Xem mẫu

  1. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 14 - 2022 VẤN ĐỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN Trương Kim Phụng* Trường Đại học Tây Đô (Email: tkphung@tdu.edu.vn) Ngày nhận: 01/11/2021 Ngày phản biện: 25/01/2022 Ngày duyệt đăng: 01/3/2022 TÓM TẮT Quan hệ vợ chồng gồm quan hệ về nhân thân và quan hệ về tài sản. Khi ly hôn dẫn đến chấm dứt quan hệ về nhân thân còn quan hệ về tài sản của vợ chồng tùy thuộc vào việc vợ chồng có yêu cầu chia tài sản chung hay không. Trên thực tế việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn còn nhiều vấn đề bất cập, do luật quy định chưa rõ ràng về tỷ lệ phần trăm khi xác định công sức đóng góp của vợ chồng, các vấn đề về thời hiệu yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn, về quyền của chủ thể thứ ba có thể yêu cầu chia tài sản chung hay không? Những vấn đề này pháp luật về hôn nhân và gia đình còn bỏ ngỏ, dẫn đến việc áp dụng luật trong những trường hợp này gặp nhiều khó khăn, thậm chí bị lợi dụng để gây hại về tài sản cho chủ thể khác (trước hết là 2 bên trong quan hệ). Chính vì vậy cần phải nghiên cứu và làm rõ vấn đề này để góp phần hoàn thiện pháp luật về Luật Hôn nhân và gia đình nói chung và chế định chia tài sản khi ly hôn nói riêng. Từ khóa: Chia tài sản chung, công sức đóng góp, tỷ lệ phân chia Trích dẫn: Trương Kim Phụng, 2022. Vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô. 14: 131-139. * Ths. Trương Kim Phụng – Phó Trưởng Bộ môn Luật, Trường Đại học Tây Đô 131
  2. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 14 - 2022 1. KHÁI QUÁT VỀ TÀI SẢN đãi mà vợ chồng được nhận theo quy CHUNG CỦA VỢ CHỒNG định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng, quyền tài sản khác Trong quá trình vợ chồng chung sống, gắn liền với nhân thân của vợ chồng, ngoài quan hệ nhân thân thì giữa vợ hoặc tài sản mà vợ, chồng được xác lập chồng còn có quan hệ về tài sản. Tài sản quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật chung giữa vợ và chồng có vai trò quan Dân sự. trọng, là một điều kiện góp phần đảm bảo cho đời sống chung của vợ chồng, là Thu nhập là hoa lợi, lợi tức phát sinh khối tài sản được hình thành trong thời từ tài sản, bất kể tài sản gốc là tài sản kỳ hôn nhân giữa họ. “Tài sản chung riêng hay tài sản chung, hoa lợi, lợi tức gồm có các tài sản do vợ hoặc chồng tạo phát sinh từ những tài sản đó đều là tài ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản sản chung. Tài sản do vợ chồng tạo ra xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát trong thời kỳ hôn nhân gồm có: Vật, sinh từ tài sản riêng và những thu nhập tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản2. hợp pháp khác của vợ chồng trong thời Những tài sản này có thể phải đăng ký kỳ hôn nhân; Tài sản mà vợ chồng được quyền sở hữu nếu thuộc đối tượng phải thừa kế chung hoặc được tặng cho đăng ký quyền sở hữu theo quy định của chung và những tài sản khác mà vợ pháp luật. “Tài sản thuộc sở hữu chung chồng thoả thuận là tài sản chung”1. của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy Tài sản do vợ chồng tạo ra trong thời chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của kỳ hôn nhân là tài sản do vợ hoặc chồng cả vợ và chồng, trừ trường hợp vợ chồng tạo ra để phục vụ cho mọi nhu cầu của có thỏa thuận khác”. Trong trường hợp gia đình và đáp ứng về mặt tinh thần lẫn giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy vật chất trong cuộc sống hôn nhân. Các chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ thu nhập phát sinh từ lao động, hoạt ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì giao động sản xuất kinh doanh, hoa lợi, lợi dịch liên quan đến tài sản này được thực tức phát sinh từ tài sản riêng và các thu hiện theo quy định tại Điều 26 của Luật nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn này, nếu có tranh chấp về tài sản đó thì nhân cũng được tính vào tài sản chung được giải quyết theo quy định tại khoản của vợ chồng. Theo Điều 9 Nghị định số 3 Điều 33 của Luật này. 126/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn Ví dụ Chị L và anh Q đăng ký kết hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định rõ ngày 10/01/2012. Tháng 02/2013, anh Q “thu nhập hợp pháp khác” của vợ chồng mua một căn nhà ở quận BT bằng tiền trong thời kỳ hôn nhân có thể là tiền tiết kiệm của hai vợ chồng, giấy chứng thưởng, tiền trúng thưởng xổ số, tiền trợ nhận quyền sở hữu căn nhà do anh Q cấp; Trừ trường hợp khoản trợ cấp, ưu đứng tên. Sau đó, anh Q cho anh V thuê căn nhà trong thời hạn 12 tháng, tiền 1 Khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 2 Khoản 1 Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015 132
  3. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 14 - 2022 thuê là 5 triệu đồng/tháng. Ngày họ đối với nhau. Tuy nhiên, quan hệ về 01/3/2015 ba mẹ chị L cho vợ chồng L tài sản có thể chấm dứt hoặc chưa, tùy và Q một chiếc xe ôtô trị giá 700 triệu thuộc vào ý chí của họ có muốn chia tài đồng. Trong tình huống này, căn nhà, sản chung khi ly hôn hay không. Chia tài chiếc xe ô tô và tiền thuê nhà đều là tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn cần sản chung của vợ chồng Chị L và anh Q, tuân thủ theo những nguyên tắc của luật Trong đó, căn nhà và xe ô tô là tài sản hôn nhân và gia đình, theo hướng tôn mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền trọng sự thỏa thuận của hai vợ chồng, sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền đồng thời phải đảm bảo công bằng, bình sở hữu phải ghi tên của cả vợ và chồng L đẳng cũng như bảo vệ quyền lợi cho các và Q. Tuy nhiên, căn nhà chỉ ghi tên anh thành viên trong gia đình nhất là phụ nữ Q thì giao dịch liên quan đến tài sản này và trẻ em. được thực hiện theo quy định tại Điều 26 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT của Luật Hôn nhân và gia đình 2014. VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA Tài sản chung của vợ chồng là tài sản VỢ CHỒNG KHI LY HÔN chung hợp nhất. Vợ chồng đều có quyền Pháp luật về Luật Hôn nhân và Gia bình đẳng như nhau trong việc bảo quản, đình đã có những quy định tạo cơ sở sử dụng và định đoạt đối với tài sản pháp lý cho việc giải quyết những tranh chung của họ. Trong cuộc sống hôn chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn, nhân, khi mục đích hôn nhân không đạt nhằm đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn được, đời sống vợ chồng bị ảnh hưởng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho nghiêm trọng, khiến cho việc chung các đương sự. Việc phân chia tài sản sống không thể tiếp tục, vợ chồng có thể chung của vợ chồng khi ly hôn cần phải chấm dứt quan hệ hôn nhân thông qua thực hiện dựa trên các nguyên tắc theo chế định ly hôn. “Ly hôn là việc chấm quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết gia đình năm 2014. Cụ thể như sau: định có hiệu lực pháp luật của Tòa án”3. Theo đó, việc chấm dứt quan hệ vợ Khi ly hôn, vợ chồng tranh chấp liên chồng có thể thực hiện khi một bên vợ quan đến tài sản chung trường hợp có hoặc chồng