Xem mẫu

  1. Vai trò phụ nữ tham gia quản lý nhà nước 03/02/2004 - Tin tức chung Nhandan.org.vn, 2/3/2004 Số phụ nữ tham gia quản lý nhà nước hiện nay đã tăng nhiều so với trước đây nhưng tỷ trọng lại có xu hướng giảm. Bên cạnh đó, phụ nữ chủ yếu đảm nhiệm cấp phó Ðảng và Nhà nước ta luôn quan tâm phát huy vai trò của phụ nữ trong xã hội và trong quản lý nhà nước (QLNN). Chỉ thị 37/CT-T.Ư ngày 16-5-1994 khẳng định: "Nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội là một yêu cầu quan trọng để thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ của phụ nữ, là điều kiện để phát huy tài năng, trí tuệ và nâng cao địa vị của phụ nữ". Phụ nữ tham gia QLNN là một bảo đảm để các vấn đề giới được phản ánh trong quá trình ra quyết định, là sự khẳng định về năng lực và trí tuệ của mình. Phụ nữ Việt Nam chiếm 51,48% số dân và 48% lực lượng lao động toàn xã hội, và chiếm khoảng 20% cán bộ làm công tác lãnh đạo và QLNN các cấp từ T.Ư đến cơ sở. Trong đó, số nữ Ủy viên T.Ư Ðảng khóa VII là 12, khóa VIII tăng lên 18 (tuy vậy khóa IX lại còn 12). Ở cấp tỉnh, tỉnh ủy viên là nữ cũng tăng từ 182 ở khóa VII lên 280 trong khóa VIII. Phụ nữ tham gia các cấp ủy địa phương đạt 10- 11%, trong đó bí thư, phó bí thư, ủy viên thường vụ đạt từ 3% đến 8%. Phần lớn các chị tham gia thường vụ cấp ủy đều được phân công công tác kiểm tra và dân vận. Về chính quyền, trong khóa VIII, tỷ lệ nữ Bộ trưởng và tương đương chiếm 13,1%, nữ Thứ trưởng và tương đương chiếm 7,4%; nữ vụ trưởng, vụ phó và tương đương chiếm 13%. Chủ tịch UBND cấp tỉnh, huyện và xã có khoảng 1,6% là nữ. Phó Chủ tịch UBND là 2 - 4%. Khóa 1999 - 2004, số nữ là đại biểu HÐND cấp tỉnh chiếm 22,5%, cấp huyện chiếm 20,7%, cấp xã chiếm 17%. Nữ đại biểu QH khóa X là 26,22%, khóa XI là 27,31%. Việt Nam là nước có tỷ lệ nữ đại biểu QH cao thứ hai trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương (sau New Zealand).
  2. Sự gia tăng số lượng nữ tham gia QLNN chứng tỏ chất lượng, trình độ cán bộ lãnh đạo của nữ giới ngày càng nâng cao. Hiện nay, phụ nữ chiếm tỷ lệ 61% những người có trình độ cao đẳng, 34% những người có trình độ đại học, 30% những người có trình độ thạc sĩ, 21% những người có trình độ tiến sĩ và 4% những người là tiến sĩ khoa học. Mặt bằng học vấn này đã giúp phụ nữ tham gia ngày càng tốt hơn công tác QLNN. Theo đánh giá của Văn phòng QH, việc tham gia xây dựng pháp luật và chính sách, đóng góp ý kiến cho công tác QLNN và tọa đàm với cử tri của các nữ đại biểu QH ngày càng có chất lượng. Vì vậy, các chị càng thêm tự tin, trình bày ý kiến đại diện cho người dân và cho chính giới nữ trong các kỳ họp của QH. Hiện nay, số cán bộ công chức (CBCC) nữ tham gia công tác QLNN trong hệ thống chính quyền các cấp nhiều hơn so với trước: Một Phó Chủ tịch nước, ba Bộ trưởng, 26 thứ trưởng và tương đương, hai Chủ tịch UBND, 22 Phó Chủ tịch UBND tỉnh. Tuy nhiên, tỷ lệ CBCC nữ tham gia lãnh đạo ở cấp bộ, vụ còn thấp, mới khoảng 8 - 15%, chưa tương xứng lực lượng lao động và năng lực đóng góp của phụ nữ. Trong thực tế, phụ nữ Việt Nam đang có mặt ở hầu hết cơ quan quản lý hành chính, sự nghiệp và doanh nghiệp. Phụ nữ chiếm 50,3% số người làm công ăn lương và 32,4% các chủ doanh nghiệp. Trong số hơn 300 nghìn doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, có khoảng 15% do phụ nữ đứng đầu hoặc nắm giữ cương vị chủ chốt. Tỷ lệ phụ nữ làm quản lý doanh nghiệp của một số ngành: dệt, may mặc, giày dép, thực phẩm, đồ uống... chiếm hơn 50%, ở các ngành giao thông - vận tải, xây dựng, khai khoáng... có 20% người quản lý doanh nghiệp là nữ. Trong số 900 nghìn hộ kinh doanh gia đình, có 27% do phụ nữ điều hành. Mặc dù Ðảng, Nhà nước đã có chủ trương cụ thể, chính sách rõ ràng, song tỷ lệ nữ CBCC tham gia QLNN còn ít. Tỷ lệ nữ CBCC là lãnh đạo trong các cấp ủy đảng, chính quyền, các ngành và các cơ quan nghiên cứu khoa học lại càng thấp.
  3. Hơn nữa, nữ lãnh đạo thường chỉ liên quan các lĩnh vực xã hội. Rất hiếm nữ CBCC làm lãnh đạo trong lĩnh vực quản lý kinh tế, kế hoạch, nghiên cứu khoa học. Tỷ lệ cán bộ nữ trong các cấp ủy đảng từ T.Ư đến cơ sở chỉ chiếm khoảng 10 - 11%. Trong các cấp ủy đảng, số nữ CBCC giữ vị trí trọng trách rất ít. Tỷ lệ trung bình nữ CBCC ở vị trí chủ chốt như bí thư, phó bí thư, ủy viên thường vụ chỉ khoảng 3-8% ở mọi cấp. Phần lớn các ủy viên thường vụ trong các cấp ủy đảng chỉ được phụ trách những công việc hành chính liên quan đến động viên hơn là những nhiệm vụ chiến lược. Sự khác biệt này đã hạn chế ảnh hưởng của phụ nữ trong nhiều lĩnh vực công tác. So với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, số lượng nữ ở các cương vị QLNN chưa tương xứng vai trò, vị trí và những đóng góp của họ trong các hoạt động phát triển. Trước đây, tỷ lệ nữ CBCC tham gia QLNN trong ngành công nghiệp chiếm gần 20%, nay giảm xuống còn 10%. Có thể nói, đội ngũ cán bộ nữ giảm sút không chỉ ở các cơ quan dân cử mà còn ở các bộ, ngành và cơ quan chính quyền. Sự thiếu hụt cán bộ nữ trên một số lĩnh vực quan trọng làm cho việc hoạch định kế hoạch, chính sách không có tiếng nói đại diện của phụ nữ, dẫn đến thực hiện bình đẳng giới về mọi mặt chưa đạt kết quả mong muốn. Cán bộ nữ đã ít, lại bị hạn chế bởi tuổi về hưu và tuổi đề bạt. Hiện nay, cơ cấu tuổi của cán bộ nữ khá cao, hầu hết cán bộ nữ làm quản lý đều ở tuổi trên dưới 50, trong khi nhiều nữ thanh niên hiện nay ngại làm chính trị, chỉ thích làm chuyên môn. Trong khi tỷ lệ cán bộ nữ vốn đã thấp, thì lãnh đạo là nữ chủ yếu đảm nhiệm cấp phó giúp cho trưởng (nam). Ở những vị trí này, phụ nữ không có thực quyền, quan niệm trọng nam, khinh nữ vẫn còn phổ biến và coi phụ nữ chỉ là "giúp việc" cho nam giới. Còn có hiện tượng xem xét, cất nhắc chị em vào các vị trí lãnh đạo diễn ra khó khăn hơn so với nam giới. Trong một cơ quan, phụ nữ thường bị nhìn nhận xét nét hơn, cơ quan chủ quản chưa nhận thấy ở chị em một cách đầy đủ những điểm mạnh nổi bật về chuyên môn, uy tín. Hiện nay, đội ngũ nữ chỉ chiếm 4% giáo sư, 25% tiến sĩ và 9% số người được trao tặng các giải thưởng về khoa học - công nghệ, chứng tỏ việc đào tạo nhân
