diện vận động quần chúng của chính quyền cơ sở. Nguyên nhân của điều này có thể là do một số cán bộ thiếu kỹ năng vận động quần chúng
  5. thực hiện chính sách hoặc do chính bản thân một số chính sách đã được đưa ra không thích hợp với thực tế, chưa đáp ứng được nguyện vọng của người dân. Về trách nhiệm của cán bộ địa phương, 65,1% số người trả lời xác nhận rằng cán bộ địa phương mình đã có trách nhiệm trong công việc. Có 29,5% số người trả lời cho rằng trách nhiệm của cán bộ khi làm việc công là bình thường. Tỷ lệ này phù hợp với câu trả lời về sự hài lòng của người dân với cán bộ của mình trong quá trình tiếp cận và giải quyết công việc cho dân. Những cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm trong bộ máy chính quyền các địa phương được khảo sát được đánh giá là vẫn còn, nhưng tỷ lệ thấp. Về những vấn đề liên quan đến thủ tục hành chính trong quá trình giải quyết công việc cho dân tại các địa phương được khảo sát, có 79,6% số người trả lời câu hỏi xác nhận các thủ tục hành chính đã được công khai hoá và tổ chức thực hiện thuận lợi. Điều này cho thấy kết quả cải cách thủ tục hành chính ở địa phương Ninh Bình thời gian qua là có hiệu quả. Tuy nhiên, nếu cộng cả tỷ lệ những người đánh giá thủ tục hành chính chưa công khai hết với tỷ lệ nói rằng còn những thủ tục chưa được thực hiện thuận lợi thì tỷ lệ đánh giá triển khai thủ tục hành chính chưa tốt cũng còn tới 23% (8,8% + 14,3%). Vẫn còn một tỷ lệ nhất định (6,1%) số người nhận xét giải quyết một thủ tục phải đi qua nhiều cửa, mặc dầu hiện nay cơ chế thực hiện thủ tục hành chính “một cửa” đã được triển khai ở tất cả các địa phương của tỉnh. Ngoài ra, kết quả làm việc tại các xã cũng cho biết hiện nay ở hầu hết các địa phương, cơ chế “một cửa” trong giải quyết thủ tục hành chính chủ yếu vẫn chỉ ở từng cấp chính quyền độc lập, thiếu sự liên thông. Điều này giải thích vì sao còn có một bộ phận người dân được hỏi trả lời rằng một số thủ tục vẫn phải qua nhiều cửa mới có thể giải quyết được. Tại bộ phận “một cửa”, nhiều cán bộ phụ trách trình độ nghiệp vụ còn hạn chế, chưa được huấn luyện thành thạo nên công việc giải quyết không thể nhanh chóng. Về sự sâu sát để tìm hiểu nguyện vọng người dân của cán bộ chính quyền các địa phương được khảo sát, có 49,7% số người trả lời là rất tốt, một số lượng tương đương như thế (48,3%) trả lời là bình thường. Như thế, về cơ bản cán bộ địa phương đã có sự quan tâm để tìm hiểu nguyện vọng người dân. Những biểu hiện còn hạn chế về phương diện này được đánh giá là vẫn còn, nhưng nhìn chung không nhiều. Ví dụ:
  6. Có 14,3% người trả lời câu hỏi cho rằng cán bộ chưa hiểu hết được khó khăn của dân. 8,2% số người trả lời nhận xét rằng cán bộ địa phương chưa tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp xúc với chính quyền các cấp. Có 16,3% số người trả lời nhận xét cán bộ chưa quan tâm giải quyết kịp thời các đề nghị của dân. Cuối cùng, vẫn còn cán bộ cửa quyền, hách dịch với dân, tuy rất ít. Về quản lý tài chính ở địa phương, kết quả khảo sát cho thấy chỉ có hơn 1/2 số người trả lời (56,3%), nói rằng họ được biết hết các khoản chi tiêu từ tiền do dân đóng góp cho các quỹ phúc lợi ở xã. Có 41% số người trả lời chỉ được biết một số khoản. Như vậy, còn gần một nửa số người không biết hết và hơn một nửa số người chỉ biết một số khoản mà chính quyền địa phương đã chi tiêu từ tiền dân đóng góp vào quỹ phúc lợi chung do chính quyền huy động từ dân theo quy định chung. Trên cơ sở số liệu khảo sát như vậy, có thể nói rằng, giảm bớt tỷ lệ những người không biết thông tin về chi tiêu tiền của dân là vấn đề cần quan tâm trong thời gian tới. Tỷ lệ này càng giảm thì chắc chắn lòng tin của người dân với chính quyền ngày càng tăng. Về kết quả giải quyết khiếu nại tố cáo của người dân, có 36,5% số người trả lời câu hỏi cho biết các khiếu nại tố cáo của người dân đã được chính quyền địa phương giải quyết rất tốt. 43,9% đánh giá là giải quyết tương đối tốt. Có 86,2% số người trả lời câu hỏi xác nhận rằng họ có được tham gia vào việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm tra các vụ việc tiêu cực xảy ra tại địa phương mình. Được hỏi về hiểu biết đối với Chương trình tổng thể CCHC do Chính phủ đưa ra cho giai đoạn 2001-2010 hiện đang được thực hiện giai đoạn II trên cả nước, 79,6% số người trả lời cho biết họ đã được giới thiệu và hơn 20% số người trả lời còn lại chưa được biết chương trình đó. Tỷ lệ trả lời về tính thiết thực của nội dung CCHC rất cao cho phép nhận xét rằng người dân các địa phương rất mong đợi công cuộc CCHC được tiến hành đồng bộ. Cả 4 phương diện của cải cách nền hành chính, phương diện nào cũng đều được đánh giá là cấp thiết cần phải cải cách.
