Xem mẫu

  1. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020 ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ NHẰM TĂNG THU NHẬP CỦA CÁC NHÀ SẢN XUẤT TRONG NƯỚC TRONG CHUỖI GIÁ TRỊ CÀ PHÊ TOÀN CẦU APPLICATION OF E-COMMERCE TO INCREASE INCOME OF VIETNAM'S PRODUCERS IN THE GLOBAL COFFEE VALUE CHAIN PGS. TS. Nguyễn Văn Minh Trường Đại học Thương mại Tóm tắt Thương mại điện tử đã được áp dụng trong thương mại cà phê hạt và sản phẩm cà phê chế biến ở nhiều nước trên thế giới, góp phần giảm tác động của “nghịch lý cà phê”, đem lại phần thu nhập cao hơn cho người sản xuất và chế biến, nhất là người nông dân trồng cà phê ở các nước đang phát triển. Bài viết trình bày các ứng dụng thương mại điện tử tương ứng với các loại cà phê và sản phẩm chế biến khác nhau, tóm tắt thực trạng chuỗi giá trị cà phê Việt Nam và đưa ra một số khuyến nghị về ứng dụng thương mại điện tử nhằm tăng thu nhập của người sản xuất trong nước trong chuỗi giá trị cà phê toàn cầu. Từ khóa: Chuỗi giá trị cà phê toàn cầu (CGTCPTT), Thương mại điện tử (TMĐT) Abstract E-commerce has been applied in the trade of coffee beans and processed coffee products in many countries around the world, contributing to reducing the impact of the "coffee paradox", resulting in a higher income for coffee producers, especially for coffee farmers in developing countries. The paper presents e- commerce applications corresponding to the different types of coffee beans and processed products, summarizes the status of Vietnam's coffee value chain and provides some recommendations on application of e-commerce to increase the income of domestic producers in the global coffee value chain. Keywords: Global coffee value chain, Electronic commerce 1. Đặt vấn đề Cà phê là sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới được giao dịch rộng rãi trên thế giới. Ước tính có khoảng 70 quốc gia với 25 triệu nông dân, các hộ sản xuất nhỏ sản xuất tới 80% cà phê trên thế giới. Đồng thời, sản phẩm nông nghiệp này cung cấp sinh kế cho 100 triệu người khác. Mức tiêu thụ cà phê toàn cầu ước tính khoảng hơn 70 tỷ đô la Mỹ năm 2011 [12] và 83 tỷ đô la Mỹ năm 2017 [18]. Mặc dù nhu cầu cà phê toàn cầu ngày càng tăng, giá cà phê có xu hướng giảm do sự tăng trưởng mạnh của sản xuất, dẫn đến thu nhập của người trồng cà phê giảm sút một cách nghiêm trọng, trong khi thu nhập của các nhà chế biến sản phẩm (nhà rang xay) và nhà kinh doanh cà phê tiếp tục gia tăng. Tình huống này được gọi là nghịch lý cà phê (coffee paradox). Cấu trúc truyền thống của chuỗi giá trị cà phê toàn cầu (CGTCPTC) và sức mạnh tương đối của các trung gian chế biến và kinh doanh cà phê ở các nước phát triển là nguyên nhân chính của nghịch lý này. Thương mại điện tử (TMĐT) có thể góp phần cơ cấu lại CGTCPTC thông qua những thay đổi mà nó tạo nên, đặc biệt là việc loại bỏ một số trung gian trong chuỗi, tăng sự kết nối trực tiếp giữa người nông dân sản xuất cà phê ở các nước đang phát triển và người tiêu dùng ở các nước phát triển. Việt Nam là quốc gia sản xuất và xuất khẩu cà phê lớn thứ hai trên thế giới, sau Brazil. Sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam cũng nằm trong bối cảnh nghịch lý cà phê nói trên. Do đó, cần phát triển ứng dụng TMĐT cho mục đích giảm thiểu tác động của nghịch lý đó. 2. Một số khái niệm liên quan 2.1. Chuỗi giá trị Khái niệm chuỗi giá trị (CGT) được mô tả lần đầu tiên bởi Porter (1985) [8]. CGT là một loạt các hoạt động cần thiết để đưa một sản phẩm (hoặc dịch vụ) qua các giai đoạn khác nhau đến người tiêu dùng cuối cùng. 24
  2. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020 CGT có thể được xem xét trên các cấp độ công ty, ngành và toàn cầu. CGT công ty: Trên góc độ công ty, CGT là tập hợp các hoạt động mà một công ty hoạt động trong một ngành cụ thể thực hiện để cung cấp một sản phẩm (hàng hóa và/hoặc dịch vụ) có giá trị cho thị trường. CGT ngành bao gồm tất cả các hoạt động tạo ra giá trị trong ngành, bắt đầu bằng nguyên liệu thô và kết thúc bằng sản phẩm hoàn thành được giao cho khách hàng [17]. CGT toàn cầu mô tả các hoạt động liên quan đến sản xuất, cung cấp, phân phối hàng hóa/dịch vụ và các hoạt động sau bán hàng khi các hoạt động nói trên được phối hợp giữa các khu vực địa lý. Chuỗi giá trị toàn cầu tương tự như CGT ngành nhưng bao gồm các hoạt động ở cấp độ toàn cầu. [12]. Đối với một công ty, phân tích CGT là một công cụ chiến lược được sử dụng để phân tích các hoạt động nội bộ công ty. Mục tiêu phân tích là nhận ra hoạt động nào có giá trị nhất cho công ty và hoạt động nào có thể được cải thiện để mang lại lợi thế cạnh tranh. Đối với một quốc gia, các cơ quan/tổ chức liên quan khác nhau có thể sử dụng kết quả