  4. lực trong giới nữ chưa tương xứng yêu cầu của sự nghiệp giải phóng phụ nữ và nguyện vọng chị em. Những năm qua, tuy số lượng phụ nữ tham gia QLNN tăng lên về con số tuyệt đối, song tỷ trọng lại có xu hướng giảm. Th.s NGUYỄN QUỐC TUẤN, NGUYỄN HẢI HÀ (Học viện Hành chính quốc gia) News Archives View all Tin tức chung news View the latest news http://viet.vietnamembassy.us/tintuc/story.php?d=20040302101725 Từ các nguồn tin khác Thực hiện bình đẳng giới trong công tác quản lý nhà nước (08/12/2009) Ngày nay, khi đất nước đã bước vào kỷ nguyên hội nhập với thế giới, vấn đề nam nữ bình quyền lại càng được chú trọng hơn bao giờ hết. Công tác xây dựng pháp luật theo nguyên tắc bình đẳng giới đã được Nhà nước thể hiện trong các văn kiện, , nghị quyết của Đảng và thể chế hóa trong các văn bản pháp luật, ngày càng tạo điều kiện và cơ hội trao quyền bình đẳng về pháp lý cho cả nam và nữa trong mọi. Tuyên dương những gương phụ nữ điển hình trong phong trào thi đua yêu nước
  5. Luật Bình đẳng giới được Quốc hội thông qua cuối năm 2006 và có hiệu lực thi hành từ 01/7/2007 quy định khá rõ nội dung, lĩnh vực, trách nhiệm, biện pháp thực hiện bình đẳng giới. Với hơn hai năm thực hiện Luật Bình đẳng giới, quyền về lao động, quyền được đào tạo, quyền tham gia các hoạt động cũng như tiếp cận các dịch vụ xã hội của phụ nữ ngày càng được khẳng định và thực chất hơn. Tại Đồng Nai, Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TU về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, UBND cũng đã ban hành văn bản chỉ đạo về thực hiện kế hoạch hành động Vì sự tiếp bộ Phụ nữ tỉnh Đồng Nai. Từ sự quan tâm, chỉ đạo đó đã đặt ra trách nhiệm đối với các cấp, các ngành trong việc nâng cao nhận thức, trách nhiệm về bình đẳng giới. Đào tạo nghề cho lao động nữ Trong kế hoạch hành động vì sự tiếp bộ phụ nữ tỉnh giai đoạn 2006-2010 xác định 5 mục tiêu cụ thể: lồng ghép giới trong xây dựng kế hoạch ngành lao động thương binh và xã hội, lồng ghép giới trong xây dựng kế hoạch giáo dục- đào tạo, lồng ghép giới trong xây dựng kế hoạch phát triển y tế - chăm sóc sức khỏe nhân dân, nâng cao quyền năng của phụ nữ trên các lĩnh vực CT-KT-VH,tăng cường năng lực và hiệu quả vì sự tiến bộ phụ nữ. Trong đó, đưa ra các mục tiêu cụ thể như: giảm 50% tỷ lệ hộ nghèo do phụ nữ làm chủ, tỷ lệ lao động nữ được đào tạo 53-55%, tỷ lệ xóa mù chữ cho phụ nữ mù chữ ở độ tuổi dưới 40 là 100%; tỷ lệ nữ cán bộ cong chức được đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, bồi dưỡng về chính trị - hành chính, tin học, ngoại ngữ là 40%. Hiện toàn tỉnh có 23.268 viên chức nữ, trong đó trình độ chuyên môn trên đại học 86 người, đại học 2.774, cao đẳng là 5.854, trung cấp là 8.883. Trình độ lý luận chính trị: trung cấp 496, cao cấp 121, cử nhân 76. Tỷ lệ phụ nữ tham gia các cấp ủy Đảng (nhiệm kỳ 2005-2010) đạt 20,41%, tỷ lệ nữ tham gia HĐND cấp tỉnh nhiệm kỳ 2004 – 2009 chiếm 31,5%, tỷ lệ đại biểu Quốc hội là nữ ở Đồng Nai khóa XII là 30%; nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ đạt 20% (năm 2008) và 30% tại các đơn vị sự nghiệp...
  6. Biểu dương gia đình nữ cán bộ CNLĐ-VC tiêu biểu Vấn đề bình đẳng giới tại Đồng Nai trong thời gian qua được quan tâm thực hiện khá tốt, tuy nhiên không phải ai cũng nhận thức đúng tầm quan trọng của việc thực hiện bình đẳng giới. Tồn tại hiện nay là trình độ học vấn nghề nghiệp của phụ nữ còn thấp so với nam giới, chưa đáp ứng được yêu cầu của CNH-HĐH. Tư tưởng trọng nam coi thường nữ, tệ phân biệt đối xử với phụ nữ còn khá phổ biến. Gánh nặng công việc gia đình làm cản trở phụ nữ tiến bộ. Một bộ phận chị em phụ nữ vẫn còn lạc hậu, chậm chuyển biến nhận thức về giới và quyền bình đẳng giới của phụ nữ, còn tự ti, thiếu tự tin phấn đấu vươn lên trong nhiều lĩnh vực hoạt động. Ở các vùng sâu, vùng xa, cơ sở vật chất còn thiếu thốn ảnh hưởng đến sức khỏe hưởng thụ văn hóa, tinh thần, vật chất của phụ nữ… Trong thời gian qua hoạt động lồng ghép bình đẳng giới trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đạt nhiều kết quả thiết thực. Tuy nhiên, để những kết quả này tiếp tục phát huy đem lại lợi ích thiết thực cho chị em phụ nữ, mỗi đơn vị, sở ngành cần có sự quan tâm hỗ trợ, chương trình hành động cụ thể nhằm giúp chị em có cơ hội hoàn thành nhiệm vụ, vai trò trong công tác của mình, đồng thời phải đẩy mạnh tuyên truyền để nâng cao nhận thức về bình đẳng giới cho mọi tầng lớp trong xã hội. L.L http://www.dic-dongnai.gov.vn/content/view/5751/376/ Bình đẳng giới: Dự luật còn nhiều vấn đề cần tranh cãi Cập nhật lúc 00:49, Thứ Ba, 03/10/2006 (GMT+7) , (VietNamNet) - Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Hà Thị Khiết khẳng định: "phần quyết định sẽ thuộc về quyền lựa chọn của số đông, phương án nào được nhiều đối
  7. tượng đồng tình, Ban soạn thảo Luật Bình đẳng giới tiếp tục tiếp thu, chỉnh sửa, đưa ra trình Quốc hội trong kỳ họp tới". * Giao lưu trực tuyến " Xung quanh dự thảo Luật bình đẳng giới " Dự thảo Luật Bình đẳng giới sẽ trình kỳ họp Quốc hội kỳ này có sáu chương, 49 điều. Qua nhiều kỳ hội nghị, hội thảo cho thấy, đông đảo ý kiến cho rằng, Luật Bình đẳng giới là cần thiết, là cơ sở pháp lý thực hiện thúc đẩy bình đẳng giới trong thực tế cuộc sống, góp phần quan trọng vào việc thực hiện công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ. Nhà văn Võ Thị Hảo khẳng định rằng: ”Bình đẳng giới là lẽ tự nhiên, như phàm là cây cỏ thì có quyền vươn lên đón ánh mặt trời. Bất bình đẳng giới, không chỉ gây mất cân bằng mà còn gây tai họa cho sinh thái tự nhiên và con người. Vì thế, hãy soạn thảo thật tốt và đón nhận Luật Bình đẳng giới như đón nhận một tay vịn pháp lý dành cho chính mỗi người dù bất kể gíới nào". Tuy nhiên, cho đến nay theo Website của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam “vẫn còn những vấn đề gây nhiều tranh cãi và đặc biệt thu hút sự quan tâm chú ý của đông đảo cơ quan báo chí”. Vấn đề tuổi nghỉ hưu đã được các cơ quan báo chí tranh luận sôi nổi. Nhiều ý kiến cho rằng, điều kiện hưởng lương hưu của cán bộ, công chức và lao động nam nữ như nhau và trong trường hợp lao động nữ có nguyện vọng có quyền nghỉ sớm từ 1-5 năm mà vẫn không bị trừ phần trăm lương là hợp lý. Tuy nhiên, không ít người vẫn còn băn khoăn: vấn đề là ai muốn nghỉ ở tuổi 55, còn ai muốn nghỉ ở tuổi 60 và dư luận còn cho rằng, lao động nữ muốn tiếp tục làm việc ở tuổi 60 là chỉ có lợi cho những người có vị trí lãnh đạo hoặc làm việc trong những ngành nghề có thu nhập cao. Bên cạnh đó là lý do sức khoẻ, công việc nội trợ, chăm sóc gia đình. Vậy phải chăng để đạt được sự "bình đẳng hình thức" này, cần có hàng loạt các biện pháp hỗ trợ để đảm bảo "Bình đẳng thực chất” như: chế độ về lương, thưởng, thi đua trong thời gian phụ nữ nghỉ đẻ, chế độ đào tạo bồi dưỡng khác
