Xem mẫu
- TÌM HIỂU LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
TIÊU CHUẨN CÔNG CHỨC VÀ VẤN ĐỀ NĂNG LỰC
TRONG
QUÁ TRÌNH TIẾP TỤC CẢI CÁCH CÔNG VỤ, CÔNG CHỨC
TS. TRẦN ANH TUẤN
Viện trưởng Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ
K ết quả hoạt động công vụ phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng đội ngũ
công chức. Chất lượng đội ngũ công chức được hình thành dựa trên cơ
sở tiêu chuẩn công chức và chịu ảnh hưởng của các nội dung quy định
trong tiêu chuẩn công chức. Trong hoạt động thực tiễn, các cơ quan quản lý công
chức đều căn cứ vào tiêu chuẩn công chức để thực hiện việc tuyển dụng, sử
dụng, bổ nhiệm, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và quản lý công chức. ở
một mức độ nhất định có thể coi tiêu chuẩn công chức là nền móng để tạo nên và
nâng cao chất lượng đội ngũ công chức. Trong quá trình thực hiện việc tiếp tục
cải cách công vụ, công chức, vấn đề đầu tiên, rất quan trọng và không thể xem
nhẹ là tiêu chuẩn công chức. Một mặt, đây là một trong các tiêu chí đo lường chất
lượng đội ngũ công chức; mặt khác, đó còn là nhân tố tạo nên hiệu quả của tiến
trình cải cách công vụ, công chức. Tiêu chuẩn công chức cơ bản tương đối ổn
định, nhưng có thể thay đổi và cần thiết phải thay đổi khi yêu cầu phát triển kinh
tế xã hội, yêu cầu cải cách hành chính làm thay đổi nội dung và chất lượng hoạt
động công vụ.
Luật cán bộ, công chức mới được ban hành có những quy định mới về
phương thức quản lý công vụ, công chức. Một số nguyên tắc quản lý cán bộ, công
chức mang tính cải cách đã được thể hiện tại Điều 5 của Luật - đó là: “kết hợp
giữa tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế”; “việc sử dụng,
đánh giá, phân loại cán bộ, công chức phải dựa trên phẩm chất chính trị, đạo đức
và năng lực thi hành công vụ”. Bên cạnh đó, Luật quy định việc “Nhà nước có
chính sách để phát hiện, thu hút, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng đối
với người có tài năng” (Điều 6). Các quy định này của Luật cán bộ, công chức đã
khẳng định và nhấn mạnh: việc quản lý công chức phải căn cứ vào tiêu chuẩn,
đặc biệt chú trọng đến năng lực, tài năng. Nội dung này phải thực hiện song song
- với xác định vị trí việc làm và gắn với chỉ tiêu biên chế. Đây là cơ sở pháp lý quan
trọng để Nhà nước tiếp tục hoàn thiện và thực hiện hệ thống tiêu chuẩn công
chức. Hơn nữa, yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ công chức trong bối cảnh
hiện nay đặt ra sự cần thiết phải khẩn trương hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn
công chức.
1. Về tiêu chuẩn công chức
Tiêu chuẩn công chức bao gồm tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn cụ thể. Tiêu
chuẩn chung là điều kiện cần, mang tính chất “cứng” mà bất cứ công dân nào
muốn tham gia công vụ đều phải hội đủ. Tiêu chuẩn cụ thể là điều kiện đủ, gắn
với từng vị trí việc làm cụ thể. Nó thể hiện tính chất, đặc điểm riêng của ngành,
lĩnh vực và mang tính chuyên môn, nghiệp vụ cụ thể. Người được tuyển dụng vào
mỗi vị trí công tác cụ thể hoặc bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo, quản lý, bên cạnh
tiêu chuẩn chung đối với công chức, còn phải đạt các tiêu chuẩn cụ thể liên quan
đến ngạch công chức hoặc chức vụ tương ứng. Ngay từ những ngày đầu lập
nước, trong Sắc lệnh 76/SL năm 1950 về Quy chế công chức Việt Nam do Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký ban hành đã quy định các tiêu chuẩn về công chức. Sau đó, từ
Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 cho đến Luật cán bộ, công chức năm 2008
đã quy định những tiêu chuẩn mà công chức phải đạt được. Đến nay, theo quy
định của Luật cán bộ, công chức, tiêu chuẩn chung đối với công chức bao gồm:
- Phải là công dân Việt Nam, mang một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam.
Luật quốc tịch năm 2008 đã có sửa đổi và cho phép công dân Việt Nam được
mang nhiều quốc tịch. Nhưng hoạt động công vụ là một hoạt động nhân danh
quyền lực nhà nước, thực thi và thừa hành pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhân dân,
của xã hội và quốc gia. Công chức phải có nghĩa vụ trung thành với thể chế chính
trị, với Nhà nước. Vì vậy, nhất thiết công chức Việt Nam tham gia vào công vụ
phải là công dân Việt Nam và chỉ mang một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam. Luật
không cho phép vừa mang quốc tịch Việt Nam vừa mang thêm quốc tịch của nước
khác. Thông lệ và tình hình chung ở các nước khác cũng vậy, người đăng ký tuyển
dụng vào công chức chỉ được phép mang một quốc tịch của nước đó.