phân tích CGT, đặc biệt là CGT ngành và toàn cầu để đưa ra các chính sách công nghiệp và kế hoạch chiến lược. 2.2. Thương mại điện tử Thương mại điện tử (TMĐT) đề cập đến việc sử dụng Internet và mạng nội bộ để mua, bán, vận chuyển hoặc trao đổi dữ liệu, hàng hóa hoặc dịch vụ [4]. TMĐT bao gồm nhiều loại hình khác nhau, trong đó TMĐT doanh nghiệp với doanh nghiệp và TMĐT doanh nghiệp với người tiêu dùng được nói tới nhiều nhất. TMĐT doanh nghiệp với người tiêu dùng (B2C) đề cập đến các giao dịch giữa các tổ chức/doanh nghiệp với người tiêu dùng. TMĐT doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B) đề cập đến các giao dịch giữa các tổ chức/doanh nghiệp với nhau. Hiện nay, khoảng 85% giá trị TMĐT là B2B. TMĐT B2B có thể thực hiện qua các mạng giá trị gia tăng dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, qua mạng Internet và qua mạng di động. Trong môi trường Web/Internet, doanh nghiệp có thế bán/cung cấp hàng hóa, dịch vụ qua các website của mình, qua các trung tâm/sàn giao dịch điện tử hoặc các nền tảng khác của bên thứ ba. Các kênh trực tuyến khác như thư điện tử, mạng xã hội... cũng được doanh nghiệp sử dụng rộng rãi với mục đích truyền thông marketing. Thương mại điện tử có thể đem lại nhiều lợi ích cho tổ chức/doanh nghiệp, người tiêu dùng và xã hội. Lợi ích cho các tổ chức: Tiếp cận toàn cầu; Giảm chi phí; Hỗ trợ giải quyết vấn đề; Cải thiện chuỗi cung ứng; Hoạt động toàn thời gian; Tùy biến/cá nhân hóa; Có khả năng đổi mới, sử dụng các mô hình kinh doanh mới; Chi phí truyền thông thấp hơn; Mua sắm hiệu quả; Cải thiện dịch vụ và quan hệ khách hàng; Giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ cạnh tranh; Duy trì hàng tồn kho thấp hơn; Chi phí phân phối sản phẩm số hóa thấp hơn; Mang lại lợi thế cạnh tranh. Lợi ích cho người tiêu dùng: Lựa chọn phong phú; mua hàng mọi nơi; Khả năng tự cấu hình; Tìm món hời; Giao hàng theo thời gian thực; Không có/giảm thuế bán hàng; Cho phép làm việc từ xa; Tương tác xã hội; Tìm vật phẩm độc đáo; Thuận tiện mua sắm. Lợi ích cho xã hội: Cho phép làm việc từ xa; Nhiều dịch vụ công cộng hơn; Cải thiện an ninh nội địa; Nâng cao mức sống; Giảm dãn cách kỹ thuật số. 3. Chuỗi giá trị cà phê toàn cầu và ứng dụng thương mại điện tử trong chuỗi 3.1. Chuỗi giá trị cà phê toàn cầu * Sơ đồ chuỗi giá trị cà phê toàn cầu (CGTCPTC) Hình 1 cho thấy bảy tác nhân chính có thể được xác định trong CGTCPTC: người trồng cà phê, 25
  3. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020 nhà chế biến, nhà xuất khẩu, thương nhân quốc tế, nhà rang xay, nhà bán lẻ và người tiêu dùng. Chuỗi giá trị này có thể được chia thành hai phần: một phần tương ứng với các tác nhân ở các nước đang phát triển và phần khác ở các nước phát triển. Trong ngữ cảnh của bài viết này, hai tác nhân đầu của chuỗi giá trị - người trồng cà phê và nhà chế biến cà phê - được coi là nhà sản xuất cà phê trong nước. Người trồng cà phê - chủ yếu người nông dân - sản xuất ra quả cà phê. Hai loài cây cà phê chính là Arabica (Coffea arabica), được đánh giá cao nhất về mặt hương vị và do đó có giá trị hơn, và Robusta (Coffea canephora) có khả năng kháng bệnh và năng suất cao hơn, nhưng có vị đắng và hàm lượng caffein nhiều hơn. Quả cà phê thường được hái bằng tay theo một quy trình lao động nặng nhọc để chọn ra những quả cà phê chín. Người trồng Thương nhân cà phê toàn cẩu Nhà rang Nhà chế biến Nhà xuất Nhà rang xay khẩu xay Nhà bán lẻ Nhà bán lẻ Người tiêu Người tiêu dùng dùng Quốc gia đang phát triển Quốc gia phát triển Hình 1: Sơ đồ CGTCPTC truyền thống Nguồn: [5] Quả cà phê sau khi thu hoạch được xử lý để tách hạt ra khỏi vỏ, cùi và giảm độ ẩm trong hạt. Quá trình tạo ra cà phê hạt được tiến hành trong các cơ sở chế biến. Vì phần lớn những người nông dân nhỏ không có năng lực chế biến, họ bán cà phê quả thu hoạch được cho các nhà máy chế biến cà phê độc lập, hoặc tham gia các hợp tác xã để cùng nhau chế biến. Không phải tất cả cà phê sản xuất đều được xuất khẩu; một phần còn lại ở quốc gia cho tiêu dùng địa phương (xem phía bên trái Hình 1). Khoảng ba mươi phần trăm cà phê được tiêu thụ nội bộ tại các nước sản xuất cà phê ở vụ cà phê 2012-2013. Tuy nhiên, hầu hết các quốc gia sản xuất cà phê có thị trường cà phê nội địa khá nhỏ, ngoại trừ Brazil, Indonesia, Mexico và Ethiopia có tiêu dùng nội địa đáng kể [7]. Cà phê tiêu thụ nội địa được rang xay bởi các công ty địa phương và sau đó được bán cho người tiêu dùng trong cùng quốc gia, chủ yếu thông qua các siêu thị địa phương. Cà phê hạt thông thường là đối tượng xuất khẩu chính của các nước sản xuất cà phê. Cà phê hạt được bán cho các thương nhân toàn cầu thông qua các đại lý xuất khẩu hoặc trực tiếp cho các