  8. biệt so với nam giới, đảm bảo quyền có "việc làm nhân văn" cho mỗi người lao động? Về vấn đề tỷ lệ nữ tham gia các cơ quan dân cử, công tác quản lý lãnh đạo, đa số ý kiến cho rằng: việc trúng cử hay được tính nhiệm đề bạt, cất nhắc phụ thuộc vào chất lượng đại biểu, năng lực, trình độ của cán bộ nữ. Tuy nhiên, trong khi định kiến giới vẫn còn nặng nề, nếu không quy định tỷ lệ cụ thể thì mục tiêu bình đẳng giới khó thực hiện được, cán bộ nữ khó có điều kiện phát triển. Luật càng cụ thể hoá càng dễ thực hiện. Nếu quy định cụ thể tỷ lệ, khi Luật được thông qua, đi vào cuộc sống, lãnh đạo các cơ quan, đơn vị bắt buộc phải quan tâm, chú trọng tới vấn đề tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nữ. Vậy tỉ lệ lãnh đạo của nữ giới có nên quy định mức tối thiểu 30% không? Tỉ lệ này trong dự thảo chỉ bắt buộc cho các cơ quan dân cử, chưa có các cơ quan Đảng và chính phủ? Việc áp đặt tỉ lệ này phải chăng là một biện pháp đặc biệt nhằm thúc đẩy bình đẳng giới?. Còn về vấn đề cơ quan quản lý Nhà nước, có ý kiến cho rằng, không nhất thiết phải có cơ quan chuyên trách quản lý Nhà nước về bình đẳng giới nhưng nếu không có thì việc thực hiện cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn bởi chính quyền các cấp, nhất là ở cơ sở đã có rất nhiều vấn đề để giải quyết, dễ dẫn tới tình trạng đùn đẩy trách nhiệm lên cấp trên. Có ý kiến cho rằng, có thể nâng cấp cơ quan hiện có như UB Dân số Gia đình và Trẻ em hoặc UB Quốc gia vì Sự tiến bộ Phụ nữ thông qua sự chỉ đạo trực tiếp của một vị lãnh đạo chính phủ để đảm bảo sự lồng ghép giới trong chính sách của các ngành. Về cơ chế giám sát việc thực hiện luật, hiện nay, giao chủ yếu cho Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Hội đồng Nhân dân báo cáo lên Quốc hội. Không thấy vai trò của xã hội dân sự và phi chính phủ trong tham gia giám sát phản biện vấn đề Bình đẳng giới? Phải chăng theo thông lệ thế giới: một ủy ban độc lập sẽ tham gia giám sát Quyền phụ nữ và Bình đẳng giới...? Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Hà Thị Khiết khẳng định: "phần quyết định sẽ thuộc về quyền lựa chọn của số đông, phương án nào được nhiều đối tượng đồng tình, Ban soạn thảo tiếp tục tiếp thu, chỉnh sửa, đưa ra trình Quốc hội trong kỳ họp tới". Bởi vậy, cùng với Diễn đàn về tuổi nghĩ hưu nữ đã được triển khai, VietNamNet xin dành tiếp Diễn đàn kỳ này để quý vị tiếp tục góp ý cụ thể cho cả 4 vấn đề đang là tâm điểm các cuộc tranh luận hiện nay. • VietNamNet (Bài viết tham gia Diễn đàn xin viết có dấu với bất kỳ font tiếng Việt nào) http://vietnamnet.vn/diendan/2006/10/618199/ Một số yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ cán bộ nữ chủ chốt cấp xã hiện nay 21:06 | 20/10/2009
  9. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng đất nước, Đảng ta luôn coi trọng mục tiêu giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình đẳng. Thực hiện mục tiêu trên có nhiều nội dung, nhưng một trong những nội dung hết sức quan trọng là làm thế nào để phụ nữ có được tỷ lệ tương ứng với vai trò và nguồn lực lao động nữ trong xã hội. Về tỷ lệ nữ cán bộ chủ chốt ở cấp xã Một tiêu chí quan trọng về vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay là, cần tăng cường tỷ lệ nữ trong các cấp ủy. Song nhiệm kỳ 2001 - 2006, tỷ lệ nữ ở các cấp ủy cũng chỉ đạt khoảng 8,8% đến 12,79%, đây là một tỷ lệ còn rất thấp so với yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra. Đối với các vùng nông thôn, tỷ lệ cán bộ nữ trong đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cấp xã cũng còn thấp. Kết quả Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2006 cho thấy, nữ cán bộ chủ chốt chỉ chiếm 3,91% trong tổng số cán bộ chủ chốt của cấp xã, trong đó cao nhất là các xã hải đảo với 7,10% và thấp nhất là các xã vùng cao với 3,28%. Đáng chú ý, tỷ lệ nữ cán bộ chủ chốt ở các xã vùng đồng bằng có tỷ lệ chỉ cao hơn một chút so với tỷ lệ chung (4,03% và 3,91%) và chỉ bằng 56,76% so với các xã hải đảo. Phải chăng, các xã vùng đồng bằng - là địa phương có sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục cao hơn các vùng khác - lại thiếu sự quan tâm của các cấp ủy và chính quyền hay chưa có nhận thức đúng về công tác cán bộ nữ? Điều mà lẽ ra, với những thuận lợi của vùng phát triển thì phụ nữ được tạo điều kiện tham gia hoạt động xã hội và quản lý, lãnh đạo các cấp nhiều hơn các vùng miền núi, hải đảo. Nếu xem xét hai chức danh chủ chốt đứng đầu của xã là bí thư đảng ủy và chủ tịch ủy ban nhân dân xã, thì chúng ta thấy, tỷ lệ nữ bí thư đảng ủy xã chỉ có 3,18% và nữ chủ tịch xã còn thấp hơn, với 2,09%. Như thế, cứ 100 xã thì có chỉ 3 nữ bí thư đảng ủy và 2 nữ chủ tịch ủy ban nhân dân. Một con số quá ít ỏi không tương xứng với nguồn nhân lực nữ trong nông thôn, nông nghiệp và nông dân hiện nay. Một số yếu tố tác động đến tỷ lệ nữ cán bộ chủ chốt cấp xã Nhận thức của các cấp ủy về công tác cán bộ nữ. Nhận định về công tác phụ nữ trong thời gian qua, Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đã đánh giá rằng: "Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý có tỷ lệ thấp, chưa tương xứng với năng lực và sự phát Các kết quả nghiên cứu cho thấy những triển của lực lượng lao động nữ, nguồn cán bộ nữ nguyên nhân chủ yếu khiến nữ giới còn ít hẫng hụt, ở một số lĩnh vực, tỷ lệ cán bộ nữ sụt tham gia lãnh đạo, quản lý là: a) định kiến giảm". Nguyên nhân chủ yếu là do: giới; b) ảnh hưởng của các nhân tố bản thân (sức khỏe, trình độ, thời gian làm Nhận thức của các cấp ủy, chính quyền ở nhiều địa việc, tính cách, gia đình...); c) tác động phương, đơn vị về bình đẳng giới, về vai trò, năng của Nhà nước, xã hội: tổ chức, cấp trên, lực của phụ nữ còn hạn chế. đồng nghiệp, ... Nhiều cấp ủy, chính quyền thiếu quan tâm chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các chủ trương của Đảng về công tác vận động phụ nữ, chưa chủ động nghiên cứu, dự báo và giải quyết kịp thời các vấn đề xã hội phát sinh liên quan tới phụ nữ. Chủ trương công tác cán bộ nữ chưa được quán triệt, thực hiện đầy đủ trong quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng, đề bạt cán bộ, còn có biểu hiện "khoán trắng" công tác phụ nữ cho Hội Phụ nữ. Việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về công tác phụ nữ, cán bộ nữ chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ. Các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ chưa giải quyết tốt một số vấn đề thực tiễn đặt ra, nhất là những vấn đề xã hội bức xúc liên quan tới phụ nữ; việc tham mưu, đề xuất với Đảng và Nhà nước về công tác phụ nữ trong từng thời kỳ còn rất hạn chế.
