Xem mẫu

Trung hòa những bất đồng về bảo hộ sáng chế dược phẩm…

18

TRUNG HÒA NHỮNG BẤT ĐỒNG
VỀ BẢO HỘ SÁNG CHẾ DƯỢC PHẨM
DO HOA KỲ ĐỀ XUẤT TRONG QUÁ TRÌNH ĐÀM PHÁN TPP
TS. Trần Văn Hải
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Tóm tắt:
Bài viết nêu những bất đồng về bảo hộ sáng chế dược phẩm giữa các quốc gia tham gia
đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific
Strategic Economic Partnership Agreement, viết tắt là TPP). Qua nghiên cứu trường hợp
sáng chế bài thuốc cổ truyền để thấy rõ sự khác biệt trong quy định về bảo hộ sáng chế
trong pháp luật một số quốc gia. Đồng thời bài viết cũng nghiên cứu những đề xuất của
Hoa Kỳ trong quá trình đàm phán TPP về bảo hộ sáng chế dược phẩm. Bài viết đề xuất
giải pháp trung hòa các bất đồng đã nêu bằng việc nghiên cứu Hiệp định TRIPS, so sánh
những đề xuất của Hoa Kỳ với các quy định về quyền con người, với Tuyên bố Doha về
Hiệp định TRIPS và sức khỏe cộng đồng 2001, với Công ước quốc tế 1966 về các quyền
kinh tế, xã hội và văn hóa.
Từ khóa: Sở hữu trí tuệ; Hiệp định TPP; Hiệp định TRIPS; Tuyên bố Doha.
Mã số: 14032701

1. Dẫn nhập
Đàm phán TPP là đàm phán thương mại tự do nhiều bên với mục đích hội
nhập các nền kinh tế thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Cho đến
nay, đã có 12 nước tham gia đàm phán TPP, gồm: Brunei, Chile, New
Zealand, Singapore, Hoa Kỳ, Úc, Peru, Việt Nam, Malaysia, Mexico,
Canada, Nhật Bản.
1.1. Tháng 11/2008, Việt Nam tham gia đàm phán TPP với tư cách là thành
viên liên kết. Tháng 11/2010, Việt Nam tham gia đàm phán TPP với tư
cách là thành viên đầy đủ.
1.2. Mục tiêu ban đầu của TPP là giảm 90% các loại thuế xuất nhập khẩu
giữa các nước thành viên trước ngày 01/01/2006 và cắt giảm bằng không
vào năm 2015. Trong một nghiên cứu được công bố vào tháng 6/2013 cho
thấy tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ giữa Việt
Nam với các quốc gia tham gia đàm phán TPP như sau:

JSTPM Tập 3, Số 1, 2014

19

Bảng 1. Tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu giữa Việt Nam với các
quốc gia TPP năm 2012
Xuất khẩu sang
TT

Quốc gia

Nhập khẩu từ

Triệu USD

Quốc gia

Triệu USD

1

Hoa Kỳ

19.426,90

Hoa Kỳ

2

Nhật Bản

13.726,90

Nhật Bản

11.802,10

3

Malaysia

4.739,96

Malaysia

4.209,76

4

Úc

3.261,76

Úc

2.034,56

5

Singapore

2.044,94

Singapore

6

Canada

1.618,06

Canada

407,29

7

New Zealand

New Zealand

405,27

8

Mexico

9

Chile

186,78

Chile

408,32

10

Peru

113,30

Peru

93,71

11

Brunei

239,45
1.153,99

16,01

5.085,74

11.421,20

Mexico

84,10

Brunei

197,23

Nguồn: Tổng hợp từ nghiên cứu của Brock R. Williams [12]

Để có cơ sở đánh giá vị trí của Việt Nam trong số các quốc gia tham gia
đàm phán TPP, bài viết xin dẫn Bảng 2.
Bảng 2. Tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu giữa Hoa Kỳ với các
quốc gia TPP năm 2012
Xuất khẩu sang
TT

