Xem mẫu
- đối với các ghi chép khác nhau trên cùng một chứng thư hộ tịch ?
Hẳn pháp luật về hộ tịch còn cần được hoàn thiện ở điểm này.
Người yêu cầu thay đổi, cải chính. Người có tên trong Giấy
khai sinh có quyền yêu cầu thay đổi cải chính hộ tịch cho mình.
Trong trường hợp người này chưa đủ 18 tuổi hoặc đã thành niên
mà không có năng lực hành vi, thì việc thay đổi, cải chính hộ tịch
cho người này do cha, mẹ hoặc người giám hộ yêu cầu (Nghị
định đã dẫn Ðiều 53 khoản 2). Ðối với người chưa thành niên từ
đủ 9 tuổi trở lên phải có sự đồng ý của người đó (cùng điều luật).
- Thẩm quyền và thủ tục thay đổi, cải chính. Cơ quan có thẩm
quyền cho phép việc thay đổi, cải chính là UBND tỉnh nơi cư trú
hoặc nơi đăng ký khai sinh của người có đơn yêu cầu (Nghị định
đã dẫn Ðiều 52).
Người có yêu cầu thay đổi, cải chính hộ tịch phải nộp đơn kèm
theo các giấy tờ cần thiết do luật quy định12[12]. Ðơn phải nói rõ
lý do và các nội dung xin thay đổi, cải chính, có xác nhận của
UBND xã nơi người yêu cầu cư trú (Nghị định đã dẫn Ðiều 53
khoản 1). Trong trường hợp nơi nộp đơn không phải là nơi đăng
ký khai sinh, thì đơn phải có xác nhận của UBND xã nơi đăng ký
khai sinh (cùng điều luật).
12[12] Xem lại thủ tục thay đổi họ, t ên.
- Thời hạn giải quyết việc thay đổi, cải chính hộ tịch là 15 ngày kể
từ ngày nhận đủ hồ sờ hợp lệ (Ðiều 53 khoản 2). Quyết định cho
phép thay đổi, cải chính hộ tịch được đăng ký vào sổ đăng ký
thay đổi, cải chính hộ tịch do Sở tư pháp giữ và được ghi nhận
trên bản chính giấy khai sinh của đương sự.
D. Giá trị chứng minh của chứng thư hộ tịch
Chưa có giải pháp chắc chắn. Luật viết hiện hành không có quy
định rõ ràng về giá trị chứng minh của chứng thư hộ tịch. Thực
tiễn, về phần mình, có xu hướng thừa nhận rằng chứng thư hộ
tịch là bằng chứng về những việc đã được ghi nhận trong chứng
- thư đó: ngày sinh của một người được ghi trong giấy khai sinh là
ngày sinh đích thực; việc một người được ghi tên trên giấy chứng
tử cho phép tin rằng người có tên đó đã chết;… Luật không phân
biệt giá trị chứng minh của chứng thư hộ tịch tuỳ theo ghi chép
trên đó được hay không được viên chức hộ tịch đích thân và trực
tiếp kiểm chứng.
Tuy nhiên, các bằng chứng được thiết lập bằng giấy khai sinh
không phải là bằng chứng tuyệt đối, bởi, như ta đã biết, chứng
thư hộ tịch có thể được cải chính hoặc thay đổi nội dung. Mặt
khác, cần lưu ý rằng trong trường hợp có tranh cãi về tính xác
thực của một ghi nhận nào đó trong giấy khai sinh, thì có vẻ như
người bảo vệ giá trị của ghi nhận đó phải chứng minh về tính xác
thực của nó, cũng như người bác bỏ ghi nhận đó phải tìm cách
- chứng minh về tính không xác thực của nó. Nói cách khác, cả hai
bên trong một vụ tranh chấp về tính xác thực của một ghi nhận
nào đó trong chứng thư hộ tịch đều có trách nhiệm chứng minh
ngang nhau trong luật Việt Nam13[13].
III. Nơi cư trú
13[13] Trong luật của Pháp, các ghi nhận trong chứng thư hộ tịch mà được viên chức hộ tịch
đích thân và trực tiếp kiểm chứng có tính xác thực và chỉ có thể bị bác bỏ thông qua thủ tục đăng
cáo giả mạo (inscription de faux) rất phức tạp. Các ghi nhận khác trong chứng thư có giá trị
chứng minh cho đến khi có bằng chứng ngược lại, nghĩa là trách nhiệm chứng minh, trong
trường hợp có tranh cãi, thuộc về người nào không thừa nhận tính xác thực của các ghi nhân đó.
- Sự cần thiết của việc xác định nơi cư trú. Hộ tịch giúp phân
biệt một cá nhân với một cá nhân khác. Nhưng để xác lập và
thực hiện các giao dịch với người khác, cá nhân phải ở trong tình
trạng có thể được liên lạc. Cá nhân không liên lạc được không
thể được coi là chủ thể hiện thực của quyền và nghĩa vụ pháp lý:
người ta sẽ không biết làm thế nào gọi người đó đến để tiếp nhận
việc thực hiện một nghĩa vụ hoặc để đáp ứng quyền yêu cầu của
một người khác.
Trong quan niệm truyền thống, đời sống pháp lý của cá nhân
nhất thiết phải gắn với một nơi chốn nào đó. Luật gọi nơi chốn đó
là nơi cư trú. Chế định nơi cư trú là biện pháp định vị cá nhân
trong không gian, về phương diện pháp lý. Nơi cư trú phải là một
điểm cố định trên lãnh thổ chứ không thể là một điểm di động.
- Điều đó cũng có nghĩa rằng mỗi người chỉ có một nơi cư trú: một
người có nơi cư trú tại nhiều hơn một điểm cố định coi như luôn
di động giữa các điểm cố định đó.
Ta lần lượt nghiên cứu chức năng của nơi cư trú và cách xác
định nơi cư trú.
A. Chức năng của nơi cư trú
Ðịa chỉ liên lạc của cá nhân và nơi lưu trữ các dữ kiện cơ
bản về hộ tịch. Nơi cư trú theo nghĩa pháp lý không nhất thiết là
nơi cư trú theo nghĩa vật chất. Con người có thể liên tục thay đổi
nguon tai.lieu . vn