  10. Định kiến giới. Đề cập đến hạn chế này, Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị đánh giá "Định kiến về giới còn tồn tại dai dẳng trong nhận thức chung của xã hội do ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo và tập tục phong kiến lạc hậu từ lâu đời". Nhiều nghiên cứu đã chứng minh sự đúng đắn của nhận định này. Ví dụ, có quan niệm lãnh đạo là công việc không thích hợp với phụ nữ, vẫn còn tư tưởng coi thường khả năng của phụ nữ, nhất là coi thường khả năng lãnh đạo và quản lý của chị em, ít chú trọng sử dụng, đề bạt, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ một cách chủ động và có kế hoạch. Bên cạnh đó, có tư tưởng không muốn làm việc dưới sự lãnh đạo của cán bộ nữ, chỉ phục tùng nam, không phục tùng nữ, trong cán bộ, nhất là trong nam giới, những biểu hiện "níu áo nhau" khi phụ nữ được đề bạt, nhất là trong một số cán bộ nữ. Tư tưởng phong kiến, gia trưởng, coi thường phụ nữ trong một số đảng viên, trong một bộ phận xã hội và gia đình còn khá nặng. Trở ngại từ phụ nữ và vai trò giới. Một bộ phận phụ nữ còn tự ti, an phận, chưa chủ động vượt khó vươn lên. Trong nội bộ phụ nữ còn có tình trạng níu kéo, chưa ủng hộ nhau. Nhiều phụ nữ, nhất là phụ nữ ở miền núi, vùng nông thôn hẻo lánh, mù chữ, tái mù chữ và học vấn thấp còn nhiều. Phụ nữ còn bị phân biệt đối xử dưới nhiều hình thức. Phụ nữ còn là nạn nhân của nhiều tệ nạn xã hội đang có chiều hướng phát triển như: mại dâm, nghiện hút, cờ bạc, mê tín dị đoan... Những khó khăn trên đây đang ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của phụ nữ thế hệ tương lai. Bên cạnh đó, các vai trò giới cũng là một trở ngại đối với phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý. Nếu như với nam giới, khi tham gia hoạt động xã hội, là cán bộ quản lý, lãnh đạo thì được sự ủng hộ và tạo điều kiện của vợ và các thành viên khác trong gia đình, thêm nữa nam giới ít hoặc không phải lo công việc nội trợ. Đối với nữ giới thì ngược lại, khi tham gia công tác xã hội với vai trò cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cấp nào thì họ vẫn phải làm tốt các vai trò "người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người", nếu không được sự ủng hộ của chồng, con thì trở ngại càng tăng thêm đối với phụ nữ. Sự phát triển không đồng đều giữa các vùng miền. Theo quy luật, những vùng, miền có sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cao thì sẽ kéo theo sự phát triển về trình độ dân trí, về nhận thức trong đó có nhận thức về bình đẳng giới. Và điều này sẽ tác động tích cực đến mức độ tham gia của cán bộ nữ vào các cấp lãnh đạo ở cơ sở. So sánh giữa các tỉnh, thành phố có chỉ số phát triển con người và chỉ số phát triển giới ở nước ta với tỷ lệ phụ nữ đại biểu HĐND cấp xã nhiệm kỳ 2005 - 2009 cho thấy sự tham gia của cán bộ nữ khác nhau theo các vùng, miền. Trong 10 tỉnh, thành phố có chỉ số HDI và GDI cao nhất nước thì, các thành phố trực thuộc trung ương là Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng có tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp xã cao nhất, tiếp theo là Đồng Nai, Hải Dương, Hải Phòng rồi mới đến Bà Rịa - Vũng Tàu. Rõ ràng, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội chưa hẳn là yếu tố quyết định tỷ lệ nữ tham gia HĐND cấp cơ sở. Điều này càng được khẳng định khi chúng ta so sánh 10 tỉnh, thành có chỉ số HDI và GDI thấp nhất nước với tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp xã nhiệm kỳ 2005 - 2009, sẽ thấy không phải chỉ ở các địa phương phát triển kinh tế - xã hội thì mới có nhiều phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý. Số liệu cho thấy, Lai Châu là địa phương đứng cuối bảng xếp hạng về HDI và GDI của cả nước (năm 2001) nhưng lại có vị trí cao nhất về tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp xã, trong khi Bắc Cạn là địa phương có vị trí cao hơn thì tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp xã lại đứng thứ 7 trong nhóm. Khi so sánh các tỉnh có chỉ số HDI và Số liệu thống kê về tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp xã GDI thấp nhất nước với tỷ lệ nữ đại biểu nhiệm kỳ 2004 - 2009 cho thấy, trong 64 tỉnh, thành HĐND cấp xã nhiệm kỳ 2005 - 2009 sẽ phố thì có 10 tỉnh, thành phố có kết quả tỷ lệ nữ đại thấy không phải chỉ những địa phương biểu HĐND cấp xã cao nhất theo thứ tự là: 1) Thành phát triển kinh tế - xã hội mới có nhiều phố Hồ Chí Minh, 2) Hà Nội, 3) Tuyên Quang, 4) Lai nữ tham gia lãnh đạo, quản lý. Châu, 5) Đà Nẵng, 6) Phú Thọ, 7) Hưng Yên, 8) Yên Bái, 9) Điện Biên, 10) Hà Nam.