Quốc gia

Nhập khẩu từ

Triệu USD

Quốc gia

Triệu USD

1

Canada

291.758,00

Canada

328.719,00

2

Mexico

216.331,00

Mexico

280.025,00

3

Nhật Bản

70.046,50

Nhật Bản

150.401,00

4

Úc

31.208,30

Úc

5

Singapore

30.560,70

Singapore

20.455,10

6

Chile

18.885,80

Chile

10.096,50

7

Malaysia

12.854,30

Malaysia

26.652,00

8

Peru

9.357,40

Peru

9

Việt Nam

5.085,74

Việt Nam

10

New Zealand

3.223,30

New Zealand

11

Brunei

157,20

9.851,60

6.679,90
19.426,90
3.623,50

Brunei

Nguồn: Tổng hợp từ nghiên cứu của Brock R. Williams [12]

89,00

20

Trung hòa những bất đồng về bảo hộ sáng chế dược phẩm…

Bảng 1 cho thấy, trong các quốc gia tham gia đàm phán TPP thì Hoa Kỳ là
bạn hàng lớn nhất của Việt Nam, đồng thời cũng có kim ngạch nhập siêu
lớn nhất từ Việt Nam trong các quốc gia tham gia đàm phán TPP. Trong khi
đó, Singapore cũng là bạn hàng lớn của Việt Nam, nhưng ở thái cực ngược
lại, vì Việt Nam đã nhập siêu từ Singapore quá lớn (tỷ lệ 5,6/1).
Bảng 2 lại cho thấy, lợi ích mà Hoa Kỳ thu được qua việc xuất khẩu thì
Việt Nam đứng ở vị trí thứ 9, qua đó xét thuần túy về mặt kinh tế trong
quan hệ thương mại thì Việt Nam có lẽ không phải là ưu tiên hàng đầu của
Hoa Kỳ. Cùng với thông tin tại mục 1.4 dưới đây, cho thấy sự bất lợi của
Việt Nam trong việc đàm phán với Hoa Kỳ trong TPP.
Qua mục tiêu về thuế xuất, nhập khẩu của TPP “cắt giảm bằng không vào
năm 2015”, ta nhận thấy trong quan hệ thương mại quốc tế, lợi ích kinh tế
thuộc về quốc gia xuất siêu. Như vậy, việc trung hòa những bất đồng đối
với Hoa Kỳ về sở hữu trí tuệ (SHTT) trong quá trình đàm phán TPP là rất
quan trọng xét trên lợi ích kinh tế.
1.3. TPP là một thỏa thuận toàn diện bao quát tất cả các khía cạnh của một
hiệp định thương mại tự do, bao gồm thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu
tư, mua sắm công, doanh nghiệp nhà nước, thương mại và lao động, thương
mại và môi trường, thương mại điện tử, SHTT,…
Hiệp định TPP quy định về SHTT tại Chương 10, trong đó Điều 10.1 đã
định nghĩa thuật ngữ SHTT được hiểu theo quy định của Hiệp định về các
khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền SHTT (Agreement on
Trade-Related Aspects of Intellectual Property Rights, viết tắt là TRIPS),
TRIPS là một trong những Hiệp định quan trọng của WTO. Như vậy,
SHTT theo cách hiểu của TPP đồng nhất với quan điểm của WTO, bao gồm
quyền tác giả và quyền liên quan, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế
bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý…
Về nguyên tắc bảo hộ quyền SHTT, Điều 10.2.1 của TPP nêu rõ các bên thừa
nhận tầm quan trọng của SHTT trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội, đặc biệt là trong nền kinh tế kỹ thuật số mới, đổi mới công nghệ và
thương mại. Điều 10.2.2. còn nhấn mạnh các bên thấy rằng cần thiết để đạt
được một sự cân bằng giữa các quyền của chủ sở hữu quyền SHTT và lợi ích
hợp pháp của người sử dụng và cộng đồng đối với đối tượng được bảo hộ1.
Điều 10.2.2. là một quy định quan trọng có tính nguyên tắc đã được nêu
trong TPP, tuy nhiên, do trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc
gia tham gia đàm phán TPP khác nhau, do đó dẫn đến những điểm không
1

Article 10.2.2. of Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement. Intellectual Property Principles: The
Parties recognise the need to achieve a balance between the rights of right holders and the legitimate interests of
users and the community with regard to protected subject matter.