nhà rang xay ở các nước tiêu thụ. Các nhà rang xay thường pha trộn các loại cà phê hạt khác nhau. Việc rang xay được thực hiện để tạo ra mùi thơm và hương vị của cà phê. Hầu hết cà phê rang được các nhà rang xay nghiền và đóng gói trong túi kín chân không. Tuy nhiên, một số khách hàng thích mua cà phê nguyên hạt sau khi rang và tự nghiền chúng trước khi pha. Các nhà bán lẻ, chủ yếu là siêu thị, bán cà phê rang xay hoặc cà phê nguyên hạt, cà phê hòa tan và cà phê khử caffein cho khách hàng. Ngoài ra còn có các nhà hàng, các quán cà phê bán lẻ cà phê tới người tiêu dùng. * Chức năng thị trường của các trung gian trong CGTCPTC Sơ đồ CGTCPTC (Hình 1) cho thấy có năm trung gian chính nằm giữa người nông dân ở các 26
  4. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020 nước đang phát triển và người tiêu dùng ở các nước phát triển. Ngoài việc sở hữu những năng lực hoạt động cần thiết cho sản xuất, chế biến và phân phối cà phê, các tác nhân này cũng thực hiện các chức năng thị trường, đó là các hoạt động cần thiết để tạo thuận lợi cho các giao dịch trong CGTCPTC. Bảng 1 trình bày các chức năng thị trường liên quan đến từng trong số năm trung gian này. Bảng 1. Chức năng thị trường của các trung gian trong CGTCPTC Chức năng thị trường Trung gian Cung ứng, kết nối người Cơ sở hạ tầng thể Thuận lợi hóa giao dịch mua và người bán chế - Hậu cần (thu mua, sơ chế, đóng gói cà phê hạt để xuất Xác định cung ứng cà phê Quy định (thi hành Các nhà chế khẩu) hạt các quy định về xuất biến - Thanh toán (trả tiền cho người khẩu của quốc gia) trồng cà phê) - Niềm tin (đảm bảo chất lượng) - Tìm kiếm (kết hợp cà phê - Logistics (vận chuyển cà phê - Pháp lý (lập và thực được sản xuất với sở thích hạt cho các thương nhân và hiện hợp đồng theo của các thương nhân và nhà nhà rang xay) quy định pháp luật) Các nhà xuất rang xay quốc tế) - Thanh toán (thu tiền thanh - Quy định (thực thi khẩu - Khám phá giá (xác định giá toán từ xuất khẩu và trả cho các quy định quốc cà phê hạt với các thương các nhà chế biến) gia và quốc tế về nhân và nhà rang xay quốc - Niềm tin (đảm bảo chất lượng) xuất khẩu cà phê hạt) tế) - Tìm kiếm (kết nối cà phê được sản xuất với sở thích - Hậu cần (lưu trữ cà phê hạt ở Quy định (thực thi của các nhà rang xay quốc Các thương các cảng quốc tế và sau đó vận các quy định quốc tế tế) nhân quốc tế chuyển đến các nhà rang xay) vể kinh doanh cà phê - Khám phá giá (xác định giá - Niềm tin (đảm bảo chất lượng) hạt) cà phê hạt với các nhà rang xay quốc tế) Các nhà rang Xác định cung cà phê rang - Niềm tin (đảm bảo chất lượng) xay quốc tế xay Khám phá giá (xác định giá Hậu cần (phân phối cà phê rang Các nhà bán lẻ cà phê rang xay với người xay hoặc đồ uống cà phê cho tiêu dùng) người tiêu dùng) Nguồn: [1] Các chức năng nói trên phản ánh các hoạt động mà những người nông dân nhỏ lẻ không có khả năng thực hiện do thiếu tính kinh tế theo quy mô, thiếu chuyên môn hoặc mạng lưới liên hệ. Chúng được nhóm thành ba loại chính: Cung ứng, kết nối với người mua và người bán; thuận lợi hóa các giao dịch; và cơ sở hạ tầng thể chế. Đấu giá và đàm phán được sử dụng như cơ chế định giá cho cà phê hạt, trong khi cơ chế giá cố định được sử dụng cho cà phê rang xay. Điều này là do cà phê hạt được giao dịch giữa các công ty với khối lượng lớn hơn, so với số lượng nhỏ cà phê rang xay được mua bởi người tiêu dùng. Hơn nữa, đảm bảo chất lượng cà phê là một hoạt động thị trường quan trọng đối với một số trung gian trong CGTCPTC, như Bảng 1 cho thấy. Đó là do cà phê là một hàng hóa trải nghiệm, chứ không phải là một hàng hóa tìm kiếm. Hàng hóa trải nghiệm là hàng hóa trong đó chất lượng và giá cả của nó chỉ có thể được đánh giá sau khi tiêu thụ, ngược lại, hàng hóa tìm kiếm có các đặc điểm có thể được xác định đầy đủ trước khi mua. * Phân chia, chiếm hữu thu nhập trong CGTCPTC 27
  5. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020 Một trong những bàn luận chính liên quan tới CGTCPTC nói riêng, cũng như CGT các sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới nói chung, là sự phân chia lợi ích giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển. Mỗi hoạt động được mô tả trong CGTCPTC làm gia tăng giá trị cho sản phẩm, và do đó được phản ánh trong giá bán lẻ sản phẩm cà phê cuối cùng. Người ta thường thấy một hệ thống phân phối giá trị tồn tại trong CGT, với thu nhập (phần giá trị giành được) ít hơn trong các khâu liên quan đến sản xuất nguyên liệu thô, thường nằm ở các nước nghèo hoặc đang phát triển. Lợi ích tăng lên ở các mối quan hệ liên quan tới sản xuất và phân phối, thường được đặt tại các nước giàu hoặc phát triển. Hơn nữa, trong các điều kiện độc quyền, một số trung gian có thể