  7. Được hỏi về những mong muốn đối với Nhà nước trong quá trình CCHC, 91,7% số người trả lời câu hỏi đề nghị cần đơn giản hoá các thủ tục hành chính phục vụ dân. Trên thực tế, nhiều thủ tục hành chính thời gian qua theo quy định mới của Chính phủ cũng đã được đơn giản hoá nhưng những thủ tục phiền hà vẫn còn tồn tại trong một số lĩnh vực thiết yếu có liên quan đến đời sống người dân mà ở phần khảo sát trên đây đã có nói đến. Tỷ lệ cao những người trả lời mong muốn thủ tục hành chính cần đổi mới cho thấy đây vẫn còn là điều bức xúc hiện nay của nhân dân. Một tỷ lệ số người trả lời câu hỏi tương tự như tỷ lệ trên đề nghị cần tăng cường bồi dưỡng cho cán bộ chính quyền để họ làm việc có hiệu quả hơn. Điều này cũng phù hợp với kết quả khảo sát ở phần nói về trình độ đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở. Nó cho thấy người dân rất quan tâm đến trình độ của cán bộ cơ sở và biết rằng với trình độ hiện có họ không thể giải quyết mọi công việc cho dân có hiệu quả. Có 83,3% số người trả lời câu hỏi đề nghị làm cho bộ máy chính quyền gọn nhẹ hơn. 87,5% số người trả lời đề nghị cần làm cho luật pháp cụ thể, dễ hiểu và dễ thực hiện hơn. Đề nghị này có nhiều người tán thành chứng tỏ người dân đã có sự tiếp cận nhiều với luật pháp và nhận ra rằng luật pháp hiện hành của Nhà nước có nhiều trường hợp thiếu cụ thể, khó hiểu và khó thực hiện. Khi được phỏng vấn trực tiếp về điều này, nhiều người tham gia trả lời thuộc các địa phương khác nhau đã đưa ra những ví dụ cụ thể minh hoạ cho tính khó hiểu, khó thực hiện của pháp luật từng nhìn thấy ở địa phương mình. Cho nên đây cũng cần xem là một đề nghị cần quan tâm hiện nay trong quá trình CCHC. Tìm hiểu nhận thức của người dân về những khó khăn của địa phương mình trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế thế giới, 69,7% số người trả lời câu hỏi khó khăn lớn nhất là về cán bộ; 51,4% số người trả lời cho là khó khăn về tài nguyên hạn hẹp; 67,6% cho rằng khó khăn lớn nhất là từ phía trình độ dân trí của người dân so với các địa phương khác thấp hơn. Đặc biệt, có 80,3% số người trả lời câu hỏi cho rằng khó khăn lớn nhất chính là trình độ khoa học kỹ thuật hạn chế. Những đánh giá trên đây cho thấy nhân dân các địa phương hiểu khá đầy đủ và rõ ràng những khó khăn của mình trong thời kỳ mới của sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước cũng như hội nhập kinh tế thế giới. Tỷ lệ người trả lời cho thấy khoa học kỹ thuật là nội dung rất được quan tâm. Muốn công nghiệp
  8. hoá và hiện đại hoá thành công, đây cần phải là nội dung được ưu tiên giải quyết tốt. Kế đến là nguồn nhân lực. Sự quan tâm của người dân về những khó khăn của các địa phương cần được xem là cơ sở để chính quyền địa phương các cấp có những định hướng thích hợp khi đề ra các giải pháp cho sự phát triển kinh tế - xã hội trước mắt cũng như lâu dài của địa phương mình. Từ những kết quả khảo sát được tại các địa phương Ninh Bình vừa trình bày tóm tắt trên đây, chúng tôi xin nêu một vài suy nghĩ về việc xây dựng một bộ máy chính quyền gần dân để các cơ quan chức năng và những ai quan tâm cùng tham khảo như sau: Thứ nhất, một chính quyền gần dân phải nghe được tiếng nói của dân càng trực tiếp càng tốt. Để làm được điều đó cần có cơ chế và những cách thức thích hợp, linh hoạt. Cơ chế đó phải thể hiện được tính dân chủ thực sự của bộ máy nhà nước, tạo được điều kiện cho người dân nói lên tiếng nói của mình một cách trực tiếp. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói rằng, dân chủ là phải để cho dân nói lên được tiếng nói của mình. Không nghe được tiếng nói trực tiếp của người dân hoặc chỉ muốn nghe dân nói theo ý của mình là một căn bệnh của chính quyền mà từ những năm 50 của thế kỷ trước Bác Hồ đã cảnh báo cần phải nhanh chóng khắc phục. Bác nói: “Không gần gũi dân thì không hiểu biết dân. Không hiểu biết dân thì không học hỏi được những kinh nghiệm và sáng kiến của dân. Không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân”(1). Bệnh xa dân trước hết là bệnh không nghe được hết tiếng nói của dân trong quá trình giải quyết các công việc cho dân. Đó là điều rất đáng quan ngại. Cuộc khảo sát của chúng tôi, dù chỉ trong một phạm vi hẹp, cũng đủ để cho thấy nếu nghe trực tiếp được người dân chúng ta sẽ biết được rất nhiều điều thú vị về chính cách làm việc của mình. Hãy học tập Bác Hồ, luôn tìm cách trực tiếp gặp gỡ người dân dù họ ở tầng lớp nào và khuyến khích dân nói lên niềm mong ước cụ thể của họ. Thứ hai, một chính quyền gần dân phải có khả năng làm được những điều mà dân mong đợi một cách thực tế chứ không phải trên lời nói. Tại các địa điểm mà chúng tôi khảo sát ở Ninh Bình, nơi nào làm tốt các yêu cầu của dân, nơi đó được dân rất tin cậy và sẵn sàng nói lên nguyện vọng của mình. Điều đó có vẻ như đơn giản, nhưng thực sự rất quan trọng bởi chính quyền không ít nơi hiện nay, tuy nói rất hay nhưng thực sự không giải quyết được những đề nghị của dân, dù rất nhỏ. Đó không phải là một chính quyền gần dân dù có nói tốt thế nào. Thứ ba, muốn chính quyền được dân tin cậy, cán bộ cần có năng lực hành động thực sự. Giải quyết công việc cho dân không để chậm trễ. Chúng ta thường
  9. nhấn mạnh đến tư cách đạo đức của cán bộ. Điều đó là hoàn toàn đúng và cần thiết, vì đó là cái gốc phải được luôn luôn vun trồng. Nhưng chỉ nhấn mạnh một chiều điều đó mà quên rằng, đạo đức cách mạng phải bao gồm trong đó cả tri thức, cả sự hiểu biết để làm việc tốt, mà thiếu nó, thì như trong thực tế cho thấy, đó là đạo đức suông. Không biết làm việc và làm việc một cách hiệu quả, đạo đức suông không mang lại một giá trị gì thực tế cả! Từ những ngày đầu xây dựng chính quyền mới ở các cấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn cán bộ các địa phương rằng: “Muốn cho dân yêu, muốn được lòng dân, phải giải quyết hết các vấn đề dầu khó khăn đến đâu mặc lòng những vấn đề quan hệ đến đời sống của dân. Phải chấp đơn, phải xử kiện cho dân mỗi khi người ta đem tới”(2). Thứ tư, một chính quyền gần dân phải thực hiện trên thực tế việc giải thích những chính sách của mình đã đề ra cho dân hiểu. Dân không hiểu được chính sách của Đảng và Nhà nước, dù chính sách đó đúng đắn đến đâu, đó cũng là một chính quyền xa dân. Những thắc mắc của dân không được giải quyết, áp đặt quan điểm của mình cho người dân một cách cứng nhắc, thậm chí thô bạo thì đó quyết không phải là một chính quyền gần dân, một chính quyền mà người dân mong muốn. Lại một lần nữa chúng ta phải nhắc tới lời dạy của Bác Hồ: “Cán bộ chính quyền và cán bộ đoàn thể địa phương phải cùng nhau bàn tính kỹ càng, cùng nhau chia công rõ rệt, rồi cùng nhau đi giải thích cho dân hiểu, cổ động dân, giúp dân đặt kế hoạch, tổ chức nhân công, sắp xếp việc làm, khuyến khích, đôn đốc, theo dõi, giúp đỡ dân giải quyết những điều khó khăn”(3). Cuối cùng, một chính quyền gần dân mà thực tế đang đòi hỏi phải là một chính quyền tạo được cho dân nói lên tiếng nói thực sự của mình chứ không phải chỉ nói theo chính quyền. Khi người dân có điều kiện nói lên tiếng nói của mình chúng ta sẽ có thể biết được người dân cần gì và mình phải làm gì để củng cố chính quyền ngày càng vững mạnh ./. Ghi chú: (1), (3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.111; tr.699. (2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr.47-48.
nguon tai.lieu . vn