  11. Như vậy có 5/10 tỉnh thuộc miền núi, vùng cao là những địa phương thuộc diện kém phát triển không chỉ về kinh tế - xã hội mà còn thấp cả về chỉ số phát triển con người, chỉ số phát triển giới nhưng lại có tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp xã vào hàng "Top ten". Sự nghiệp giải phóng phụ nữ và công tác cán bộ nữ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, của toàn xã hội và từng gia đình. Đường lối giải phóng phụ nữ, bình đẳng giới và công tác cán bộ nữ đã được thể chế hóa và cụ thể hóa trong hệ thống pháp luật, chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đây là một nhân tố quan trọng quyết định những thành tựu về bình đẳng giới ở nước ta. Tỷ lệ nữ trong các cơ quan dân cử (Hội đồng nhân dân các cấp) ngày càng tăng, nhiệm kỳ 2004 - 2009 cao hơn so với nhiệm kỳ trước, là một minh chứng sinh động. Ví dụ: cấp tỉnh, thành phố đạt 23,8%; cấp huyện đạt 23,2% và cấp xã, phường đạt 20,1%. Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, Việt Nam là "Quốc gia đạt được sự thay đổi nhanh chóng nhất trong xóa bỏ khoảng cách giới trong vòng 20 năm trở lại đây ở khu vực Đông Á" hơn nữa "Việt Nam được xem như một trong những nước tiến bộ hàng đầu về lĩnh vực bình đẳng giới". Có được thành tựu nổi bật này về bình đẳng giới ở nước ta, theo các nhà tài trợ điều này "Phản ánh nỗ lực đáng kể của đất nước trong xóa đói giảm nghèo và cam kết của Chính phủ tiến tới bình đẳng giới". Đồng thời, các nhà tài trợ cũng dự báo và tin tưởng vào triển vọng của bình đẳng giới ở nước ta "Với việc các kế hoạch quốc gia khi xây dựng có chú ý đến vấn đề giới, chắc chắn vấn đề bình đẳng giới sẽ đạt được các bước tiến xa hơn nữa". (WB, ADB, CIDA, và DFID, 2006). Tuy nhiên, trong thực tế, nhận thức của xã hội về tầm quan trọng của việc đưa phụ nữ tham gia vào đời sống chính trị và cộng đồng còn hạn chế; thiếu các cơ chế và điều kiện thuận lợi để phụ nữ Trong chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ thực hiện được đầy đủ quyền bầu cử, ứng cử của của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010 đã mình; bản thân phụ nữ, nhất là phụ nữ ở các vùng đề ra chỉ tiêu phấn đấu đạt tỷ lệ nữ đại nông thôn, dân tộc thiểu số, còn thiếu tự tin và ít được biểu Quốc hội khóa XI (2002 - 2007) là gia đình ủng hộ tham gia ứng cử. Vì vậy, trong thời 30% và nhiệm kỳ tiếp theo là 33% trở lên, gian tới, các cơ quan chức năng cần thực hiện các nữ đại biểu hđnd nhiệm kỳ 2004 - 2009 giải pháp đồng bộ và tích cực để tăng cường sự tham cấp tỉnh, thành là 28% và nhiệm kỳ tiếp gia của phụ nữ vào các cơ quan dân cử. Kinh nghiệm theo là 30%, cấp huyện 23% và nhiệm kỳ từ kết quả dự án "Tăng tỷ lệ nữ tham gia Hội đồng tiếp theo là 25%; cấp xã, phường 18% và nhân dân nhiệm kỳ 2004 - 2009" cho thấy, một khi nhiệm kỳ tiếp theo là 20%. công tác cán bộ nữ được quan tâm, đầu tư đúng mức và có cơ chế phù hợp, thì sẽ tăng được tỷ lệ cán bộ nữ ở các cấp. Dự án này cho thấy, so với nhiệm kỳ 1999 - 2004, thì 16/17 tỉnh được hưởng thụ dự án đều tăng tỷ lệ nữ đại biểu HĐND ở ba cấp. Tuyên Quang là một tỉnh miền núi còn nghèo, với 22 dân tộc thiểu số, nhưng có tỷ lệ đại biểu nữ cao nhất 33,3%. Điều đó cho thấy, điều kiện kinh tế không phải là yếu tố quyết định tới khả năng tham gia lãnh đạo của phụ nữ, mà điều cốt yếu nhất là quyết tâm chính trị, sự chỉ đạo và quan tâm của các cấp, các ngành chức năng trong công tác quy hoạch và đào tạo phụ nữ. Với không ít phụ nữ, sự mặc cảm, tự ti là bạn đồng hành của sự an phận. Sự an phận này cũng có thể xuất phát từ nhận thức không đúng về vai trò giới trong gia đình và ngoài xã hội. Lãnh tụ Hồ Chí Minh hiểu rất rõ sức cản của những thói quen, quan niệm đã ăn sâu vào tiềm thức con người không dễ gì ngày một ngày hai có thể thay đổi. Vì vậy, trước khi "nhẹ bước tiên" đi vào cõi vĩnh hằng, trong Di chúc để lại, Người vẫn dặn dò phụ nữ Việt Nam "Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thực sự cho phụ nữ". Do vậy, bản thân cán bộ nữ cần chủ động khắc phục khó khăn, nỗ lực phấn đấu, nâng cao phẩm chất và trình độ mọi mặt, tự khẳng định mình trong công tác, biết kết hợp hài hòa giữa công việc gia đình và công tác xã hội. Sự nghiệp giải phóng phụ nữ là trách nhiệm chung của toàn Đảng, của nhà nước, của xã hội, song lực lượng phụ nữ, trong đó đội ngũ xung kích là lực lượng cán bộ nữ ở tất cả các lĩnh vực, cần phát huy vai trò chủ động của mình; phong trào phụ nữ càng phát triển thì đội ngũ cán bộ nữ càng có điều kiện để phát triển mạnh mẽ, và ngược lại, sự phát triển của đội ngũ cán bộ nữ
  12. sẽ có tác động lớn đến sự nghiệp giải phóng phụ nữ và phải là đội ngũ đi đầu phong trào phụ nữ. Vấn đề cán bộ nữ phải được đặt ra gắn liền với yêu cầu của sự nghiệp giải phóng phụ nữ, và phải được các cấp ủy và chính quyền nhận thức đúng và quan tâm giải quyết một cách tích cực nhất. Có như vậy, mới có thể nâng cao tỷ lệ nữ cán bộ cơ sở nói riêng và tỷ lệ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý trong các cấp, các ngành nói chung./. Các từ khóa theo tin: (Theo Tạp chí Cộng sản) http://www.dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx? co_id=30080&cn_id=366497#KMfJ1fTVvb0K Định hướng quản lý Nhà nước về bình đẳng giới tại Việt Nam (1/9/2009) Bình đẳng giới là một mục tiêu lớn mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đặt ra ngay từ những ngày đầu tiên khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng”. Tư tưởng đó đã được quán triệt nhất quán trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền, dân chủ nhân dân trong suốt hơn 60 năm qua. Về khuôn khổ pháp lý Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (năm 1946), quan điểm bình đẳng giới đã được thể hiện bằng nguyên tắc “ không phân biệt giống nòi, gái trai”; và đã quy định: “Tất cả các công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội” (Điều 6) và “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9). Quan điểm đó tiếp tục được kế thừa và phát triển phù hợp với xu thế phát triển của đất nước và thời đại qua các lần sửa đổi Hiến pháp năm 1959, 1980 và đặc biệt, tại Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, quan điểm này lại được khẳng định tại Điều 63 : “Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình.” Từ đó, những tư tưởng tiến bộ về bình đẳng giới nói trên đã được cụ thể hoá bằng các chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước. Đặc biệt, trong giai đoạn đổi mới và hội nhập, công tác xây dựng pháp luật dựa trên nguyên tắc tiếp cận về quyền và bình đẳng giới được Đảng, Nhà nước, Quốc hội và các cơ quan Nhà nước rất quan tâm. Vấn đề bình đẳng giới được thể chế hoá trong hầu hết các văn bản pháp luật, đã tạo cơ sở pháp lý, tạo điều kiện và cơ hội trao quyền bình đẳng cho cả nam và nữ trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, như: Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật dạy nghề, Luật Giáo dục , Luật Khoa học và công nghệ, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Chăm sóc sức khoẻ nhân dân, Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Cư trú, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Pháp lệnh cán bộ, công chức, … và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác như các nghị định, quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các thông tư hướng dẫn của các Bộ, ngành. Bên cạnh đó, để thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, Chính phủ đã có nhiều giải pháp như ban hành các chính sách đặc thù; lồng ghép vào các chiến lược, chương trình mục tiêu quốc gia như: Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và giảm nghèo (CPRGS), Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, về việc làm, về bảo hộ lao động, về giáo dục, về dạy nghề, về y tế cộng đồng; nhiều văn bản quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình đã có những quy định riêng cho phụ nữ, tạo điều kiện đảm bảo cho viêc thực hiện bình đẳng giới một cách thực chất; thành lập Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ, ban hành
