Xem mẫu
- Phần 1:
Vài nét về tình hình khủng hoảng kinh tế thế giới ở nước Mỹ nói
riêng và thế giới nói chung.
Khủng hoảng tài chính 2007-2010 là một cuộc khủng hoảng bao gồm sự đổ vỡ
hàng loạt hệ thống ngân hàng, tình trạng đói tín dụng, tình trạng sụt giá chứng
khoán và mất giá tiền tệ quy mô lớn ở nhiều nước trên thế giới, có nguồn gốc từ
khủng hoảng tài chính ở Hoa Kỳ
Bong bóng nhà ở cùng với giám sát tài chính thiếu hoàn thiện ở Hoa Kỳ đã dẫn
tới một cuộc khủng hoảng tài chính ở nước này từ năm 2007, bùng phát mạnh từ
cuối năm 2008. Thông qua quan hệ tài chính nói riêng và kinh tế nói chung mật
thiết của Hoa Kỳ với nhiều nước. Cuộc khủng hoảng từ Hoa Kỳ đã lan rộng ra
nhiều nước trên thế giới, dẫn tới những đổ vỡ tài chính, suy thoái kinh tế, suy
giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước trên thế giới.
- Hoa Kỳ là điểm xuất phát và là trung tâm của cuộc khủng hoảng. Ngay khi
bong bóng nhà ở vỡ cuối năm 2005, kinh tế Hoa Kỳ bắt đầu tăng trưởng chậm
lại. Tuy nhiên, bong bóng vỡ đã dẫn tới các khoản vay không trả nổi của người
đầu tư nhà ở đối với các tổ chức tài chính ở nước này. Giữa năm 2007, những tổ
chức tài chính đầu tiên của Hoa Kỳ liên quan đến tín dụng nhà ở thứ cấp bị phá
sản. Giá chứng khoán Hoa Kỳ bắt đầu giảm dần. Sự đổ vỡ tài chính lên đến cực
điểm vào tháng 10 năm 2008 khi ngay cả những ngân hàng khổng lồ và lâu đời
từng sống sót qua những cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế trước đây, như
Lehman Brothers, Morgan Stanley, Citigroup, AIG, … cũng lâm nạn. Tình trạng
đói tín dụng xuất hiện làm cho khu vực kinh tế thực của Hoa Kỳ cũng rơi vào
tình thế khó khăn, điển hình là cuộc Khủng hoảng ngành chế tạo ô tô Hoa Kỳ
2008-2010.
Chỉ số bình quân công nghiệp Dow Jones lúc đóng cửa ngày 9 tháng 3 năm 2009 là
6.547,05, mức thấp nhất kể từ tháng 4 năm 1997. Chỉ trong vòng 6 tuần lễ, chỉ số
này sụt tới 20%.
- Nếu khủng hoảng ở thập niên 70 của thế kỷ trước có thể đổ lỗi do các
nguyên nhân như chiến tranh ở Iran, cuộc cách mạng ở một số quốc gia, và
khủng hoảng chỉ liên quan đến suy giảm GDP. Còn khủng hoảng lần này là tồi
tệ nhất, tác động đồng bộ nền kinh tế toàn cầu. Khủng hoảng lần này là sự yếu
kém, do cơ chế thị trường, các nền kinh tế bị lạm phát quá lớn… Trong đó,
những nền kinh tế dựa vào xuất khẩu bị ảnh hưởng nặng nề nhất.
Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ Hoa Kỳ. Ở Hoa Kỳ, bất động sản, cho vay cầm
cố dưới chuẩn, sự mất cân đối về cán cân thanh toán… Trước tình hình này, Cục
- dự trữ liêng bang Mỹ có kế hoạch kích thích lớn với 800 tỷ USD chiếm 5% GDP
để cứu vãn tình hình.
“Khi bong bóng nhà đất bùng nổ vào giữa thập niên đầu của thế kỷ XXI, hệ
thống tài chính Mỹ trở nên dễ tổn thương không kém gì các quốc gia đang phát
triển trong những lần khủng hoảng trước đây”. Theo Krugman thì thất bại của
những quy định quản lý hệ thống tài chính đang nhanh chóng thoát khỏi vòng
cương toả của Nhà nước, đẩy nước Mỹ và thế giới vào cuộc khủng hoảng tồi
tệ nhất kể từ những năm 1930 trở lại đây.
Và chỉ khi nào, nhà nước Mỹ kiểm soát được tình hình thì chừng đó kinh tế mới
hết khủng hoảng. “Chúng ta đã chạm đáy của khủng hoảng và chúng ta nằm ịch
ở đó chứ chưa bật dậy được. Nền kinh tế thế giới sẽ hồi phục trong vòng 5 năm
nữa…”, Krugman nhận định.
- Paul Krugman cũng dự đoán nền kinh tế thế giới sau khủng hoảng sẽ trầm
lặng hơn, ít dịch chuyển vốn và ít đầu cơ hơn. Sau khủng hoảng, Mỹ sẽ không
còn đi bảo ban thế giới phải làm thế này thế kia nữa vì bản thân Mỹ cũng có
nhiều điều chưa làm tốt. Lúc đó, kinh tế Trung Quốc sẽ vượt qua Nhật Bản.
Châu Âu vẫn là đối thủ tiềm năng với Mỹ. Nhưng Mỹ vẫn là cường quốc hàng
đầu thế giới.