giành được siêu lợi nhuận - một khoản thu nhập thường vượt xa chi phí mà họ bỏ ra. Những điều kiện độc quyền có mặt trong CGTCPTC, vì bốn tập đoàn đa quốc gia kiểm soát tới 45% phân khúc cà phê rang [10]. Bốn tập đoàn này tương phản với 25 triệu người nông dân trồng cà phê. Những người nông dân nhỏ lẻ sản xuất cà phê chiếm tới 80% tổng sản lượng cà phê thế giới. Điều kiện nói trên dẫn đến phân phối thu nhập không đối xứng giữa các nước đang phát triển và đang phát triển, trong đó trung bình 30% giá bán lẻ cà phê được chia cho các chủ thể của các nước đang phát triển, trong khi 70% cho các nước phát triển. Đặc biệt, nông dân ở các nước đang phát triển chỉ nhận được 7-10% giá bán lẻ cà phê bán ở các nước phát triển [3]. Mặc dù hầu hết cà phê cho tiêu dùng cá nhân và gia đình được mua bán trong các siêu thị, nhưng các nhà bán lẻ cà phê không được hưởng vị trí đặc quyền trong CGTCPTC. Cà phê khác với các sản phẩm nông nghiệp khác, ví dụ như trái cây và rau quả. Đối với trái cây và rau quả, các nhà bán lẻ được hưởng vị trí đặc quyền vì họ trực tiếp thiết lập các tiêu chuẩn chất lượng và áp đặt các yêu cầu hậu cần. Do vậy, việc quản trị CGTCPTC hiện nay phản ánh quan hệ quyền lực giữa những người tham gia chuỗi nghiêng về phía các nhà rang xay quốc tế, đặc biệt là các công ty đa quốc gia. 3.2. Ứng dụng thương mại điện tử trong thương mại cà phê Các hệ thống TMĐT khác nhau trong thương mại cà phê trên thế giới được sử dụng phụ thuộc vào nhóm sản phẩm cà phê. Có 2 nhóm sản phẩm cà phê chính: cà phê hạt và cà phê rang xay. Nhóm cà phê hạt được chia thành 2 phân nhóm: phân nhóm cà phê hạt đại trà và phân nhóm cà phê hạt đặc biệt (đặc sản). * Ứng dụng trao đổi dữ liệu điện tử trong thương mại cà phê hạt đại trà Phần lớn xuất khẩu cà phê từ các nước sản xuất là ở dạng cà phê hạt. Trong cà phê hạt, cà phê hạt đại trà chiếm tới hơn 98% tổng sản lượng cà phê thế giới. Các nhà rang xay mua cà phê hạt đại trà từ các quốc gia xuất khẩu khác nhau, các giống cà phê khác nhau rồi phối trộn theo các công thức nhất định, chế biến thành các sản phẩm cà phê. Thực tế là cho tới nay chưa có hệ thống tiêu chuẩn chất lượng quốc tế thống nhất đối với cà phê hạt, mới chỉ có các hệ thống tiêu chuẩn quốc gia riêng rẽ. Các nhà rang xay luôn muốn biết chất lượng của cà phê trước khi mua. Vì lý do này, các sàn giao dịch điện tử được thiết lập cho cà phê hạt đại trà đã thất bại. Người ta thấy rằng chỉ các sản phẩm nguyên liệu thô có các đặc trưng chất lượng tiêu chuẩn mới phù hợp để giao dịch qua các sàn giao dịch điện tử. Để giảm rủi ro chất lượng, các nhà rang xay quốc tế mua cà phê hạt đại trà chủ yếu từ các đại lý xuất khẩu và thương nhân quốc tế, lấy mức giá tham chiếu từ các sàn giao dịch quốc tế truyền thống (ví dụ: Sàn giao dịch hàng hóa Nework, Sàn giao dịch hàng hóa London, Sàn giao dịch cà phê Brazil). Ngày nay, các công ty lớn thường có hệ thống phần mềm hỗ trợ tự động liên kết với các cổng thông tin vận tải, các nhà cung cấp hoặc những người mua lớn. Tuy nhiên, phần lớn các giao dịch cà phê vẫn sử dụng tài liệu giấy. Các cuộc đàm phán thực tế được thực hiện qua điện thoại, fax và e-mail, nhưng các thỏa thuận cuối cùng như hợp đồng, lệnh giao hàng, vận đơn, thư tín dụng và các tài liệu quan trọng khác cần có chữ ký gốc và chủ yếu sử dụng văn bản giấy tờ truyền thống. 28
  6. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020 Đối với nhiều nhà xuất khẩu, khoảng thời gian giữa giao hàng thực tế và nhận được thanh toán, thực hiện thông qua việc chuyển tài liệu giấy truyền thống, có thể mất từ 15 đến 25 ngày. Trong một hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử (Data Electronic Exchange - EDI) không cần giấy tờ truyền thống, việc chuyển giao chứng từ, chuyển nhượng quyền sở hữu và thanh toán tài chính có thể giảm xuống còn bốn ngày hoặc thậm chí ít hơn, tùy thuộc vào mức độ phức tạp của quy trình kinh doanh. Cho tới nay, thương mại cà phê vẫn chưa chấp nhận hoàn toàn việc sử dụng hệ thống EDI, chỉ dừng lại với các giải pháp từng phần. Việc triển khai ứng dụng đầy đủ hệ thống EDI trong thương mại cà phê nhân đại trà vẫn là nhiệm vụ tương lai. * Đấu giá qua sàn giao dịch trực tuyến: ứng dụng TMĐT cho giao dịch cà phê hạt đặc biệt Cà phê đặc biệt (hay đặc sản) chiếm chưa tới 2% tổng sản lượng cà phê thế giới, nhưng có giá trị cao gấp nhiều lần cà phê đại trà. Cà phê đặc sản thường là những loại cà phê chất lượng tốt hơn, có nguồn gốc đặc biệt hoặc được liên kết đến một câu chuyện hấp dẫn (sự tích, truyền thuyết, sự kiện lịch sử, danh nhân...). Cà phê đặc sản được canh tác trong những điều kiện lý tưởng về độ cao, chất đất, khí hậu… Mỗi công đoạn đoạn từ khâu giống, canh tác, thu hoạch, chế