yêu cầu hoặc hai bên vợ áp dụng chế độ tài sản vợ chồng theo chồng thuận tình, được Tòa án công thỏa thuận nhận bằng bản án ly hôn hay bằng quyết Chế độ tài sản theo thỏa thuận là các định công nhận thuận tình ly hôn. Khi quy tắc do chính vợ, chồng xây dựng Quyết định hoặc bản án của Tòa án có nên nhằm điều chỉnh quan hệ tài sản của hiệu lực thì quan hệ hôn nhân của họ sẽ vợ chồng. Chế độ tài sản này tồn tại chấm dứt, họ không còn là vợ, chồng song song cùng với chế độ tài sản theo của nhau nữa và chấm dứt trách nhiệm luật định. Vợ chồng có quyền lựa chọn pháp lý cũng như quyền và nghĩa vụ của áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận. Tuy 3 Khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 nhiên, thỏa thuận chế độ tài sản vợ 133
  4. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 14 - 2022 chồng phải được lập trước khi kết hôn, theo luật định. “Trong trường hợp chế bằng hình thức văn bản có công chứng độ tài sản của vợ chồng theo luật định hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ thì việc giải quyết tài sản do các bên chồng có hiệu lực kể từ thời điểm đăng thỏa thuận; Nếu không thỏa thuận được ký kết hôn. Vì vậy, khi ly hôn mà có yêu thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của cầu chia tài sản chung thì Tòa án sẽ xem hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy xét, nếu có văn bản thỏa thuận về chế độ định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này tài sản của vợ chồng và văn bản này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của không bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn Luật này. Trong trường hợp chế độ tài bộ thì áp dụng các nội dung của văn bản sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì thỏa thuận để chia tài sản của vợ chồng việc giải quyết tài sản khi ly hôn được khi ly hôn. Đối với những vấn đề không áp dụng theo thỏa thuận đó; Nếu thỏa được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng thuận không rõ ràng hoặc bị vô hiệu thì quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 áp dụng các quy định áp dụng theo luật và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, định. 63 và 64 của Luật này để giải quyết.”4. Vợ chồng tranh chấp liên quan đến Như vậy, nếu như trước khi kết hôn giữa tài sản chung trường hợp áp dụng chế vợ, chồng có thỏa thuận về chế độ tài độ tài sản vợ chồng theo luật định khi sản (thỏa thuận này hợp lệ) thì khi ly ly hôn hôn tài sản sẽ được chia theo thỏa thuận đó; Ngược lại nếu vợ chồng không có Khi ly hôn vợ chồng tranh chấp liên thỏa thuận chọn chế độ tài sản theo thỏa quan đến tài sản chung mà vợ chồng thuận thì sẽ áp dụng chế độ theo luật không có áp dụng chế độ tài sản vợ định. Theo quy định của pháp luật, khi chồng theo thỏa thuận hoặc có thỏa ly hôn vợ chồng cũng có quyền thỏa thuận về chế độ tài sản chung nhưng thuận về việc phân chia tài sản chung thỏa thuận này vô hiệu thì sẽ áp dụng giữa họ. Trong một số trường hợp vợ chế độ tài sản vợ chồng theo luật định. chồng không thể thỏa thuận được với Bên cạnh chế độ tài sản theo thỏa nhau và phát sinh mâu thuẫn trong việc thuận, Luật hôn nhân và gia đình cũng phân chia tài sản, khi đó tài sản sẽ được quy định chế độ tài sản theo luật định để giải quyết như sau “Nếu không thỏa làm cơ sở giải quyết tranh chấp tài sản thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chung của vợ chồng khi ly hôn. Các chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án nguyên tắc giải quyết tranh chấp tài sản giải quyết theo quy định tại các khoản 2, vợ chồng khi ly hôn trong trường hợp 3, 4, 5 Điều 59 và tại các Điều 60, 61, chế độ tài sản vợ chồng theo luật định cụ 62, 63, 64 của Luật Hôn nhân và gia thể như sau: đình 2014. - Tôn trọng sự thỏa thuận của vợ chồng. Nguyên tắc này được áp dụng cả hai chế độ tài sản theo thoản thuận và 4 Khoản 1 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. 134