Bản báo cáo của Bộ Thương mại Mỹ cho biết, trong tháng giêng, số đơn đặt
hàng mua các sản phẩm của các nhà máy ở Mỹ giảm 2,5% so với mức giảm 2%
trong tháng 12/2007.
- Đây là mức giảm lớn nhất trong 5 tháng qua. Chỉ số hoạt động của khu vực
dịch vụ trong tháng 2 là 49,3 điểm và trong tháng giêng là 44,6 điểm. Hai nguyên
nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng làm ăn ế ẩm này là do hậu quả của cuộc khủng
hoảng trong lĩnh vực địa ốc và thị trường tài chính, tín dụng.
Thống kê của Bộ Thương mại Mỹ cho thấy, theo đà suy giảm kinh tế, năng suất
lao động của công nhân Mỹ trong 3 tháng cuối năm 2007 cũng bị giảm đi trông
thấy, chỉ tăng với tốc độ 1,9% so với mức tăng kỷ lục 6,3% trong quý 3/2007.
Năng suất lao động tăng chậm làm cho chi phí sản xuất gia tăng 2,6% trong quý
cuối cùng của năm 2007. Mức độ thuê mướn công nhân của khu vực kinh tế tư
nhân ở Mỹ trong tháng 2 năm nay cũng thấp nhất trong 5 năm qua.
Theo kết quả một cuộc khảo sát công bố ngày 6/3, phần lớn các nhà điều hành
kinh tế hàng đầu của Mỹ cho rằng nền kinh tế Mỹ đã "sẵn sàng rơi vào suy
thoái", hoặc sẽ rơi vào suy thoái trong 6 tháng nữa. Hầu hết các nhà điều hành
được hỏi nhận định công ty của họ không thể tránh khỏi sự ảnh hưởng từ đợt
suy thoái này.
- Trong khi đó, số lượng nhà bị tịch thu gán nợ tiếp tục đà gia tăng tới mức kỷ lục
mới trong 22 năm qua ở tất cả các bang và các địa phương của Mỹ. Theo đó, thị
trường chứng khoán Mỹ những ngày qua đã "điêu đứng" vì giới đầu tư bán đổ
bán tháo cổ phiếu.
Kết quả khảo sát do Hiệp hội Các nhà kinh tế và kinh doanh toàn quốc (Mỹ)
công bố tuần trước cũng cho biết, 45% số nhà kinh tế tiên đoán về sự suy thoái
kinh tế Mỹ trong năm 2008.
* Sự ảnh hưởng tới các hệ thống lớn trên thế giới.
Hệ thống ngân hàng
Nhiều tổ chức tài chính của các nước phát triển, nhất là các nước ở châu Âu,
cũng tham gia vào thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Hoa Kỳ. Chính vì vậy,
bóng bóng nhà ở của Hoa Kỳ bị vỡ cũng làm các tổ chức tài chính này gặp nguy
hiểm tương tự như các tổ chức tài chính của Hoa Kỳ. Những nước châu Âu bị
rối loạn tài chính nặng nhất là Anh, Iceland, Ireland, Bỉ và Tây Ban Nha.
Ngay từ tháng 9 năm 2007, Northern Rock của Anh bị tình trạng đột biến rút tiền
gửi và hậu quả là phải chịu quốc hữu hóa. Đột biến rút tiền gửi còn làm căng
thẳng các ngân hàng khác của nước này. Sang năm 2008, đến lượt Bradford &
Bingley plc của Anh phải chịu chia nhỏ thành 2 công ty riêng biệt. Các ngân hàng
khác phải chịu đổi chủ sở hữu bao gồm Catholic Building Society, Alliance &
Leicester. London Scottish Bank và Dunfermline Building Society phải chịu sự
giám sát đặc biệt của Chính phủ Anh.
Ở Iceland đã xảy ra một cuộc khủng hoảng ngân hàng trên diện rộng. Ngay quý I
năm 2008, GDP của Iceland giảm 1,5%, mức giảm lớn nhất kể từ năm 1983 tới
thời điểm này. Glitnir, Straumur Investment Bank, Reykjavík Savings Bank phải
chịu quốc hữu hóa. Kaupthing, Landsbanki của nước này phải chịu đặt dưới sự
quản lý của cơ quan giám sát tài chính quốc gia.
Đầu năm 2008, xếp hạng tín dụng của Ngân hàng Ireland bị giảm, khiến cho giá
cổ phiếu của ngân hàng này sụt ghê gớm, giá cổ phiếu tại thời điểm đầu tháng 3
Năm 2008 giảm tới 99% so với giá đỉnh cao vào năm 2007. Đầu năm 2009, Anglo
Irish Bank bị quốc hữu hóa. Allied Irish Banks cũng phải chịu tình trạng cổ phiếu
mất giá ghê gớm và phải chấp nhận cải cách để nhận được khoản vay tái cơ cấu
của Chính phủ.
Cuối năm 2008, Fortis của Bỉ bắt đầu bị bán dần, chỉ còn lại các bộ phận kinh
doanh dịch vụ bảo hiểm. Dexia chịu khoản lỗ 3,3 tỷ euro và phải xin Chính phủ
Bỉ cho vay để củng cố.
- Ở Hà Lan, để đảm bảo hệ số an toàn vốn, ING Group đã phải xin Chính phủ Hà
Lan cho vay.
Ở Đức, ngày từ đầu năm 2008, người ta phát hiện ra rằng BayernLB đã chịu
những khoản lỗ lớn do tham gia vào thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Hoa Kỳ.