  13. Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010 v.v.... Đặc biệt, ngày 29 tháng 11 năm 2006, Luật Bình đẳng giới đã được Quốc hội khoá XI thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2007. Luật Bình đẳng giới tiếp tục thể chế hoá quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước Việt Nam về bình đẳng giới nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nam và nữ; đồng thời tiếp tục khẳng định quyết tâm mạnh mẽ của Việt Nam trong việc cụ thể hoá và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người và bình đẳng giới mà Việt Nam là thành viên. Với hệ thống pháp lý ngày càng được hoàn thiện phù hợp với đặc điểm, tình hình của đất nước, nhận thức xã hội về bình đẳng giới ngày càng được nâng cao, góp phần đảm bảo sự bình đẳng trong đời sống xã hội cũng như của cộng đồng dân cư. Chính vì vậy, Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có hệ thống chính sách và pháp luật bình đẳng giới khá tiến bộ so với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực, kể cả với nhiều nước phát triển. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới thì: “Việt Nam là một trong những nước dẫn đầu thế giới về tỷ lệ phụ nữ tham gia các hoạt động kinh tế, là một trong những nước tiến bộ hàng đầu về bình đẳng giới… là quốc gia đạt được sự thay đổi nhanh chóng nhất về xoá bỏ khoảng cách giới trong hai mươi năm qua ở khu vực Đông á”. Tuy đã có một hệ thống pháp luật về bình đẳng giới tương đối hoàn thiện, nhưng là một nước đang phát triển, chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng Nho giáo nên việc thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam vẫn còn nhiều thách thức, đó là: - Tư tưởng mang tính định kiến về giới còn tồn tại khá phổ biến trong nhân dân, kể cả trong một bộ phận cán bộ, công chức. Đó là những định kiến về giới và tư tưởng trọng nam hơn nữ trong xã hội, cụ thể là hầu hết các gia đình đều thích sinh con trai hơn con gái; coi công việc gia đình, chăm sóc con cái, người già, người ốm là công việc của phụ nữ…; thời gian làm việc của phụ nữ thường kéo dài hơn nam giới khoảng 4 giờ trong ngày, chủ yếu là ngoài công việc xã hội phụ nữ phải lo toan công việc nội trợ trong gia đình. Phụ nữ ít có thời gian nghỉ ngơi, học tập nâng cao trình độ hơn nam giới, nhất là ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Việc bồi dưỡng, phát triển cán bộ nữ ở nơi này, nơi kia vẫn còn hạn chế; một số đơn vị kinh tế thậm chí không muốn nhận lao động nữ vì ngại thực hiện chế độ thai sản và những lý do khác. Trong lao động việc làm, mặc dù chênh lệch về tỷ lệ không nhiều, nhưng thu nhập thực tế của nam giới vẫn cao hơn ở nữ giới. - Thiếu thông tin, dữ liệu tách biệt theo giới tính ở tất cả các lĩnh vực hoặc có nhưng ít, không đầy đủ, không đồng bộ, không toàn diện nên khó có thể đánh giá chính xác những vấn đề liên quan đến bình đẳng giới và đưa ra những biện phát hữu hiệu cho việc bảo đảm bình đẳng giới và đạt mục tiêu bình đẳng giới. - Nhiều điều khoản pháp luật chưa được thực hiện đầy đủ do thiếu chế tài hoặc chế tài chưa đủ mạnh, chỉ dừng ở mức xử phạt hành chính. Định hướng quản lý Nhà nước về bình đẳng giới Để khắc phục và vượt qua những thách thức nêu trên, trong thời gian tới, công tác quản lý Nhà nước về bình đẳng giới cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung sau: Một là, cần xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới. Xây dựng và thực hiện các chính sách nhằm thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới. Trước mắt, xây dựng và triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới với hệ thống mục tiêu, chỉ tiêu, công cụ theo dõi, đánh giá và hệ thống giải pháp toàn diện, đồng bộ. Hai là, cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới; nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vấn đề giới và bình đẳng giới; Hướng dẫn các cơ quan nhà
  14. nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thực hiện thông tin, giáo dục pháp luật về bình đẳng giới có hiệu quả, thiết thực và phù hợp với từng đối tượng cụ thể. Ba là, hình thành và kiện toàn hệ thống tổ chức, cán bộ quản lý Nhà nước về bình đẳng giới từ trung ương đến địa phương, cơ sở. Tổ chức đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý lĩnh vực, cán bộ chuyên trách, các cộng tác viên chuyên nghiệp thực hiện công tác bình đẳng giới. Bốn là, ngoài việc sử dụng có hiệu quả nguồn lực từ ngân sách, cần tranh thủ thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính, hỗ trợ kỹ thuật trong và ngoài nước, bảo đảm thực hiện mục tiêu xã hội hoá công tác bình đẳng giới. Năm là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới. Bổ sung kiến thức về giới và bình đẳng giới, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác này; tăng cường sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên trong việc thực hiện các quy định pháp luật về bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ. Sáu là, tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế ( đa phương, song phương, NGO) trong lĩnh vực bình đẳng giới nói chung và vì sự phát triển của phụ nữ nói riêng. Bình đẳng giới là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá sự phát triển của mỗi xã hội, mỗi đất nước. Đây vừa là mục tiêu, vừa là yếu tố để góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Bình đẳng giới có vị trí đặc biệt trong xây dựng một xã hội phát triển ổn định và bền vững ở nước ta./. Nguyễn Thị Kim Ngân, Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội (Nguồn: http://www.molisa.gov.vn) http://www.na.gov.vn/nnsvn/infodetail.asp?action=view&id=227&catid=218&maxid=0 Nhân Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3 - Bàn về các giải pháp thực hiện tốt công tác Bình đẳng giới và bảo đảm quyền của Phụ nữ ở Việt Nam
  15. Bình đẳng giới và bảo đảm quyền của phụ nữ là mục tiêu quan trọng được toàn thể nhân loại tiến bộ quan tâm thực hiện trong nhiều thập kỷ qua. Năm 1910, Hội nghị phụ nữ lần thứ 2 được tổ chức ở Copenhagen (thủ đô Ðan Mạch) đã quyết định lấy ngày 8/3 làm ngày quốc tế phụ nữ. Việc lựa chọn này nhằm nhớ ơn hàng triệu phụ nữ trên thế giới đã dũng cảm đấu tranh vì quyền lợi chính đáng cho nữ giới, đem lại một thế giới hòa bình và phát triển. Ngay từ những ngày đầu giành được độc lập, Nhà nước ta đã xác định rõ tư tưởng tiến bộ này trong hệ thống pháp luật. Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã quy định "Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”, chính sự thừa nhận này đã đem lại cho phụ nữ Việt Nam cơ hội được bình đẳng với nam giới trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Qua tiến trình lịch sử, quy định tiến bộ nêu trên tiếp tục được kế thừa, phát triển trong các bản Hiến pháp 1959, 1980 và 1992. Từ đạo luật cao nhất trong hệ thống văn bản pháp luật của Nhà nước, quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới đã từng bước được cụ thể hóa trong quá trình xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật chuyên ngành. Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày quốc tế phụ nữ 8/3, chúng ta cùng nhau nhìn lại những thành tựu bình đẳng giới mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đạt được trong 65 năm qua: Trước hết, trong lĩnh vực lập pháp: để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, qua các mốc thời gian, nhiều đạo luật đã được ban hành với những quy định tiến bộ nhằm bảo đảm quyền của phụ nữ và bình đẳng giới như: năm 1959, Luật Hôn nhân và Gia đình đã đề cập tới việc bảo đảm hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; vợ, chồng bình đẳng và cấm tệ ngược đãi trong gia đình. Những quy định này tiếp tục được kế thừa trong Luật Hôn Nhân và Gia đình thay thế vào các năm 1986 và 2000. Năm 1994, Bộ Luật Lao động đầu tiên của nước ta đã dành riêng một chương quy định việc bảo đảm quyền và lợi ích của lao động nữ. Năm 1995, Bộ Luật Dân sự ra đời quy định trong quan hệ dân sự, các bên bình đẳng, không phân biệt giới tính. Năm 2000, Luật Hôn nhân và Gia đình mới đã yêu cầu thực hiện việc ghi tên cả vợ và chồng trong giấy chứng nhận tài sản đăng ký thuộc quyền sở hữu chung và lần đầu tiên lao động trong gia đình được coi là hoạt động có tạo ra thu nhập. Năm 2001, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội được ban hành, quy định việc đảm bảo tỷ lệ nữ thích đáng tham gia trong Quốc hội...Đặc biệt, việc ban hành Luật Bình đẳng giới năm 2006 và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 là thành tựu đáng tự hào trong sự nghiệp bình đẳng giới ở nước ta. Đây là những văn bản pháp lý quan trọng nhằm thúc đẩy thực hiện bình đẳng giới trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục, y tế, văn hóa, thông tin, thể thao và gia đình trong giai đoạn hiện nay. Thứ hai, cùng với sự phát triển của đất nước thì vai trò, vị trí của phụ nữ trong tham gia các hoạt động chính trị - xã hội được từng bước cải thiện, mà biểu hiện rõ nhất là tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XII đạt 25,7%, tăng hơn 20% so với nhiệm kỳ Quốc hội đầu tiên (đạt 3%). Chúng ta tự hào khi Việt Nam liên tục nằm trong nhóm nước dẫn đầu khu vực Châu Á - Thái Bình Dương về tỷ lệ này. Mốc son trong lịch sử phát triển của phụ nữ chính là sự kiện bà Nguyễn Thị Định được bầu làm Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (nay là Phó Chủ tịch nước) vào năm 1987. Đây là chức danh cao nhất từ trước tới nay do phụ nữ đảm nhiệm trong hệ thống chính trị. Kể từ đó