JSTPM Tập 3, Số 1, 2014

21

thống nhất trong quá trình đàm phán. Ví dụ Điều 10.3.4. của TPP có nhắc
đến hai văn kiện quốc tế về quyền tác giả, đó là Hiệp ước WIPO về quyền
tác giả (World Intellectual Property Organization Copyright Treaty, viết tắt
là WCT) và Hiệp ước WIPO về bảo hộ cuộc biểu diễn và bản ghi âm
(World Intellectual Property Organization Performances and Phonograms
Treaty, viết tắt là WPPT), nhưng cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa tham gia
hai văn kiện quốc tế này.
1.4. Thông tin cần lưu ý: ngày 07/02/2014, Văn phòng đại diện Thương mại
Hoa Kỳ (Office of the United States Trade Representative- viết tắt USTR)
công bố Việt Nam nằm trong danh sách các quốc gia xâm phạm quyền
SHTT thuộc top đứng đầu thế giới2. Đây là điểm bất lợi cho Việt Nam
trong khi đàm phán TPP về các yếu tố có liên quan đến SHTT.
1.5. Giới hạn nghiên cứu
Những vấn đề về SHTT mà TPP đang quan tâm đàm phán bao gồm: kéo
dài thời hạn bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan, bảo hộ sáng chế dược
phẩm, bảo hộ dữ liệu thử nghiệm đối với dược phẩm và nông hóa phẩm,
thực thi quyền SHTT (đặc biệt trong môi trường kỹ thuật số), chế tài hình
sự và chế tài hành chính trong thực thi quyền SHTT.
Nhưng do khuôn khổ có hạn, bài viết chỉ đề cập đến bảo hộ sáng chế dược
phẩm và bảo hộ dữ liệu thử nghiệm đối với dược phẩm.
Thuật ngữ patent chỉ dùng với hàm nghĩa duy nhất là bằng độc quyền sáng chế.
Xuất phát từ những lý do trên, phần sau của bài viết này sẽ tập trung phân
tích: (1) Khác biệt nên lưu ý trong quy định về sáng chế của Hoa Kỳ và
Việt Nam; (2) Những đề xuất của Hoa Kỳ về sáng chế dược phẩm; (3) Đề
xuất giải pháp trung hòa các bất đồng đã nêu.
2. Khác biệt nên lưu ý trong quy định về sáng chế của Hoa Kỳ và Việt Nam
Trong mục này, bài viết lấy trường hợp sáng chế bài thuốc cổ truyền3 để
minh họa, đây là thế mạnh của Việt Nam nhưng lại là điểm không mạnh
của Hoa Kỳ trong lĩnh vực dược phẩm.
Điều 102 Luật Sáng chế Hoa Kỳ quy định về điều kiện để được cấp patent;
tính mới và mất quyền được cấp patent đã nêu: mỗi người đều có quyền
được cấp patent, trừ khi (a) sáng chế đã được biết đến hoặc được sử dụng
bởi những người khác ở nước này, hoặc patent đã được cấp hoặc được mô
2

Theo Special 301 Report 07.02.2014 của USTR, danh sách cần ưu tiên theo dõi (Priority Watch List) về việc
xâm phạm quyền SHTT có 9 quốc gia, gồm Argentina, Chile, Trung Quốc, Costa Rica, Ấn Độ, Indonesia, Nga,
Thái Lan, Việt Nam. Thực chất đây là danh sách các quốc gia có tỷ lệ xâm phạm quyền SHTT cao nhất thế giới
và điểm đáng lưu ý đây là lần đầu tiên Việt Nam nằm trong danh sách này.