Sau đó, ngân hàng này đã phải cầu xin sự giúp đỡ của Chính phủ Liên bang Đức.
Thị trường chứng khoán
Các thị trường chứng khoán lớn của thế giới ở New York, London, Paris,
Frankfurt, Tokyo đều có thời điểm sụt giá lớn lịch sử.
Ở châu Âu, chỉ số FTSE 100 từ mức 4789,79 xuống còn 4699,82.
Chỉ số DAX hôm 2 tháng 3 năm 2009 chỉ còn 3666,4099 điểm so với 8067,3198
hôm 27 tháng 12 năm 2007.
Chỉ số CAC 40 hôm 2 tháng 3 năm 2009 cũng xuống mức thấp kỷ lục 2534,45
điểm.
Nhật Bản có một hệ thống tài chính tương đối vững vàng đã trải qua một thời kỳ
tái cơ cấu sau khủng hoảng 1996-1997. Tuy nhiên, tác động tiêu cực từ khủng
hoảng tài chính Hoa Kỳ vẫn khiến cho thị trường chứng khoán của nước này rối
loạn. Chỉ số giá cổ phiếu bình quân Nikkei đã xuống mức thấp lịch sử vào các
ngày 8 và 10 tháng 10 năm 2008.
*
Khủng hoảng kinh tế thế giới một năm nhìn lại
- Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra cách đây một năm đã dịu
bớt, nhưng để lại nhiều điều nan giải và những hệ quả sâu xa.
Ngày 14/9/2008 đáng được ghi vào biên niên sử của chủ nghĩa tư bản hiện đại:
Ngân hàng Lehman Brothers, “cây đại thụ” 158 năm tuổi cuả Mỹ, bị xóa trên bản
đồ tài chính ngân hàng thế giới. Đây là một trong những vụ phá sản lớn nhất lịch
sử nước Mỹ, châm ngòi cho sự bùng nổ cuộc khủng hoảng tài chính, mở màn cho
cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Nó dồn các thị trường tài chính chao đảo
một năm trước đó do khủng hoảng tín dụng thứ cấp rơi vào hoảng loạn thực sự,
khiến dòng chảy tài chính đóng băng hoàn toàn và đẩy hệ thống ngân hàng vào
- tình trạng nguy hiểm. Hậu quả của vụ Lehman Brothers sụp đổ sẽ nan giải và
còn lan tỏa trong nhiều năm tới.
Có vô vàn dẫn chứng về cơn co giật của chủ nghĩa tư bản hiện đại và thị trường
“thiếu gương mặt người”. Sản xuất đình trệ; hàng triệu người lao động bị đẩy
ra đường. Tại các khu công nghiệp ven biển Trung Quốc, hàng trăm ông chủ
nước ngoài tháo chạy vì không thanh toán nổi các hóa đơn; các đoàn tàu chở hàng
triệu lao động nhập cư làm việc tại các thành phố trở lại quê hương bản quán.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) ước tính thiệt hại của cuộc khủng hoảng này lên
đến 1.000 tỷ USD.
Từ đống đổ vỡ ngổn ngang của nền kinh tế, tài chính toàn cầu, các nhà chính trị,
các nhà kinh tế, các nhà quản lý tài chính đang tiếp tục mổ xẻ nguồn cơn con
bệnh, tìm cách xây dựng (hay vá víu lại) tòa nhà kinh tế tài chính quốc gia và
quốc tế. Qua một năm khủng hoảng, tình hình thế giới nổi lên mấy đặc điểm
chính:
Cuộc cải cách tài chính mong đợi vẫn chưa được thực hiện
Câu hỏi chính đặt ra hiện nay là làm thế nào để không rơi xuống vực thẳm
khủng hoảng một lần nữa. Nhiều dấu hiệu cho thấy các nhà tài phiệt Mỹ và
phương Tây lại “chứng nào tật nấy”. Họ lợi dụng các gói cứu trợ kinh tế, tài
chính của các chính phủ để thoát ra khỏi khủng hoảng để rồi lại lao vào các
cuộc chạy đua kiếm lời. G-8 mất vai trò lãnh đạo. G-20 ra đời chưa đầy một
năm, chưa được thử thách. Cuộc hội nghị thượng đỉnh G-20 lần thứ ba, tại
Pittsburgh (Mỹ) trong các ngày 24-25/9, chưa chắc đã đạt được đồng thuận về
phương pháp kiểm soát hoạt động của ngành ngân hàng, nhằm hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của các ngân hàng lớn nhất tới hệ thống tài chính quốc gia riêng
biệt cũng như tới hệ thống tài chính toàn cầu.
Trong diễn văn ngày 15/9, nhân một năm Lehman Brothers sụp đổ, Tổng thống
Mỹ Barack Obama khẳng định một trong những ưu tiên hàng đầu của chính
quyền Mỹ là cải cách các quy định tài chính nhằm ngăn chặn nguy cơ tái diễn
khủng hoảng, “để tránh rủi ro mang tính hệ thống như chúng ta đã trải qua nhằm
bảo vệ người tiêu dùng các sản phẩm tài chính, người đóng thuế và toàn bộ nền
kinh tế”. Theo tổng thống Mỹ, cách duy nhất để tránh cuộc khủng hoảng tương
tự là phải đảm bảo rằng các tập đoàn lớn không bị những rủi ro đe dọa toàn bộ
- hệ thống tài chính và có đủ lực để chống đỡ với những cơn bão tài chính tồi tệ
nhất. Đồng thời phải có các chế tài để tránh tái diễn “thời kỳ làm ăn với tác
phong khinh suất và thiếu kiểm tra quá mức”, từng dẫn tới cuộc khủng hoảng
hiện nay.