  16. đến nay, nhiệm kỳ nào chúng ta cũng có một nữ Phó Chủ tịch nước và ngày càng nhiều phụ nữ giữ các chức vụ cao cấp trong hệ thống chính trị. Thứ ba, trong những năm qua, tỷ lệ phụ nữ có việc làm tạo ra thu nhập ngày càng tăng. Đặc biệt, nhiều chị em đã khẳng định được vị trí, năng lực của mình trong các lĩnh vực trước đây được coi là chỉ dành riêng cho nam giới như: nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật, các ngành công nghệ mới, kỹ thuật cao, kinh doanh, thể thao… Trong lĩnh vực học tập, nghiên cứu khoa học, nhiều chị em phụ nữ cũng đã đạt được thành tích đáng khích lệ, tiêu biểu là: trong 25 năm qua, đã có 15 tập thể và 31 cá nhân các nhà khoa học nữ xuất sắc, tiêu biểu nhất trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và ứng dụng được Uỷ ban Giải thưởng Việt Nam trao giải Kovalevskaia (trong đó có 10 Giáo sư, 17 Phó Giáo sư, 53 Tiến sĩ, 2 Thầy thuốc Nhân dân, 8 Nhà giáo Nhân dân)... Theo đánh giá của Liên hợp quốc năm 2009, Chỉ số phát triển giới (GDI) của nước ta đạt 0,723 và bằng 99,7% so với chỉ số phát triển con người (HDI) - chứng tỏ bình đẳng giới trong phát triển con người ở Việt Nam đã đat được khá cao. ̣ Nhìn lại thành tựu đã đạt được trong những năm qua, chúng ta phấn khởi và tự hào. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn đó, vẫn còn những vấn đề tồn tại như: trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của phụ nữ còn bất cập trước yêu cầu của thời kỳ đổi mới, đặc biệt trong công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước; tỷ lệ cán bộ nữ giữ chức vụ quản lý, lãnh đạo ở các cấp còn thấp, chưa tương xứng với lực lượng và sự đóng góp của phụ nữ; đời sống của một bộ phận phụ nữ còn khó khăn, đặc biệt phụ nữ dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; nhận thức của xã hội và của bản thân phụ nữ về bình đẳng giới còn nhiều hạn chế... Chính vì vậy, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày quốc tế phụ nữ 8/3/2010, các ngành, các cấp và toàn xã hội cần chung sức, đồng lòng trong xây dựng và thực hiện các giải pháp nhằm thực hiện tốt sự nghiệp bình đẳng giới trong giai đoạn hiện nay. Đây cũng chính là điều kiện cần thiết để xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi người dân Việt Nam. Để làm được điều này, chúng ta cần thực hiện tốt một số giải pháp sau: Thứ nhất, tăng cường sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành để tạo nên sức mạnh tổng hợp chung trong triển khai pháp luật về bình đẳng giới; đầu tư nguồn nhân lực và kinh phí cho công tác vì sự tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới từ Trung ương đến cơ sở. Thứ hai, hệ thống chính quyền, đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội và nhất là cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới các cấp cần phải nỗ lực hơn nữa trong việc hoạch định, xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về bình đẳng giới và tăng quyền năng cho phụ nữ. Nhiệm vụ này phải được thực hiện thường xuyên, liên tục chứ không chỉ trong Ngày Quốc tế Phụ nữ. Thứ ba, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, vận động nhân dân thực hiện tốt pháp luật bình đẳng giới. Đặc biệt, cần đẩy mạnh giáo dục khoa học giới trong hệ thống nhà trường, tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã hội về bình đẳng giới, tập trung tuyên
  17. truyền cho những người có ảnh hưởng lớn tới công tác này như các cấp lãnh đạo, nhà giáo và nhà báo. Thứ tư, thực hiện tốt bình đẳng giới trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục, y tế, khoa học kỹ thuật, thông tin, thể thao, văn hóa và gia đình. Lồng ghép có hiệu quả vấn đề bình đẳng giới vào hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và các chính sách, chương trình hành động quốc gia, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của các cấp, các ngành. Xây dựng mô hình điểm về bình đẳng giới. Thực hiện tốt Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới. Thứ năm, cần nâng cao năng lực cho phụ nữ, trong đó, chú trọng công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ nữ, tạo điều kiện và cơ hội cho phụ nữ phấn đấu vươn lên, tạo nguồn cán bộ kế cận và đề bạt cán bộ nữ đáp ứng yêu cầu mới. Phát triển hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo và phát động chiến dịch vận động nam giới chia sẻ trách nhiệm gia đình. Thứ sáu, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới./. Nguyễn Thị Kim Ngân Uỷ viên BCH Trung ương Đảng, Bí thư Ban Cán sự Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội http://www.ldtbxh.danang.gov.vn/public_evt_article.do;jsessionid=8718226730F684824 40FD1685F093EE9?method=details&idArticle=379 Vai trò của phụ nữ trong nền chính trị hiện đại Tin đưa ngày: 11/03/2009 Xã hội hiện đại đặc trưng bởi năng suất, chất lượng và hiệu quả cao của nền kinh tế công nghiệp, bởi trình độ cao của khoa học và công nghệ, trong đó nổi bật là nền chính trị hiện đại. Rất nhiều tác giả đã và đang bàn về bản chất và quy luật vận động của nền chính trị hiện đại. Nhiều ý kiến đã được nêu ra từ nhiều góc độ khác nhau để nhấn mạnh đặc trưng này hoặc đặc trưng kia của nền chính trị hiện đại. Nhưng một xu thế chủ đạo của nền chính trị hiện đại là xu thế tăng cường vị thế và vai trò của phụ nữ trong quá trình lãnh đạo quản lý đời sống xã hội. Xu thế này đã được Phu-riê, một nhà tư tưởng xã hội vĩ đại người Pháp phát hiện và ghi nhận bằng một nhận định nổi tiếng: “trình độ giải phóng phụ nữ khỏi áp bức, bóc lột là thước đo của trình độ phát triển xã hội”. 1. Vấn đề giải phóng phụ nữ trong nền chính trị hiện đại Nhiều nhà triết học, kinh tế học và chính trị học đã đưa ra các quan niệm khác nhau về chính trị. Mỗi một luận thuyết đều xuất phát từ một giác độ để xem xét bản chất của chính trị song chỉ có học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mới là lý luận đúng đắn trang bị những kiến thức cơ bản, khoa học và cách mạng về chính trị. Bản chất của chính trị bộc lộ trên nhiều khía cạnh, nhiều phương diện trong mối liên quan
  18. phức tạp của nó với các lĩnh vực, các quá trình vận động của đời sống xã hội. Trong đó nổi bật lên vấn đề vị trí và vai trò của phụ nữ trong đời sống chính trị của xã hội. Học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ rõ bình đẳng giới vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng giải phóng con người và giải phóng xã hội. Bác Hồ căn dặn: nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người; Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa. 2. Khái niệm vai trò giới: Vai trò giới là một khái niệm mới được phát triển trong những thập kỷ cuối thế kỷ XX. Vai trò giới là kiểu hành vi, hoạt động mà xã hội mong đợi phụ nữ và nam giới phải thực hiện. Khái niệm "Vai trò giới" giúp trả lời câu hỏi: phụ nữ làm gì và nam giới làm gì. Thông qua những kiểu việc làm của phụ nữ và nam giới có thể đánh giá được vị thế xã hội của họ trong từng lĩnh vực cụ thể. Các vai trò giới khác nhau tuỳ thuộc vào từng cộng đồng xã hội cụ thể. Ví dụ, cộng đồng này cho rằng vai trò chủ yếu của phụ nữ là nội trợ- công việc ở gia đình còn nam giới đóng vai trò chủ đạo trong sản xuất và toàn bộ đời sống gia đình, tức là nam giới làm chủ gia đình. Cộng đồng khác cho rằng vai trò chủ yếu của phụ nữ là công việc sản xuất còn nam giới đóng vai trò thứ yếu trong gia đình, tức là phụ nữ là chủ gia đình. Có cộng đồng cho rằng nam giới và phụ nữ đều có vai trò quan trọng như nhau, cả nam và nữ đều tham gia lao động xã hội để có thu nhập và cùng nhau chia sẻ công việc gia đình. Căn cứ vào các hoạt động chính, các nhà khoa học về giới phân biệt ba loại lĩnh vực hoạt động và ba loại vai trò giới như sau: Tương ứng với hoạt động sản xuất là vai trò sản xuất. Phụ nữ và nam giới có những vai trò khác nhau trong hệ thống sản xuất của xã hội. Phụ nữ thường đóng vai trò chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, dịch vụ, buôn bán. Trong khi đó, nam giới chiếm tỷ lệ lớn trong lĩnh vực công nghiệp nặng và khoa học kỹ thuật. Tương ứng với hoạt động tái sản xuất là vai trò tái sản xuất. Đó là những công việc như sinh đẻ, nuôi dạy con cái, chăm sóc các thành viên của gia đình, việc nội trợ. Đây là những công việc thường không được trả công và không được tính toán thành các chỉ tiêu kinh tế. Nhưng các công việc tái sản xuất là không thể thiếu trong cuộc sống xã hội hàng ngày. Theo cách phân công lao động phổ biến ngày nay, phụ nữ thường là người đóng vai trò chủ yếu trong các hoạt động tái sản xuất. ở khu vực nông thôn, phụ nữ vừa thực hiện vai trò tái sản xuất vừa tham gia sản xuất như chăn nuôi, làm ruộng... ở thành thị, đại bộ phận phụ nữ vừa đi làm vừa đảm đang công việc gia đình.