biến, bảo quản, đóng gói, lưu thông, pha chế… đều cần phải đảm bảo đúng quy trình để có được chất lượng tốt nhất. Trước khi nói về hệ thống TMĐT áp dụng cho cà phê đặc biệt, cần có khái niệm về Cup xuất sắc (Cup of Excellence - CofE). CofE là một cuộc thi thường niên được tổ chức tại một số quốc gia để xác định cà phê chất lượng cao nhất. Cuộc thi được tổ chức bởi tổ chức Alliance for Coffee Excellence, nhằm mục đích đích khen thưởng chất lượng, xem xét các đặc tính cảm quan của cà phê và thúc đẩy các sáng kiến quốc gia về sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng cà phê đặc sản. Cuộc thi CofE được mệnh danh là “Giải Oscar của thế giới cà phê”. Cuộc thi lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1999. Vào năm 2018, cuộc thi được tổ chức tại Brazil, Colombia, Peru, El Salvador, Costa Rica, Nicaragoa, Guantemala, Honduras, Mexico, Burundi và Rwanda. Trong quá trình thi đấu, mỗi ly cà phê được đánh giá ít nhất năm lần bởi các chuyên gia bằng việc nếm cà phê và cho điểm qua các chỉ tiêu cảm quan. Chỉ những cà phê có điểm số cao nhất mới tiếp tục vào vòng trong. Những cà phê chiến thắng được trao CofE và được bán đấu giá qua sàn giao dịch trực tuyến cho người trả giá cao nhất. Nông dân muốn tham gia vào CofE có thể gửi một mẫu cà phê hạt do họ tự chuẩn bị. Mẫu là một lô siêu nhỏ, không yêu cầu phải có nhà máy chế biến (mặc dù họ có thể sử dụng các thiết bị của nhà máy nếu sẵn có). Hệ thống này được nông dân sử dụng để bán trực tiếp cà phê hạt đặc sản cho các nhà rang xay ở các nước phát triển. Trong trường hợp này, xẩy ra quá trình phi trung gian hóa trong CGTCPTC: mất đi vai trò, vị trí của các nhà chế biến truyền thống, các đại lý xuất khẩu và thương nhân quốc tế (xem Hình 2). Khi làm như vậy, đơn vị tổ chức CofE của quốc gia (Thường là Hiệp hội cà phê, có thể là các tổ chức khác) đóng vai trò là đại lý xuất khẩu cho các loại cà phê được giao dịch trong phiên đấu giá. Hình 3 trình bày giá trung bình cao nhất (Highest price), giá trung bình có trọng số (Avarage weighted price) thu được từ cà phê bán đấu giá ở Costa Rica thông qua CofE từ năm 2007 và so sánh chúng với giá thị trường kỳ vọng (Futures Market price) tại Sàn giao dịch cà phê quốc tế (ICE) tương ứng. Nhìn chung, sự khác biệt về giá giữa các giá cao nhất thu được trong các phiên đấu giá này và giá thị trường kỳ vọng nằm trong khoảng từ 660% (2011) đến 3.215% (2015) và thay đổi từ -1% (2011) đến 552% (2013) giữa mức giá đấu trung bình có trọng số và giá thị trường kỳ vọng. 29
  7. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020 CGTCPTC truyền thống CGTCPTC chuyển đổi Người trồng Người trồng cà phê cà phê Các nước đang phát triển Nhà chế biến Nhà xuất khẩu CofE và Sàn giao dịch điện tử Thương nhân quốc tế Nhà Nhà rang xay rang xay Các nước phát triển Nhà Nhà bán lẻ bán lẻ Người tiêu Người tiêu dùng dùng Hình 2: CGTCPTC truyền thống với cà phê đặc biệt và chuyển đổi sau khi ứng dụng TMĐT Nguồn: [5] Giá 1 pound (US $) Giá cao nhất Giá trung bình có trọng số Giá thị trường kỳ vọng Hình 3: Giá cao nhất và giá trung bình cho các loại cà phê được CodE bán đấu giá ở Costa Rica và so sánh với giá thị trường tương lai của ICE Nguồn: [16] Cần nhấn mạnh rằng lượng cà phê hạt đặc biệt được giao dịch thông qua CofE thường rất nhỏ (khoảng 0,1%) so với lượng cà phê xuất khẩu nói chung. Tình trạng này một phần là do yêu cầu phải nếm thử và chấm điểm cà phê trước khi bán đấu giá điện tử, làm hạn chế số lượng người trồng cà phê tham gia vào CofE và đấu giá qua Internet. Trong thực tế chỉ có các mẫu cà phê đặc biệt với chất lượng hảo hạng mới tham gia đấu giá. * Bán sản phẩm cà phê chế biến qua website: ứng dụng TMĐT cho bán lẻ cà phê rang xay Xuất khẩu cà phê rang xay của các nước sản xuất chiếm tỷ lệ không lớn. Tuy nhiên, xuất khẩu loại cà phê này nên được đẩy mạnh do giá bán chúng cao hơn cao hơn nhiều so với giá bán cà phê hạt, vì được chế biến sâu hơn và gia tăng giá trị. Hơn nữa, lợi nhuận cao hơn có thể đạt được nếu cà phê rang xay được xuất khẩu trực tiếp tới người tiêu dùng. 30