Một vấn đề đang nằm trong chương trình nghị sự của chính quyền các nước tư
bản phát triển là vấn đề những khoản tiền thưởng quá lớn cho những người môi
giới chứng khoán và các lãnh đạo ngân hàng. Một năm sau khi xảy ra khủng
hoảng, cốt lõi của vấn đề vẫn còn nguyên vẹn. Theo Giáo sư Thami Kabbaj của
Đại học Dauphine (Paris), tiền thưởng quá cao chỉ là “phần nổi của tảng băng
chìm”. Điều quan trọng nhất là khi đưa ra những quy định về vấn đề thưởng
tiền, các ngân hàng sẽ phải hết sức thận trọng khi đem tiền của người khác đi
đầu tư. Nhiều người trong số họ đã coi thị trường chứng khoán như một sòng
bạc khổng lồ, tha hồ đánh bạc bằng tiền của người khác. Một trong những biện
pháp để giới hạn rủi ro trên thị trường là cần xem xét lại chính sách lương bổng
dành cho giới lãnh đạo công ty.
Nhưng cuộc cải cách tài chính mà người ta mong đợi vẫn chưa được thực hiện.
Giới tài chính Phố Uôn (Wall Street) và các trung tâm tài chính thế giới chưa
thông suốt bài học khủng hoảng. Họ nhanh chóng trở lại với “văn hóa tặng
thưởng” và ra sức bảo vệ đặc quyền của mình.
Những dự án về các quy định tài chính Mỹ vẫn chờ Quốc hội Mỹ thông qua. Các
nền kinh tế chủ chốt phương Tây vẫn chưa nhất trí được những tiêu chí nghiêm
ngặt đối với các thị trường tài chính và việc ấn định một “mức trần” cho các
khoản tiền thưởng. EU đã thống nhất lập trường về vấn đề này, kêu gọi G-20
đưa ra những quy định mang tính ràng buộc và yêu cầu minh bạch hơn về cơ cấu
tiền thưởng. EU muốn tiền thưởng cho giới chủ ngân hàng phải được gắn với
hoạt động lâu dài của công ty và phải được thu hồi nếu công ty hoạt động kém
hiệu quả. Các nhà lãnh đạo EU cũng muốn chấm dứt việc thưởng bằng cổ
phiếu. Một lần nữa, Tổng thống Pháp Sarkozy thể hiện lập trường cứng rắn khi
tuyên bố sẽ rút khỏi Hội nghị Pittsburgh nếu cuộc họp không đi đến thỏa thuận
nhằm hạn chế vấn đề này.
- Khủng hoảng kinh tế như sao chổi va quệt dữ dội vào khối kinh tế Bắc Mỹ
NAFTA - một biểu tượng của liên kết kinh tế khu vực của thế kỷ 20. Canada,
- người hàng xóm của Mỹ phàn nàn rằng khoảng 250 công ty Canada đã bị loại
khỏi các cuộc đấu thầu xây dựng hạ tầng ở Mỹ bởi điều khoản “người Mỹ
dùng hàng Mỹ” mà các dân biểu Mỹ gài vào gói cứu trợ kinh tế trị giá 787 tỷ
USD của chính quyền Obama. Mỹ và EU tranh cãi về trợ cấp cho các hãng chế
tạo máy bay. Các thành viên EU bất đồng về cách thức phân biệt đối xử trong
cứu trợ các hãng ô tô, khi các chính phủ Pháp và Italia chỉ cứu trợ những hãng ô tô
nào đẩy mạnh hoạt động nội địa.
Mới đây nhất, ngày 11/9, Mỹ tuyên bố áp thuế cao (35% so với 4% như hiện nay)
đối với lốp xe nhập từ Trung Quốc nhằm bảo vệ các nhà sản xuất trong nước
trước tình trạng nhập ồ ạt lốp xe từ Trung Quốc vào Mỹ đã làm 5.000 lao động
của Mỹ mất việc làm kể từ năm 2004. Quyết định của tổng thống Mỹ áp thuế
đối với lốp xe Trung Quốc là tín hiệu cho thấy Washington sẽ thực hiện cam kết
đối với liên đoàn lao động trong việc tuân thủ các quy định thương mại một cách
chặt chẽ hơn, đặc biệt là đối với Trung Quốc.
Ở Trung Quốc xuất hiện làn sóng phản đối rầm rộ, đặc biệt trên mạng Internet
dẫn tới việc hai ngày sau Bắc Kinh quyết định điều tra chống phá giá nhằm vào
“một số sản phẩm ô tô và thịt gà” nhập khẩu từ Mỹ. Cả hai chính phủ đều bị áp
lực từ trong nước phải cứng rắn hơn trong việc bảo vệ các lợi ích thương mại
quốc gia.
Giới quan sát lo ngại, tranh chấp thương mại Mỹ-Trung lần này có nguy cơ vượt
ngoài tầm kiểm soát và tác động tiêu cực đến phục hồi kinh tế thế giới. Thực ra,
các vụ tranh chấp này chỉ giá trị hơn 1 tỷ USD thương vụ mỗi bên, hai nước sẽ
tìm cách giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng vì những lợi ích tương
hỗ rộng lớn hơn.