3

Về thuật ngữ bài thuốc cổ truyền, xin tham khảo thêm tài liệu [13, tr. 7-15].

22

Trung hòa những bất đồng về bảo hộ sáng chế dược phẩm…

tả trong một ấn phẩm in ấn ở nước này hay nước ngoài, trước khi có người
nộp đơn yêu cầu cấp patent, hoặc (b) sáng chế đã được cấp patent hoặc mô
tả trong một ấn phẩm in ấn ở nước này hay nước ngoài hoặc trong sử dụng
công khai hoặc bán tại nước này… cụm từ “in this country” trong nguyên
bản được hiểu là tại Hoa Kỳ4.
Như vậy, điểm cần lưu ý của quy định này cho thấy sáng chế không bị coi
là mất tính mới khi nó chỉ được sử dụng, được biết đến (mà không được mô
tả trong một ấn phẩm) ở nước ngoài. Vấn đề này đã được Correa Carlos M.
lưu ý trong một nghiên cứu của mình: nếu một bài thuốc cổ truyền đã được
sử dụng công khai nhưng không được mô tả trong một tài liệu ở nước ngoài
thì không bị coi là mất tính mới và vẫn có khả năng được cơ quan sáng chế
Hoa Kỳ cấp patent [8, tr.56].
Quy định trên đây rất có lợi cho Hoa Kỳ, vì đa số trường hợp các bài thuốc
cổ truyền được sử dụng rộng rãi tại cộng đồng các nước đang phát triển,
nhưng chưa được xuất bản trong một ấn phẩm thì chúng vẫn có thể được Hoa
Kỳ cấp patent (xin nhấn mạnh lại nguyên tắc “định hình” được xem là
nguyên tắc quan trọng nhất trong bảo hộ quyền tác giả). Có thể lấy ví dụ để
chứng minh cho nhận định này qua US patent số 4178372 thuốc bôi chống dị
ứng ổn định từ cây lô hội; US patent số 4725438 thuốc mỡ được chiết xuất từ
cây lô hội; US patent số 4696819 vật liệu chiết xuất từ lá cây coca [13].
Quy định của Hoa Kỳ là như vậy, nhưng trong quá trình thực thi pháp luật
về sáng chế, Cơ quan Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ (United States Patent
and Trademark Office - USPTO) cũng mắc những sai lầm. Ví dụ ngày
31/7/2002, USPTO đã cấp patent US 2003/0152651 A1 Herbal composition
for angina pectoris, method to prepare same (tạm dịch: Thành phần thảo
dược chữa các cơn đau thắt ngực, phương pháp chế biến nó) cho các đồng
tác giả bao gồm Xijun Yan, Naifeng Wu, Zhixin Guo, Zhengliang Ye, Yan
Liu. Trong khi lẽ ra sáng chế này đã bị mất tính mới (dẫn đến đương nhiên
không được bảo hộ) vì:
- Sáng chế đã được đề cập tại bài thuốc “Gia vị ích tâm thang” đăng trong
sách Thiên gia diệu phương do Viện Thông tin thư viện Y học Trung
ương (Việt Nam) phát hành năm 1989;
- Sáng chế cũng đã được đề cập tại bài thuốc “Phúc phương đan sâm
phiến” đăng trong sách Những bài thuốc Y học cổ truyền Trung Hoa do
Nhà xuất bản Y học Hà Nội phát hành năm 1995.
4

United States Patent Act, Chapter 35 of the U.S. Code § 102 - Conditions for patentability; novelty and loss of
right to patent: A person shall be entitled to a patent unless: (a) the invention was known or used by others in this
country, or patented or described in a printed publication in this or a foreign country, before the invention
thereof by the applicant for patent, or (b) the invention was patented or described in a printed publication in this
or a foreign country or in public use or on sale in this country.

nguon tai.lieu . vn