  8. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020 Vì lý do này, xuất khẩu cà phê rang xay thông qua TMĐT là một vấn đề quan trọng đối với các nước sản xuất cà phê. Ví dụ, cả nước Costa Rica có 14 trong số 63 nhà rang xay địa phương bán cà phê thông qua TMĐT cho người tiêu dùng trong nước và ngoài nước. Cà phê rang xay có thể được giao dịch qua TMĐT, đồng thời được bán tại các siêu thị địa phương. Khi trực tiếp bán các sản phẩm cà phê rang xay qua TMĐT, các nhà chế biến tập trung vào vấn đề xây dựng hình ảnh và nhận diện thương hiệu như chỉ dẫn địa lý, nhãn sinh thái, sản xuất bền vững và chất lượng cao. Cần lưu ý rằng chất lượng cà phê rang xay được người tiêu dùng đánh giá chủ yếu thông qua các thuộc tính chất lượng biểu tượng, trong khi chất lượng cà phê hạt đại trà và cà phê hạt đặc biệt được đánh giá dựa trên các đặc tính cảm quan (như đã trình bày phần trên), đòi hỏi quy trình đánh giá phức tạp và tốn nhiều chi phí (nhất là thời gian). Các thuộc tính biểu tượng dựa trên các đặc điểm liên quan tới danh tiếng như nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, nhãn sinh thái/bền vững môi trường. Hình 4 mô tả sự điều chỉnh trong CGTCPTC liên quan tới sự thay đổi địa bàn thực hiện chức năng rang xay từ các nước phát triển sang các nước sản xuất cà phê. Như thể hiện trong Hình 4, các nhà rang xay tại các quốc gia sản xuất cà phê có thể cạnh tranh với các nhà rang xay ở các nước phát triển và đồng thời làm giảm đi vai trò của các nhà bán lẻ truyền thống ở nước họ bằng cách sử dụng hệ thống thương mại điện tử B2C. Người trồng Thương nhân cà phê quốc tế Nhà Nhà chế biến Nhà Nhà rang xay xuất khẩu rang xay Nhà bán lẻ Nhà bán lẻ Người Người tiêu dùng tiêu dùng Quốc gia đang phát triển Quốc gia phát triển Hình 4: CGTCPTC truyền thống được bổ sung sau khi nhà rang xay sử dụng TMĐT bán lẻ trực tiếp tới người tiêu dùng ở các nước phát triển Nguồn: [5] Bảng 2 cho thấy ví dụ về sự khác biệt về giá một số sản phẩm cà phê mà các nhà rang xay ở Costa Rica bán qua TMĐT (cho người tiêu dùng nước ngoài) so với giá bán các sản phẩm này tại các siêu thị trong nước. Chênh lệch giá không tới mức như trong trường hợp bán cà phê hạt đặc biệt qua đấu giá sau khi đạt giải CofE, nhưng cũng rất đáng kể. Cần lưu ý rằng xuất khẩu cà phê rang xay khác với xuất khẩu cà phê hạt: các nhà rang xay không phải tuân thủ các quy định pháp lý phức tạp như đối với xuất khẩu cà phê hạt. Bảng 2: Giá một số sản phẩm cà phê trên website TMĐT và tại các siêu thị trong nước Giá Trên website Chênh lệch Nhà rang xay Thương hiệu cà phê Trong siêu thị, thương mại điện Tuyệt Tương đối, USD tử, USD đối, USD % 11.86 6.66 5.20 78.08% Rey Premium (Dark Café Rey Roast (Ground, 400 gr.) (caferey.net) Tarrazú (Ground, 500 14.86 8.32 6.54 78.61% gr.) 31
  9. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020 Britt (Ligth/Dark Roast, 12.95 8.42 4.53 53.80% 340 gr.) Grupo Britt Tarrazú Montecielo 12.95 9.55 3.40 35.60% (cafebritt.com) (Ground, 340 gr.) Organic Coffee (Ground, 13.95 9.97 3.98 39.92% 340 gr.) Triángulo de oro Triangulo de Oro 9.99 5.07 4.92 97.04% (triangulodeoro.com) Premium (Medium Roast Ground, 340 gr.) Nguồn: [5] Như vậy, rang xay (chế biến sâu) cà phê trong nước và bán lẻ trực tiếp các sản phẩm cà phê qua các website TMĐT tới người tiêu dùng nước ngoài là một phương thức có triển vọng để xuất khẩu cà phê một cách có hiệu quả. 4. Thực trạng chuỗi giá trị cà phê Việt Nam và một số khuyến nghị về ứng dụng thương mại điện tử 4.1. Về sản xuất, chế biến cà phê Năm 2018, diện tích cà phê đạt khoảng 688.400 ha, tăng 10.800 ha so với năm 2017. Sản lượng cà phê nhân đạt gần 1,62 triệu tấn, tăng 49.000 tấn. Theo Hiệp hội Cà phê - Cacao Việt Nam (VICOFA), đây là sản lượng cao nhất từ trước đến nay [2]. Bên cạnh cà phê đại trà, nhiều địa phương Việt Nam đã quan tâm phát triển các loại cà phê đặc biệt, cà phê sạch, cà phê sinh thái. Việc xây dựng thương hiệu cà phê đã và đang được đẩy mạnh. Tháng 3 năm 2019, lần đầu tiên cuộc thi cà phê đặc sản Việt Nam được tổ chức tại Đắc Lắc theo mô hình CofE nhằm phát hiện, tôn vinh những lô cà phê và đơn vị sản xuất cà phê nhân đạt tiêu chuẩn là cà phê đặc sản; giới thiệu quảng bá cà phê đặc sản Việt Nam đến với người tiêu dùng, nhà rang xay trong và ngoài nước. Đây còn là dịp để kết nối trực tiếp nhà rang xay với đơn vị sản xuất cà phê đặc sản, phát triển thị trường, gia tăng giá trị hạt cà phê, tạo động lực cho người trồng cà phê quan tâm đến nâng cao chất lượng sản phẩm. Có 31 đơn vị với 42 mẫu cà phê được sản xuất tại các vùng trồng cà phê trên cả nước tham dự; trong đó, có 34 mẫu cà phê Robusta và 8 mẫu cà phê Arabica. Trải qua hai vòng sơ loại và chung kết, Ban tổ chức đã công nhận 25 mẫu cà phê đạt tiêu chuẩn cà phê đặc sản; trong đó 7 mẫu cà phê đạt chất lượng cao nhất được Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk tặng bằng khen và cúp vàng. Kết quả của cuộc thi đã bước đầu góp phần khẳng định ngành cà phê Việt Nam có tiềm năng tham gia phân khúc thị trường cà phê đặc sản. [14] Lĩnh vực sơ chế và chế biến sâu cà phê phát triển mạnh mẽ. Đến nay, cả nước đã có 97 cơ sở chế biến cà phê hạt, 160 cơ sở chế biến cà phê rang xay, 8 cơ sở chế biến cà phê hòa tan và 11 cơ sở chế biến cà phê phối trộn. Cà phê bột của Trung Nguyên, cà phê hòa tan của Vinacafe, Trung