  5. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 14 - 2022 - Tài sản chung của vợ chồng về chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia nguyên tắc được chia đôi nhưng có tính tài sản thì được thanh toán phần giá trị đến các yếu tố làm ảnh hưởng đến việc tài sản của mình đóng góp vào khối tài duy trì và phát triển khối tài sản chung sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa của vợ chồng. Đó là các yếu tố: Hoàn thuận khác. - Bảo vệ quyền, lợi ích hợp cảnh của gia đình và của vợ, chồng. pháp của vợ, con chưa thành niên, con Công sức đóng góp của vợ, chồng vào đã thành niên mất năng lực hành vi dân việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sự hoặc không có khả năng lao động và sản chung. Lao động của vợ, chồng không có tài sản để tự nuôi mình. trong gia đình được coi như lao động có 3. NHỮNG BẤT CẬP VÀ KIẾN thu nhập; Bảo vệ lợi ích chính đáng của NGHỊ VỀ VIỆC CHIA TÀI SẢN mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp HÔN tục lao động tạo thu nhập; Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của Chia tài sản chung của vợ chồng căn vợ chồng là lỗi của vợ hoặc chồng.5 cứ vào công sức đóng góp của mỗi người Theo đó, khi tiến hành chia tài sản Về nguyên tắc chia tài sản chung vợ chung vợ chồng phải tính đến công sức chồng khi ly hôn là chia đôi nhưng có đóng góp của các bên, đây là phần công tính đến công sức đóng góp của vợ, sức mà họ được nhận để đảm bảo sự chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát công bằng, cân bằng lợi ích và việc phân triển khối tài sản chung. Công sức đóng chia không làm ảnh hưởng lớn đến cuộc góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy sống của các bên sau khi ly hôn. trì và phát triển khối tài sản chung là sự - Tài sản chung của vợ chồng được đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, chia bằng hiện vật, nếu không chia được công việc gia đình và lao động của vợ, bằng hiện vật thì chia theo giá trị, bên chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc giá trị lớn hơn phần mình được hưởng chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà thì phải thanh toán cho bên kia phần không đi làm được tính là lao động có chênh lệch. thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức - Bảo đảm quyền sở hữu tài sản riêng đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều của vợ, chồng. Tài sản riêng của vợ, hơn6. Tuy nhiên, vấn đề xác định công chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào lập, duy trì và phát triển khối tài sản tài sản chung theo quy định của Luật chung của vợ chồng hiện nay còn chưa này. Trong trường hợp có sự sáp nhập, được quy định cụ thể, rõ ràng như: Tỷ lệ trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản phân chia như thế nào? Quy định về việc 5 Theo Khoản 2 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 6 Điểm b khoản 4 Điều 7 Thông tư liên tịch số 01- năm 2014 2016-TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP 135