Sâu xa hơn, đây là cuộc “so găng” mang tính thăm dò giữa một nền kinh tế đứng
đầu trật tự kinh tế cũ của thế giới tư bản với một nền kinh tế đứng đầu trật tự
kinh tế mới nổi, được kích hoạt bởi cuộc khủng hoảng kinh tế tài tài chính toàn
cầu bắt đầu từ một năm trước./.
Những tháng đầu sau khủng hoảng, các quốc gia nhận thức tính cấp thiết phải
thảo ra quy tắc chung, nhưng nay có thể còn kéo dài rất lâu. Hội nghị G-20
Pittsburgh sẽ cho thấy các nhà lãnh đạo những nền kinh tế chủ chốt thế giới có
- đạt tới các quyết sách mong đợi hay tiếp tục kéo lê tư tưởng của mình trên
những vết xe đổ từng dẫn tới cuộc khủng hoảng.
Vai trò nhà nước tăng cường
Cuộc tranh cãi cuối thế kỷ trước về “bàn tay vô hình” và “bàn tay hữu hình” – cái
nào quan trọng hơn đối với nền kinh tế - dường như đã được định đoạt. Tổng
thống Nga Dmitri Medvedev đã “sơ kết” vấn đề này tại Hội nghị quốc tế “Nhà
nước hiện đại và an ninh toàn cầu”, tổ chức ngày 14/9 tại Yaroslav (Nga), khi
ông khẳng định vai trò của nhà nước đang tăng đáng kể so với các định chế quốc
tế trong cuộc khủng hoảng hiện nay. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã bác
bỏ những lập luận hạ thấp vai trò của nhà nước có chủ quyền trong thời đại
toàn cầu hóa. Ông nhấn mạnh, trong thời kỳ khó khăn vừa qua, chính các nhà
nước có chủ quyền đã đưa ra những chương trình chống khủng hoảng, biện pháp
ổn định và sự bảo đảm xã hội cho người dân, góp phần ổn định kinh tế thế giới,
chứ không phải các công ty đa quốc gia hay các tổ chức quốc tế. Khủng hoảng
đã làm gay gắt hơn hàng loạt vấn đề xã hội, gia tăng đáng kể tỉ lệ thất nghiệp
dẫn đến giảm thu nhập của người dân, khiến điều kiện sống của hàng chục,
hàng trăm triệu người trên hành tinh thêm tồi tệ. Trách nhiệm của mỗi chính phủ
là đưa ra các giải pháp cần thiết.
Trong năm qua, chính phủ Trung Quốc tiến hành một loạt cải cách quan trọng
trong các lĩnh vực phân phối thu nhập, y tế và giá cả. Trung Quốc một mặt duy
trì vai trò điều phối của thị trường, nhưng mặt khác tăng cường biện pháp kiểm
soát vĩ mô của chính phủ. Phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) tổ chức
tại thành phố Đại Liên (Trung Quốc), ngày 12/9, ông Trương Hiểu Cường, Phó
Chủ nhiệm Ủy ban cải cách và phát triển quốc gia Trung Quốc, nhấn mạnh
Trung Quốc chỉ có thể đạt được phát triển bền vững khi có sự kết hợp giữa “bàn
tay vô hình” của thị trường với “bàn tay hữu hình” của nhà nước.
Tổng thống Mỹ cho biết, theo kế hoạch cải cách hệ thống quy định tài chính,
chính quyền Mỹ sẽ trao thêm quyền hạn mới cho Cục Dự trữ Liên bang (FED)
đối với các định chế tài chính khổng lồ, trong đó có khả năng tịch biên các ngân
hàng mà sự sụp đổ của chúng sẽ đe dọa tới nền kinh tế quốc dân. Chính quyền
Mỹ dự kiến sẽ thành lập một tổ chức mới gọi là Cơ quan Bảo vệ Người tiêu
dùng Tài chính đối với các sản phẩm như tiền vay mua nhà, mua xe hơi, thẻ tín
- dụng. Nhưng nhiều đề nghị đã bị giới ngân hàng Mỹ phản đối kịch liệt. Xem ra
chính quyền Obama chưa khắc phục được sức cán phá của các tập đoàn lợi ích ở
Mỹ, nhất là giới lãnh đạo ngân hàng.
Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch ngóc đầu dậy
Bảo hộ mậu dịch hay tự do thương mại một lần nữa được đặt lên bàn cân. Ngày
14/9, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nhận xét hầu hết các nền kinh tế
hàng đầu thế giới đã sử dụng “những cơ chế bảo vệ thương mại” để vượt qua
cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Thế giới sau khủng hoảng: Đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc sẽ “soán
ngôi” đồng USD?
Hiện nay, các thương mại mậu dịch đều dựa trên đồng USD. Nhưng Trung Quốc
lại muốn đưa đơn vị đồng Nhân dân tệ của mình trong các mậu dịch thương mại
của thế giới. Krugman khẳng định: “Tôi không nghĩ đồng nhân dân tệ soán ngôi
USD. Đồng tiền quốc tế là đồng tiền sống mà mọi người muốn sử dụng chứ
không thể bắt dùng loại tiền này mà không dùng loại tiền kia. Hiện nay, đồng
Nhân dân tệ không thể chuyển thành đồng quốc tế. Đồng EURO có thể cạnh
tranh với USD nhưng chưa thể là thách thức lớn đối với USD”.