Nguyên không những chiếm lĩnh được thị trường trong nước mà còn được đón nhận ở nhiều thị trường trong khu vực, đồng thời đã bước đầu xây dựng được thương hiệu cà phê Việt. Trong bối cảnh giá cà phê thấp, việc chế biến sâu được coi là “lối ngách” cho ngành sản xuất cà phê Việt Nam. Giá cà phê sau khi chế biến sâu trung bình đạt 3.726 - 5.112 USD/tấn, gấn gấp 2 - 3 so với giá cà phê thô xuất khẩu, theo VICOFA. Đồng thời, Việt Nam đang đẩy mạnh việc tái cơ cấu ngành cà phê một cách hiệu quả, xây dựng các vùng trồng tập trung, chuyên canh gắn với phát triển công nghiệp chế biến, áp dụng tiến bộ công nghệ cao, thúc đẩy liên kết vùng nguyên liệu với các cơ sở, nhà máy chế biến sâu để tạo nguồn hàng đảm bảo ổn định về chất lượng và số lượng, đáp ứng yêu cầu của thị trường; có giải pháp tháo gỡ khó 32
  10. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020 khăn, hỗ trợ người nông dân, doanh nghiệp thu hút đầu tư, ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; khuyến khích,tăng cường liên kết và hợp tác trong sản xuất kinh doanh cà phê với mục đích ổn định xuất khẩu, giữ vững và mở rộng thị trường. 4.2. Về thương mại cà phê * Ở thị trường trong nước Thị trường sản phẩm chế biến cà phê Việt Nam được chia thành 2 phân khúc lớn là cà phê rang xay và cà phê hòa tan. Cà phê rang xay chiếm 1/3 thị trường, phần còn lại là của cà phê hòa tan. Trong phân khúc cà phê hòa tan cũng được chia làm hai phân khúc nhỏ là cà phê hòa tan nguyên chất và cà phê hòa tan trộn lẫn. Về giá trị bán lẻ, năm 2018, thị trường cà phê trong nước đạt gần 8500 tỉ VNĐ, tăng trưởng 6% so với năm 2017. Tốc độ tăng trưởng của thị trường này đang chững lại so với trước đây, chỉ tăng trung bình 6.5% trong 3 năm gần nhất so với tốc độ tăng trưởng 18% năm 2013. [15] Trong lĩnh vực thương mại cà phê hạt, đã có những nỗ lực nhất định nhưng chưa thành công, điển hình là trường hợp liên quan tới Trung tâm Giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột. Trung tâm được thành lập khoảng 10 năm trước với mục tiêu nâng cao giá trị hạt cà phê cho nông dân, tránh tình trạng thương lái ép giá, vỡ nợ gây thiệt hại cho nông dân. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, do nhiều nguyên nhân, sàn giao dịch cà phê phải ngừng hoạt động. Mặc dù vậy, mục tiêu xây dựng một sàn giao dịch cà phê đúng nghĩa vẫn đang được theo đuổi. Nếu sở giao dịch hàng hóa mới được cấp phép hoạt động sẽ kết nối với thị trường quốc tế và giao dịch trực tuyến là chủ yếu. * Xuất khẩu Cà phê là ngành hàng quan trọng, chiếm 3% GDP cả nước, kim ngạch xuất khẩu nhiều năm nay đều trên 3 tỷ USD. Trong những năm qua, dù kinh tế thế giới có nhiều thời điểm gặp khó khăn dẫn đến sức mua sụt giảm, xuất khẩu cà phê của Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng rất đáng khích lệ, đạt 8,2%/năm với kim ngạch bình quân 3,13 tỷ USD/năm giai đoạn 2011 - 2018, chiếm 15% tổng xuất khẩu nông sản của cả nước. [13] Tổng sản lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam trong niên vụ 2016/17 ước đạt 26,55 triệu bao, trong đó xuất khẩu hạt cà phê hạt là 24 triệu bao, chiếm hơn 90% và xuất khẩu cà phê hoà tan và cà phê rang là 2,550 triệu bao, chiếm gần 10% so tổng sản lượng cà phê hạt xuất khẩu. [15] Các sản phẩm cà phê của Việt Nam đã xuất khẩu đến hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm 14,2% thị phần xuất khẩu cà phê hạt toàn cầu. Đặc biệt, cà phê rang xay và hòa tan xuất khẩu Việt Nam đã chiếm 9,1% thị phần, tạo ra nhiều cơ hội cũng như triển vọng cho ngành cà phê khi Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào thị trường quốc tế thông qua các Hiệp định thương mại tự do đã ký kết. EU là thị trường tiêu thụ nhiều nhất cà phê của Việt Nam, chiếm 40% trong tổng lượng và 38% về tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước; tiếp theo là Đông Nam Á, chiếm 13% tổng lượng và tổng kim ngạch. 4.3. Một số khuyến nghị về ứng dụng thương mại điện tử trong thương mại cà phê Việt Nam Như đã phân tích ở trên, các hệ thống TMĐT khác nhau được ứng dụng trong thương mại các nhóm sản phẩm cà phê khác nhau: trao đổi dữ liệu điện tử cho các giao dịch thương mại cà phê hạt đại trà; đấu giá trực tuyến (trên website – sàn giao dịch B2B) đối với cà phê hạt đặc biệt; bán lẻ cà phê rang xay và các sản phẩm chế biến sâu qua các website B2C trực tiếp cho người tiêu dùng, đặc biệt là người tiêu dùng nước ngoài. * Đối với doanh nghiệp xuất khẩu cà phê hạt đại trà Việt Nam: Cũng như tình trạng chung của các doanh nghiệp tương tự trên thế giới, việc ứng dụng TMĐT với loại hình trao đổi dữ liệu điện tử 33