  6. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 14 - 2022 xác định thu nhập của người vợ hoặc Trường hợp bên có hành vi phá tán tài chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà sản chung, làm thiệt hại đến tài sản không đi làm được tính là lao động có chung thì có chỉ nhận tối đa 30%…. thu nhập tương đương với thu nhập của Quyền yêu cầu chia tài sản chung chồng hoặc vợ đi làm chưa được hướng giữa vợ và chồng của chủ thể thứ ba dẫn cụ thể. Thực tế việc xác định công sức đóng góp mới chỉ mang tính chất Khi ly hôn, dù thuận tình ly hôn hay định tính chứ không có một định lượng đơn phương ly hôn thì tòa án đều yêu rõ ràng dẫn đến cách hiểu, cách áp dụng cầu đương sự thể hiện ý kiến của mình không thống nhất. Pháp luật không có về hai vấn đề quan trọng đó là: Vấn đề bất kỳ một hướng dẫn nào về tỷ lệ phân con chung và tài sản chung giữa vợ và chia, việc xác định thu nhập của người chồng. Trên thực tế có nhiều trường hợp, vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia vì nhiều nguyên nhân khác nhau, vợ đình mà không đi làm, do đó, dẫn đến chồng chỉ yêu cầu tòa án giải quyết về việc áp dụng luật không nhất quán giữa việc chấm dứt quan hệ vợ chồng (quan các thẩm phán trong quá trình xét xử và hệ nhân thân), còn quan hệ tài sản thì điều này hoàn toàn phụ thuộc vào quan không yêu cầu tòa án giải quyết. Quyền điểm xét xử. Do đó, cơ quan có thẩm yêu cầu chia tài sản chung khi ly hôn là quyền cần có văn bản hướng dẫn thống quyền với riêng của vợ, chồng. Pháp luật nhất, tỷ lệ phần trăm khi chia tài sản hiện hành hiện chỉ quy định quyền yêu chung trong trường hợp này nên là 50 % cầu chia tài sản chung vợ chồng khi lỳ - 50%. hôn là quyền của vợ, chồng mà chưa quy định cho người thứ ba (người có quyền Như vậy, tài sản chung của vợ chồng đối với vợ, chồng) được quyền này. Quy trong thời kỳ hôn nhân, cần phải xem xét định này dẫn đến có trường hợp vợ thật khách quan, toàn diện từ nguồn gốc chồng thỏa thuận không yêu cầu chia tài hình thành tài sản, giá trị của tài sản, sản chung nhằm mục đích trốn tránh công sức quản lý, giữ gìn tài sản, sự cần nghĩa vụ của vợ, chồng với người thứ thiết và hiệu quả của công sức đã bỏ ra ba. Thực tế cho thấy, có trường hợp vợ để bảo quản, quản lý và giữ gìn tài sản. chồng khi ly hôn nhưng tài sản chung Do đó, để quy định trên được áp dụng vẫn không phân chia, về quan hệ nhân thống nhất trong việc phân chia tài sản thân đã chấm dứt, nhưng tài sản chung chung giữa các Tòa án, cần xây dựng bộ trong thời kỳ hôn nhân vẫn còn thuộc sở tiêu chuẩn định lượng rõ, dự liệu các hữu chung giữa họ. Họ thống nhất giao trường hợp xảy ra để xác định phần trăm tài sản chung cho một bên quản lý, sử cụ thể góp phần thống nhất áp dụng dụng. Trong khi bên có nghĩa vụ với pháp luật. Chẳng hạn như bên có công người thứ ba thì không trực tiếp quản lý nhiều hơn trong việc hình thành tài sản, tài sản này, điều này làm ảnh hưởng đến quản lý và giữ gìn tài sản thì chia tài sản việc thực hiện nghĩa vụ bên thứ ba nhiều hơn (60%), bên có công sức đóng nhưng bên thứ ba lại không có quyền góp ít hơn thì nhận phần ít hơn (40%); yêu cầu tòa án phân chia tài sản chung 136
  7. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 14 - 2022 giữa vợ chồng họ. Như vậy, nếu không yêu cầu ly hôn mà chưa yêu cầu giải cho người thứ ba được quyền yêu cầu quyết về tài sản chung hoặc chỉ yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng khi ly giải quyết về một phần của tài sản hôn không đảm bảo quyền và lợi ích hợp chung; Điều này dẫn đến thực tế là họ pháp của người thứ ba. không còn là vợ chồng nhưng vẫn là Pháp luật về hôn nhân và gia đình cần đồng chủ sở hữu đối với tài sản chung bổ sung