Phần 2:
Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế đến kinh tế Việt Nam
như thế nào.Đánh giá của anh chị về vị thế của kinh tế Việt Nam
trước,trong và sau khủng hoảng.
Tác động trực tiếp đối với nền kinh tế Việt Nam thì không lớn, vì chưa có định
chế tài chính nào của Việt Nam đầu tư vào trái phiếu MBS và các hợp đồng cho
vay cầm cố như Mỹ.
Nói là không tác động lớn và không trực tiếp thôi, nhưng khủng hoảng tài chính ở
Mỹ hiện nay cũng có những tác động nhất định đến thị trường tài chính - tiền tệ
Việt Nam, vì kinh tế Mỹ là nền kinh tế lớn chiếm 30% tổng sản lượng, chu
chuyển vốn thị trường thế giới. Trong điều kiện hiện nay, tất cả các quốc gia
đều đã hội nhập nên “nhất cử, nhất động” của một nền kinh tế nào đó cũng có
ảnh hưởng nhất định đối với thế giới, chưa nói tới một nền kinh tế lớn như Mỹ.
Nhưng tác động gián tiếp lại khá mạnh. Trước mắt có những vấn đề, ví dụ lãi
suất cho vay liên ngân hàng quốc tế - LIBOR và SIBOR - đang tăng. Nó có thể
- ảnh hưởng tới nợ ngắn hạn của Việt Nam tại các ngân hàng thương mại và
doanh nghiệp.
Mặc dù số nợ này không lớn, chỉ khoảng hai tỷ USD, nhưng người ta buộc phải
tái cấu trúc kỳ hạn và lãi suất, và như thế có thể ảnh hưởng tình hình tài chính
của một số ngân hàng và doanh nghiệp.
Khủng hoảng ở Mỹ có thể làm cho người dân dự đoán USD sẽ xuống giá và họ
có thể rút USD khỏi ngân hàng, hoặc bán USD mua tiền Việt gửi vào. Nó có thể
làm cấu trúc tài sản của các ngân hàng rơi vào thế bất lợi.
Trong lĩnh vực thương mại, một khi mà người tiêu dùng Mỹ thắt chặt hầu bao
thì nhiều nền kinh tế dựa chủ yếu vào nguồn lợi từ xuất khẩu chắc chắn sẽ gặp
rất nhiều khó khăn.
Với Việt Nam cũng vậy, hiện nay 60% GDP của chúng ta là để phục vụ cho xuất
khẩu, mà Mỹ là thị trường nhập khẩu quan trọng các mặt hàng dệt may, da giày,
thuỷ sản của Việt Nam. Khủng hoảng tài chính của Mỹ có thể làm cho xuất
khẩu của Việt Nam vào Mỹ giảm mạnh vì hai lý do (1) Là hàng xuất khẩu của
Việt Nam một phần lớn vẫn là các loại hàng thô, trong khi giá các nguyên liệu
thô trên thị trường thế giới đang giảm, kể cả khi không có khủng hoảng ở Mỹ,
và (2) là sự eo hẹp của thị trường tài chính dẫn đến eo hẹp thị trường nhập khẩu
hàng hóa, nhu cầu về hàng xuất khẩu của Việt Nam giảm đi.
Không riêng gì Việt Nam mà nhiều quốc gia ở châu Á còn phải chịu những tác
động sâu xa hơn từ việc thị trường xuất khẩu lớn nhất bị suy thoái. Mỹ là một
nền kinh tế 70% tiêu dùng. Một khi mà người tiêu dùng Mỹ thắt chặt hầu bao,
không còn vung tiền chi tiêu mua sắm ôtô, tivi, tủ lạnh, thực phẩm... thì các nền
kinh tế dựa chủ yếu vào nguồn lợi từ xuất khẩu chắc chắn sẽ gặp rất nhiều khó
khăn.
Giá bất động sản ở Việt Nam cũng có thể xuống thấp hơn nữa. Mà bất động sản
xuống thì tài sản ngân hàng cũng xuống theo và nợ xấu có thể tăng lên. Theo báo
cáo của Ngân hàng Nhà nước thì dư nợ cho vay bất động sản tính đến cuối tháng
9/2008 là 115.500 tỷ VND, chiếm 9,15% tổng dư nợ toàn hệ thống. Bao nhiêu là
nợ đã quá hạn hoặc khó đòi thì không có báo cáo.
Kết quả tài chính của nhiều ngân hàng thương mại có thể không được như mong
muốn vào cuối năm nay. Đấy là những tác động ngắn hạn.
Vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có thể chững lại, thậm chí vốn đã cam kết
sẽ thực hiện trễ hơn bởi khoảng 80% vốn đầu tư vào Việt Nam là đi vay. Khi
không đi vay được thì nhà đầu tư sẽ khó giải ngân vào Việt Nam. Vốn cam kết
thì lớn, nhưng vốn thực hiện có thể thấp, tình hình giải ngân những tháng cuối
năm sẽ gặp khó khăn.
Thị trường chứng khoán Việt Nam chưa gia nhập vào hệ thống thị trường
chứng khoán thế giới nên ảnh hưởng tương đối nhỏ. Lo ngại là phần lớn nhà
- đầu tư nước ngoài sẽ rút vốn về khi nguồn vốn của họ bị co lại. Khi đó, một
lượng không nhỏ USD sẽ ra khỏi Việt Nam.