  11. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020 còn hết sức hạn chế. Tuy nhiên, trong thời gian tới, các doanh nghiệp này nên quan tâm đẩy mạnh triển khai ứng dụng loại hình TMĐT có nhiều ưu việt này. * Đối với các nhà rang xay, chế biến: Trên cơ sở sản xuất các sản phẩm cà phê có chất lượng cao, đặc sắc cùng với xây dựng, quảng bá thương hiệu, nên trực tiếp triển khai bán lẻ trực tuyến các sản phẩm đó qua website của doanh nghiệp hoặc các sàn giao dịch B2B quốc tế (ví dụ như Amazon). Hiện nay ở Việt Nam, quan sát cho thấy rất nhiều nhà rang xay nhỏ và nhà bán lẻ đã triển khai bán hàng trực tuyến (qua website của mình, qua các sàn giao dịch B2C trong nước, qua Facebook, qua các apps di động...). Tuy nhiên, những người bán hàng nói trên chỉ hoàn toàn tập trung vào đối tượng người tiêu dùng trong nước (thông tin trên các website hoàn toàn bằng tiếng Việt). Đã đến lúc những người bán lẻ cà phê, đặc biệt là các nhà rang xay và sản xuất sản phẩm đặc sắc, có thương hiệu phải nghĩ tới việc bán lẻ trực tuyến cho người tiêu dùng nước ngoài, đặc biệt là người tiêu dùng ở các nước phát triển. * Đối với các hiệp hội cà phê (trung ương hoặc địa phương): Nên tập trung hỗ trợ, hướng dẫn, nhân rộng mô hình người nông dân trồng các loại cà phê đặc sản, đặc biệt, cà phê nhãn sinh thái, xây dựng thương hiệu đối với cà phê của họ..., tổ chức thường xuyên các cuộc thi cà phê đặc sản Việt Nam theo mô hình CofE, đồng thời tổ chức các sàn (trung tâm) giao dịch điện tử nhằm hỗ trợ họ bán các sản phẩm cà phê hạt đặc sản này với giá cao nhất qua các giao dịch đấu giá trực tuyến. 5. Kết luận Cà phê là mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Trong CGTCPTC tồn tại sự bất đối xứng trong phân phối giá trị giữa các tác nhân của chuỗi theo hướng giảm lợi ích của các nhà sản xuất ở các nước xuất khẩu. Nhiều nhà sản xuất cà phê trên thế giới đã ứng dụng TMĐT nhằm khác phục một phần sự bất đối xứng này và gia tăng phần lợi ích cho mình. TMĐT đã được áp dụng trong thương mại cà phê hạt và các sản phẩm cà phê chế biến ở Việt Nam, nhưng mới chỉ trong phạm vi thị trường nội địa, chưa hướng tới thị trường xuất khẩu. Những người nông dân trồng cà phê (thông qua các hiệp hội cà phê ) và các nhà chế biến, rang xay trong thời gian tới nên quan tâm xem xét, lựa chọn và triển khai các giải pháp TMĐT phù hợp, tăng cường xuất khẩu trực tiếp tới người tiêu dùng nước ngoài nhằm gia tăng thu nhập và hiệu quả kinh doanh. TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách, bài báo 1. Bakos, Y.: The Emerging Role of Electronic Marketplaces on the Internet, Communications of the ACM. 41, 35-42 (1998) 2. Báo cáo thị trường cà phê năm 2018, Vietnambiz.vn 3. Fairtrade Foundation: Fairtrade and Coffee. London, England: Fairtrade Foundation (2012). 4. Efraim Turban et al (2018), Electronic Commerce - A Managerial and Social Networks Perspective, Eighth Edition, Springer International Publishing Switzerland Francisco Mata, Ariella Quesada, Gabriela Mata- Marín. Can E-Commerce Provide a Solution to the Coffee Paradox?. 6th IFIP World Information Technology Forum (WITFOR), Sep 2016, San José, Costa Rica. pp.181-194, ff10.1007/978-3-319-44447- 5_17ff. ffhal-01429746f. 5. Francisco J. Mata et al, Can E-Commerce Provide a Solution to the Coffee Paradox? The Case of Costa Rica, Universidad Nacional de Costa Rica 6. Geller, M., Dalal, M (2012).: Analysis: Single-cup Coffee Sales Seen Growing. Reuters. 7. ICO: Exports of all Forms of Coffee to Exporting Countries: Calendar years 2000 to 2013. London, England: International Coffee Organization (2014). 8. Porter, Michael E. (1985). Competitive Advantage. Free Press. ISBN 0-684-84146-0. 34
  12. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020 9. UNCTAD, E-Commerce and Development Report 2001 – Trends and Executive Summary. 10. World Bank: World Development Report 2008: Agriculture for Development. Washington, D.C.: The World Bank (2007). Ấn phẩm điện tử 11. http://www.reuters.com/article/2012/02/03/us-coffeeidUSTRE81203720120203, Retrieved on July 25, 2014 12. Globalvaluechains.org, Concept & Tools - Global Value Chain”.. Retrieved 19 April 2018.) 13. https://ngkt.mofa.gov.vn/ca-phe-viet-nam-va-bai-toan-tang-truong-xuat-khau-trong-boi-canh-hoi-nhap. 14. https://bnews.vn/cong-nhan-25-mau-ca-phe-dat-tieu-chuan-ca-phe-dac-san/115140.html. 15. http://www.vietrade.gov.vn/tin-tuc/thi-truong-ca-phe-viet-nam-nam-2017-qua-cac-con-so-phan-2. 16. https://www.allianceforcoffeeexcellence.org/en/cup-of-excellence/auction-results/ (CofE prices) and https://www.theice.com/FuturesUSReportCenter.shtml. 17. https://harbott.com/what-is-value-chain-analysis-273f94ae7004 18. https://www.iisd.org/sites/default/files/publications/ssi-global-market-report-coffee.pdf 35
nguon tai.lieu . vn