quy điṇh về quyền yêu cầu chia chưa được phân chia. Khi các đồng chủ tài sản chung khi ly hôn nhân cho bên sở hữu muốn chia tài sản chung thì có thứ ba. Theo đó, nếu có căn cứ cho rằng, thể yêu cầu tòa án giải quyết bằng vụ án vợ chồng không yêu cầu Tòa án chia tài dân sự khác và pháp luật không hạn chế sản chung khi ly hôn để nhằm mục đích về thời hiệu khởi kiện trong trường hợp trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản, này. Quy định này dưới gốc độ quan hệ thì người thứ ba có thể yêu cầu Toà án dân sự là phù hợp vì tách biệt hai nhóm chia tài sản chung của vợ chồng khi ly quyền là quyền về nhân thân và quyền hôn. Đồng thời, pháp luật cũng cần quy về tài sản giữa vợ và chồng. Khi ly hôn định rõ các trường hợp hạn chế quyền thì quan hệ nhân thân của họ sẽ chấm yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng dứt, nhưng quan hệ tài sản thì được tôn khi ly hôn như yêu cầu của người thứ ba trọng sự thỏa thuận giữa các đồng chủ sở không được công nhận trong trường hợp ̣ hữu. Tuy nhiên, theo tác giả việc pháp việc chia tài sản chung ảnh hưởng luật không quy định về thời hiệu khởi nghiêm trọng đến gia đình hoặc bản thân kiện chia tài sản chung của vợ chồng sau vợ, chồng có nghĩa vụ có đủ tài sản khi ly hôn có điều chưa hợp lý, có khi riêng để thanh toán các khoản nợ. ảnh hưởng đến cuộc sống của một bên vợ hoặc chồng sau khi đã ly hôn, nhất là Mặt khác, nếu một trong hai bên trường hợp một trong hai bên xác lập muốn trốn tránh nghĩa vụ với bên thứ ba, quan hệ hôn nhân mới. Lúc bấy giờ tài tự thỏa thuận giao tài sản cho bên còn lại sản chung của quan hệ hôn nhân cũ có và tòa án công nhận thỏa thuận này rồi khi bị ảnh hưởng. Hơn nữa, bên đồng thì sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của bên chủ sở hữu còn lại có khi ảnh hưởng đến còn lại. Do đó, pháp luật cần có quy quan hệ hôn nhân mới (do yếu tố tình định về việc thỏa thuận sẽ vô hiệu nếu cảm). Luật hôn nhân gia đình quy định để trốn tránh nghĩa vụ…Quy định như tài sản chung của vợ chồng là tài sản vậy sẽ tránh được sự can thiệp của bên chung hợp nhất, có nghĩa là vợ, chồng thứ ba vào ý chí của 2 bên trong quan hệ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau khi hôn nhân về vấn đề tài sản của họ. thực hiện quyền của chủ sở hữu. Điều Về thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia này là khó thực hiện khi các bên không tài sản chung giữa vợ và chồng còn là vợ chồng. Tác giả cho rằng, khi các bên không còn là vợ chồng mà tài Như đã trình bày ở trên, việc ly hôn sản chung chưa phân chia, về nguyên tắc không nhất thiết phải chia tài sản chung tài sản chung này vẫn còn là tài sản chung của vợ chồng. Đương sự có quyền chỉ hợp nhất thì không phù hợp. 137
  8. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 14 - 2022 Bên cạnh đó, quan hệ tài sản là quan hệ rõ ràng về các truờng hợp này để góp dân sự, Bộ luật Dân sự 2015 có quy định phần hoàn thiện pháp luật về Luật Hôn về thời hiệu khởi kiện để yêu cầu tòa án nhân và gia đình nói chung và chế định giải quyết đối với các tranh chấp liên quan chia tài sản khi ly hôn nói riêng. đến tài sản: Thừa kế, hợp đồng, bồi TÀI LIỆU THAM KHẢO thường thiệt hại, giao dịch vô hiệu… Đồng thời, Bộ luật Dân sự 2015 cũng có 1. Ngô Thị Anh Vân, Đặng Lê những quy định về thời hiệu khởi kiện liên Phương Uyên, 2019. Thỏa thuận chia tài quan đến tài sản chung của vợ chồng như: sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn Có người thứ ba xâm phạm tài sản chung nhân. Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam thì các đồng sở hữu có quyền khởi kiện số 06. trong thời hạn 2 năm kể từ ngày quyền sở 2. Nguyễn Ngọc Điện, 2002. Bình hữu bị xâm phạm;Một trong hai đồng sở luận khoa học Luật hôn nhân và gia đình hữu tự ý giao dịch đối với tài sản chung Việt Nam, Tập 1. NXB Trẻ. Thành phố thì đồng sở hữu kia có quyền tuyên bố Hồ Chí Minh. giao dịch vô hiệu trong thời hạn cụ thể mà pháp luật quy định. Tuy nhiên, quy định 3. Nguyễn Ngọc Điện, Đoàn Thị về thời hiệu khởi kiện để chia tài sản Phương Diệp, 2018. Pháp luật về quan hệ chung của vợ chồng sau khi ly hôn thì tài sản giữa vợ chồng. NXB Đại học Quốc pháp luật còn bỏ ngõ. gia Thành phố Hồ Chí Minh. 4. KẾT LUẬN 4. Nguyễn Thị Thu Hà, 2017. Thực tiễn giải quyết tranh chấp chia tài sản của Tranh chấp tài sản chung của vợ chồng vợ chồng khi ly hôn tại Tòa án nhân dân khi ly hôn là một hiện tượng phổ biến. Bởi thành phố Hà Nội. Luận văn thạc sĩ. Đại lẽ khi quan hệ hôn nhân chấm dứt thì vợ, học Luật Hà Nội. chồng muốn giải quyết các vấn đề liên quan đến hôn nhân của họ như: Con 5. Quốc Hội, 2015. Số chung, tài sản chung, nợ chung… Trong 91/2015/QH13, ngày 24/11/2015. Bộ luật các mối quan hệ đó, tranh chấp về tài sản Dân sự. chung là dạng tranh chấp phổ biến nhất. 6. Quốc Hội, 2014. Số Qua phân tích, tác giả đã thấy được thực 52/2014/QH13, ngày 19/6/2014. Luật Hôn tiễn giải quyết các vụ việc liên quan đên nhân và gia đình. chia tài sản chung của vợ chồng khi ly 7. Tòa án nhân dân tối cao, Viện hôn còn nhiều vướng mắc, bất cập. Chẳng kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, hạn như: Xác định công sức đóng góp của 2016. Thông tư liên tịch số vợ, chồng, các vấn đề về thời hiệu yêu cầu 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly BTP, ngày 06/01/2016 hướng dẫn thi hành hôn, về quyền của chủ thể thứ ba có thể một số điều của Luật Hôn nhân và gia yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng đình. khi ly hôn. Chính vì vậy pháp luật cũng cần có những quy định hướng dẫn cụ thể, 138
  9. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 14 - 2022 PROBLEMS ABOUT PROPERTY DIVISION DURING A DIVORCE Truong Kim Phung Tay Do University (Email: tkphung@tdu.edu.vn) ABSTRACT A marriage relationship includes the marital relationship and the property relationship. A divorce that leads to the termination of the marital relationship, and the property relationship between spouses, depends on whether the husband and wife request to divide the common properties or not. In fact, regarding the division of common properties of spouses after divorce, there still remains a lot of inadequacy, because the law has not clearly outlined details regarding the method of determining the percentage contribution of the spouses during their marriage; issues about the prescriptive period for requesting the division of spouses’ common properties after divorce; and the right of a third party, such as a judge, to determine whether they can request to divide the common properties. These issues are still omitted in "marriage and family law", leading to many difficulties in applying the law in these cases, and are even being used to cause property damage to other people (first of all, the two parties in the relationship). Therefore, it is necessary to study and clarify this issue in order to perfect the "marriage and family law" in general and the institution of property division after divorce in particular. Keywords: Common properties division, contribution effort, division ratio 139
nguon tai.lieu . vn