Dù vốn của các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam
không nhiều, chỉ khoảng 20% tổng vốn, nhưng nếu họ rút ồ ạt thì sẽ ảnh hưởng
ngay đến thị trường chứng khoán Việt Nam.
Nếu các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu bán ra thì các cơ quan chức năng
của chúng ta nên nghiên cứu vấn đề này. Do vậy, thời gian tới Ủy ban Chứng
khoán, Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính cần phải họp bàn xem các tổ chức
nào sẽ có khả năng rút vốn ở thị trường Việt Nam và cần dự báo các tổ chức đó
bán cổ phần, cổ phiếu của Việt Nam đến mức nào, ảnh hưởng ra sao đến dự trữ
ngoại hối; cũng cần phải cảnh báo với thị trường và các nhà đầu tư trong nước
để tránh hoảng loạn trên thị trường.
Khu vực ngân hàng của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng không phải quá
lớn. Những ngân hàng nhỏ với vốn điều lệ dưới mức tối thiểu quy định 1.000 tỷ
đồng có thể sẽ phải sáp nhập với các ngân hàng lớn, nhưng sự đổ bể của hệ
thống tài chính Việt Nam khó có khả năng xẩy ra.
Nhưng lợi nhuận của nhiều ngân hàng có thể giảm, thậm chí một số có
thể lỗ. Đến cuối năm nợ xấu có thể tăng lên và lúc bấy giờ Chính phủ có thể
buộc phải có giải pháp để xử lý các khoản nợ xấu. Cuộc khủng hoảng tài chính
ở Mỹ không chỉ gây chấn động hệ thống tài chính Mỹ mà cơn “địa chấn tài
chính” này đang lan rộng và đe dọa sự ổn định của nhiều quốc gia khác. Trong
một thế giới toàn cầu hóa như ngày nay, sớm hay muộn thì cuộc khủng hoảng
này sẽ tạo ra những “sang chấn” đáng kể đổi với nền kinh tế vĩ mô của Việt
Nam.
Theo tôi, các tác động cụ thể của cuộc khủng hoảng này có thể bao gồm:
(i) Nhu cầu đối với sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam sẽ bị thu hẹp (hơn 50%
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam là sang thị trường Mỹ, EU và Nhật Bản);
(ii) Nguồn tín dụng đang dần trở nên cạn kiệt của thế giới sẽ làm cho hoạt động
đầu tư trực tiếp và gián tiếp suy giảm trên phạm vi toàn cầu, và Việt Nam không
phải là một ngoại lệ;
(iii) Tác động tới khu vực ngân hàng có vẻ như khó nhận thấy hơn. Vì mức độ và
trình độ liên kết của các ngân hàng thương mại Việt Nam đối với hệ thống tài
chính quốc tế còn rất hạn chế nên chúng sẽ ít chịu tác động trực tiếp.
(iv) Thâm hụt tài khoản vãng có thể bị nới rộng. Đồng thời các dòng vốn đổ vào
(FDI, FPI, kiều hối) lại ít đi sẽ làm cán cân thanh toán trở nên xấu đi.
v) Đối với khu vực doanh nghiệp, điều đáng lo ngại là tình trạng cạn kiệt tín
dụng trên thế giới lại xảy ra đúng vào lúc tín dụng dành cho khu vực doanh
- nghiệp dân doanh ở Việt Nam đang khan hiếm và lãi suất vay vẫn đang được duy
trì ở mức tương đối cao.
- Chúng ta cùng theo dõi cuộc phỏng vấn với Chủ tịch Ngân hàng Phát
triển Châu Á (ADB), ông Haruhiko Kuroda, cho rằng: Sự suy giảm của nền
kinh tế Mỹ có tác động nhất định tới các nước châu Á, tuy nhiên mức độ
ảnh hưởng đến Việt Nam là không đáng kể.
Sau chuyến thăm Việt Nam theo lời mời của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, ông
Haruhiko Kuroda, đã có cuộc họp báo tại Hà Nội vào sáng nay 21/2. Chủ tịch
ADB cho hay, ông đã có một chuyến thăm thành công và thú vị tại Việt Nam 2
ngày qua: “Tôi kết thúc chuyến thăm đất nước các bạn với niềm hy vọng và lạc
quan vào sự phát triển của Việt Nam”.
Nền kinh tế toàn cầu đang bị suy giảm, đánh giá của ông về tác động của nó tới
kinh tế Việt Nam như thế nào?
Chúng tôi hoàn toàn tin tưởng nền kinh tế Việt Nam phát triển rất vững chắc, có
thể đạt GDP từ 8,5 - 9% trong trung và dài hạn với điều kiện Việt Nam tiếp tục
cải cách.
Ngắn hạn trong năm 2008, nền kinh tế các nước châu Á bị tác động nhất định
bởi sự suy giảm toàn cầu, bắt nguồn từ Hoa Kỳ tuy nhiên, Việt Nam bị ảnh
hưởng không nhiều và không đáng kể. Tăng trưởng của Việt Nam năm nay có
thể giảm xuống 8% nhưng chúng tôi cho rằng, sự giảm sút là hữu ích để kiểm
soát lạm phát và đảm bảo phát triển kinh tế bền vững.
Với sức ép lạm phát, Việt Nam đang áp dụng nhiều biện pháp trong đó có việc
thắt chặt chính sách tiền tệ. Theo ông, điều này có hợp lý trong giai đoạn hiện
nay không?