  19. Tương ứng với lĩnh vực hoạt động cộng đồng xã hội là vai trò cộng đồng xã hội. Các hoạt động cộng đồng được chia làm hai loại, một là tham gia thực hiện các hoạt động chung và hai là tham gia lãnh đạo quản lý đời sống sản xuất, sinh hoạt của cộng đồng. Hiện nay, phụ nữ chủ yếu tham gia các hoạt động chung của cộng đồng với tư cách người thực hiện quyết định. Phụ nữ chiếm tỷ lệ nhỏ trong bộ máy lãnh đạo quản lý ở cộng đồng. Điều đó chứng tỏ, theo nghĩa hẹp, vai trò của phụ nữ trong chính trị còn rất hạn chế. Nhưng theo nghĩa rộng, phụ nữ có nhiều cơ hội và thách thức để tăng cường vai trò của mình trong nền chính trị hiện đại. 3. Thực trạng vai trò của phụ nữ trong lãnh, đạo quản lý Thước đo cơ bản về vai trò của phụ nữ trong nền chính trị hiện đại là sự tham gia của phụ nữ trong bộ máy lãnh đạo, quản lý. Dù có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này nhưng một điểm thống nhất ở đây là vai trò của phụ nữ trong chính trị tỷ lệ thuận với tỉ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý. Điều này giải thích tại sao Chiến lược và Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ đặt ra mục tiêu tăng cường số lượng và tỷ lệ cán bộ nữ lãnh đạo quản lý các cấp. So với nhiều nước trên thế giới, tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội của Việt Nam luôn chiếm vị trí cao - trung bình khoảng 23% trong suốt những năm 1976 - 2007. So với các nước châu á, Việt Nam có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao nhất - 27,3%. So với các nước trong khu vực châu á - Thái Bình Dương Việt Nam đứng vị trí thứ hai sau Niu - Di - Lân (29,2%). Tuy tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khá cao nhưng trong Quốc hội, phụ nữ hoạt động chủ yếu tại các Uỷ ban về vấn đề xã hội, văn hoá - giáo dục thanh thiếu niên - nhi đồng và Hội đồng dân tộc. Trung bình nữ chiếm 41%. Trong khi đó, nam giới tập trung chủ yếu trong các Uỷ ban về quốc phòng - an ninh, kinh tế - ngân sách, đối ngoại, pháp luật, khoa học - công nghệ với tỷ lệ 88%. Một xu thế rất quan trọng cần ghi nhận là tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp tăng dần trong các năm nhiệm kỳ gần đây. Tỷ lệ chung nữ đại biểu Hội đồng nhân dân 3 cấp nhiệm kỳ 2004-2009 đạt 22% song thấp dần xuống cơ sở. Bảng 1. Tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp nhiệm kỳ 1989 - 1992 và 2004 - 2009 (đơn vị: %). Cấ p 1989 - 1992 2004 - 2009 Hội đồng nhân dân tỉnh/thành phố 12,7 23,88 Hội đồng nhân dân quận/huyện 12,26 23,01 Hội đồng nhân dân xã/phường 13,23 19,53 Tỷ lệ nữ trong Uỷ ban nhân dân các cấp nhiệm kỳ 1999 - 2004 thấp hơn rất nhiều (khoảng 5,3%) so với tỉ lệ nữ trong Hội đồng Nhân dân các cấp. Xu hướng chung ở
  20. đây là tỉ lệ nữ giảm dần từ 6,4% ở cấp tỉnh/thành phố xuống còn 4,5% ở cấp xã/phường. Qua các con số này có thể nói, vai trò đại diện và vai trò giám sát của phụ nữ đã được phát huy ở các cơ quan dân cử là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Nhưng vai trò ra quyết định và chỉ đạo thực hiện của phụ nữ ở các cơ quan hành pháp như Uỷ ban nhân dân các cấp còn hạn chế. Tỷ lệ nữ đảm nhiệm các chức vụ trưởng và vụ phó trong các cơ quan quản lý nhà nước cũng là một chỉ báo quan trọng về vai trò của phụ nữ trong nền chính trị. Tỷ lệ nữ vụ trưởng chỉ đạt khoảng 12 - 13% và tỷ lệ nữ vụ phó chỉ khoảng 8 - 9%. Tỷ lệ phụ nữ trong cương vị thẩm phán các cấp cũng khá cao so với nhiều nước trên thế giới, đạt khoảng 28% năm 2001. Một điều đặc biệt là tỷ lệ nữ thẩm phán tăng dần từ 22% ở Toà án nhân dân tối cao lên đến 35% ở toà án nhân dân cấp quận/huyện. Một chỉ báo rất quan trọng về vai trò của phụ nữ trong nền chính trị hiện đại là tỷ lệ phụ nữ trong các cấp uỷ Đảng. Nhiệm kỳ 2001 - 2006, tỷ lệ nữ bình quân ở các cấp uỷ Đảng đạt khoảng 11%. Đây là tỉ lệ còn rất thấp so với yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra đối với sự nghiệp vì sự tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới. Rõ ràng, vai trò của phụ nữ trong xã hội nói chung và trong chính trị nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào số lượng và tỷ lệ nữ tham gia các cấp uỷ Đảng. Tỷ lệ nữ thấp trong các cơ quan quyền lực như uỷ ban Nhân dân, cơ quan quản lý nhà nước và đặc biệt là trong các cấp uỷ Đảng cho thấy sự cần thiết phải đẩy mạnh các hoạt động nâng cao vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị. 4. Vấn đề nâng cao quyền năng của phụ nữ trong nền chính trị hiện đại Về mặt thuật ngữ, khái niệm "Quyền năng của phụ nữ" cần được hiểu là năng lực thực hiện các quyền được xã hội thừa nhận đối với vai trò của phụ nữ. Quyền năng của phụ nữ trong nền chính trị hiện đại là năng lực của phụ nữ trong việc thực hiện các vai trò của họ trong nền chính trị hiện đại. Như vậy khái niệm quyền năng ở đây có nội dung rộng lớn bao quát cả khái niệm năng lực, quyền lực và vai trò của phụ nữ trong nền chính trị. Thực chất, "nâng cao quyền năng" là quá trình trong đó phụ nữ và nam giới nhận thức được các nhu cầu và lợi ích của họ, phát hiện và khắc phục những trở ngại đối với việc phát triển năng lực và các phương tiện để kiểm soát cuộc sống của họ mà không làm phương hại đến quyền lợi và lợi ích của người khác. ở Việt Nam, các quyền cơ bản của phụ nữ và bình đẳng giới đã được thể chế hoá thành luật pháp. Vấn đề tiếp theo và đồng thời cần giải quyết là phát triển quyền năng hay năng lực thực hiện các quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm và vai trò đã được ghi nhận trong các văn bản pháp quy.
nguon tai.lieu . vn