Trong chuyến thăm Việt Nam, tôi đã có buổi gặp Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Nguyễn Văn Giàu và chúng tôi đã thảo luận rất nhiều vấn đề liên quan tới
kinh tế vĩ mô, lạm phát…
Theo quan điểm của tôi, dưới sức ép lạm phát đang đi lên, Chính phủ Việt Nam
cần thắt chặt chính sách tiền tệ. Lạm phát năm 2007 đã tăng 2 con số, tôi tin với
những biện pháp thắt chặt tiền tệ, Việt Nam có thể giảm lạm phát xuống một
con số và giảm trong một vài tháng tới.
- Vậy tại sao các nước châu Á vẫn duy trì mức lạm phát chỉ bằng 1/4, 1/5 so với
Việt Nam?
Trong thời gian qua, sức ép lạm phát do giá hàng hoá, lương thực, giá dầu tăng
nên Việt Nam cần có sự kiểm soát, giám sát chặt chẽ và có biện pháp giảm sức
ép lạm phát. Việt Nam cũng cầm giám sát chặt chẽ tình hình biến động tài khoản
vãng lai.
Nếu nhìn vào các nền kinh tế khác ở châu Á có tỷ lệ lạm phát tương đối thấp
như Thái Lan, Philippines… sẽ thấy những nước này dù lạm phát thấp nhưng
cũng phải chịu tác động của nhiều nhân tố bên ngoài. Bí quyết của các nước này
là trong thời gian vừa qua họ đã tăng giá đồng nội tệ.
Khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập bậc trung, hỗ trợ của ADB có thay đổi
so với hiện nay không, thưa ông?
Trong một vài năm tới, chúng tôi cũng có thể thay đổi sự hỗ trợ đối với Việt
Nam trong một số lĩnh vực khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập bậc trung
như Thái Lan, Trung Quốc.
Nhưng mức thay đổi phụ thuộc vào nhiều yếu tố: mức độ phát triển kinh tế, ưu
tiên phát triển kinh tế của Việt Nam trong tương lai.
Khi Việt Nam trở thành một nước có thu nhập trung bình, thậm chí thành một
nước công nghiệp thì nhu cầu về cơ sở hạ tầng, bảo vệ môi trường, quy hoạch
cần phải có sự khác hơn.
Tuy nhiên tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng giảm đói nghèo vẫn là một trong
những thách thức đối với Việt Nam, kể cả ở các nước thu nhập bậc trung như
Trung Quốc, Thái Lan và một số nước ở khu vực Trung Á khác, trong những
năm tới.
* Việt Nam là một quốc gia nghèo và đông dân đang dần bình phục và phát
triển sau sự tàn phá của chiến tranh, sự mất mát viện trợ tài chính từ khối các
nước xã hội chủ nghĩa trước đây, và sự yếu kém của nền kinh tế tập trung.
Chính sách Đổi Mới năm 1986 thiết lập nền "kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa". Các thành phần kinh tế được mở rộng nhưng các ngành kinh
tế then chốt vẫn dưới sự điều hành của Nhà nước. Sau năm 1986, kinh tế Việt
Nam đã có những bước phát triển to lớn và đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế
trung bình khoảng 9% hàng năm từ 1993 đến 1997. Tăng trưởng GDP 8,5% vào
năm 1997 đã giảm xuống 4% vào năm 1998 do ảnh hưởng của sự kiện khủng
hoảng kinh tế Á châu năm 1997, và tăng lên đến 4,8% năm 1999. Tăng trưởng
GDP tăng lên từ 6% đến 7% giữa những năm 2000-2002 trong khi tình hình kinh
- tế thế giới đang trì trệ. Hiện nay, giới lãnh đạo Việt Nam tiếp tục các nỗ lực tự
do hóa nền kinh tế và thi hành các chính sách cải cách, xây dựng cơ sở hạ tầng
cần thiết để đổi mới kinh tế và tạo ra các ngành công nghiệp xuất khẩu có tính
cạnh tranh hơn.
Gạo - một trong những mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam
Mặc dù có tốc độ phát triển kinh tế cao trong một thời gian dài nhưng do tình
trạng tham nhũng không được cải thiện và luôn bị xếp hạng ở mức độ cao của
thế giới cộng với các khó khăn về vốn, đào tạo lao động, đất đai, cải cách hành
chính, cơ sở hạ tầng gây ra cho việc kinh doanh với hàng chục ngàn thủ tục từ 20
năm trước đang tồn tại và không phù hợp với nền kinh tế thị trường nên với con
số cam kết đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) cao kỷ lục 61 tỉ USD năm
2008 chưa nói lên được mức độ tin tưởng của các nhà đầu tư quốc tế đối với
Việt Nam và Việt Nam đang bị các nước trong khu vực bỏ lại khá xa, theo Báo
cáo phát triển Việt Nam 2009 của Ngân hàng Thế giới WB thì Việt Nam đã bị tụt
hậu về kinh tế tới 51 năm so với Indonesia, 95 năm so với Thái Lan và 158 năm
so với Singapore[9].
Ngày 7 tháng 11 năm 2006, Việt Nam được phép gia nhập Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) sau khi đã kết thúc đàm phán song phương với tất cả các nước
có yêu cầu (trong đó có những nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu
(EU), Nhật Bản, Trung Quốc. Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150
của tổ chức WTO ngày 11 tháng 1 năm 2007.
nguon tai.lieu . vn