- Đạt độ tuổi quy định từ đủ 18 tuổi trở lên. Đây cũng là điểm mới trong
tuyển dụng công chức. Trước đây, pháp luật quy định tuổi đăng ký dự tuyển công
chức là từ đủ 18 tuổi đến 40 tuổi, một số trường hợp tuổi dự tuyển có thể cao
hơn nhưng không quá 45 tuổi. Quy định như vậy là nhằm bảo vệ quyền lợi cho
những người tham gia vào công chức khi đến tuổi được nghỉ chế độ trong điều
kiện chế độ bảo hiểm xã hội trước đây còn những hạn chế. Nhưng quy định như
vậy đã hạn chế cơ hội của công dân, không tạo điều kiện thu hút được người có
- tài năng từ khu vực tư tham gia vào công vụ. Đến nay, Luật bảo hiểm xã hội năm
2008 đã có sửa đổi, bổ sung, theo đó bên cạnh hình thức bảo hiểm bắt buộc, đã có
thêm hình thức bảo hiểm tự nguyện. Do đó, Luật cán bộ, công chức chỉ quy định
tuổi tuyển dụng ở mức sàn-là từ đủ 18 tuổi trở lên - mà không khống chế độ tuổi
tuyển dụng ở mức trần, miễn là còn trong độ tuổi lao động. Điều này có nghĩa là
nếu còn trong độ tuổi lao động - dưới 55 tuổi với nữ và dưới 60 tuổi với nam -
mọi công dân có đủ điều kiện quy định đều có cơ hội tham gia vào công vụ.
- Đủ sức khỏe công tác. Tiêu chuẩn này nhiều khi chưa được chú trọng
đúng mức và thống nhất trong cách hiểu. Đây là tiêu chuẩn nhưng đồng thời cũng
là điều kiện để tham gia công vụ. Sức khỏe không chỉ đơn thuần liên quan đến
ốm đau, bệnh tật mà trong đó còn bao hàm cả khía cạnh tâm lý, tinh thần. Không
ai có thể hoàn thành tốt công vụ khi luôn ở trạng thái không cân bằng về tâm lý và
mất ổn định về tinh thần. ở nhiều nước, người dự tuyển công chức khi nộp hồ sơ
dự tuyển không phải nộp giấy khám sức khỏe của cơ quan y tế. Người ta chỉ
kiểm tra sức khỏe đối với người đã trúng tuyển (đạt kết quả qua các vòng thi
trước). Việc kiểm tra sức khỏe được coi như vòng cuối - thuộc nội dung của kỳ
tuyển dụng. Nếu không bảo đảm sức khỏe sẽ không được tuyển dụng, mặc dù có
thể đã trúng tuyển qua các vòng trước. Quy định như thế còn góp phần giảm thiểu
thủ tục hành chính, giấy tờ và tiết kiệm thời gian của nhiều người- đây cũng là
vấn đề mà Việt Nam có thể tham khảo. Trong quá trình tham gia công vụ, nếu
không đủ sức khỏe thì công chức có thể xin thôi việc hoặc chuyển sang làm việc
ở các khu vực khác phù hợp.
- Phải có đơn tự nguyện đăng ký dự tuyển vào công chức. Chế độ công vụ
hiện nay của nhiều nước vẫn theo phương thức thuận nhận. Người sử dụng lao
động - Nhà nước - được quyền lựa chọn người vào công chức. Còn người dự
tuyển mặc dù có nguyện vọng tuyển dụng nhưng có thể được hoặc không được
toại nguyện. Nghĩa vụ và quyền của công chức đã được pháp luật quy định. Công
dân có nguyện vọng gia nhập vào công vụ thì khi viết đơn đăng ký dự tuyển (theo
mẫu quy định) chính là một sự cam kết sẽ thực hiện đủ và đúng các nghĩa vụ và
quyền đó. Vì vậy, không nên hiểu làm đơn đăng ký chỉ là thủ tục mà cần phải
được coi là tiêu chuẩn để đăng ký tuyển dụng.
Bên cạnh các tiêu chuẩn chung nói trên, căn cứ vào từng ngành, từng lĩnh
vực của hoạt động công vụ, người dự tuyển vào công chức phải đạt được tiêu
chuẩn cụ thể tương ứng với mỗi vị trí công tác. Để bảo đảm hiệu quả của hoạt
động công vụ, mỗi công chức phải đạt được các yêu cầu cụ thể phù hợp với mỗi
vị trí nhất định. Mỗi vị trí thường được xác định tương ứng với một ngạch chức
- danh hoặc một chức vụ cụ thể nhất định. Mỗi ngạch và mỗi chức vụ đều có quy
định tiêu chuẩn về phẩm chất, trình độ, năng lực gắn với chức trách, nhiệm vụ cụ
thể. Nếu người được bố trí vào công vụ không đáp ứng được tiêu chuẩn của
ngạch hoặc chức vụ quản lý thì không thể hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của vị
trí đảm nhiệm.
Luật cán bộ, công chức cũng quy định một số trường hợp không được đăng
ký dự tuyển vào công chức, đó là:
- Không cư trú tại Việt Nam. Quy định này nhằm bảo đảm cho công chức
có thể thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ và chức trách của mình. Thực tế cho thấy
không ai có thể làm việc trong một quốc gia mà lại không thường trú tại quốc gia
đó, hơn nữa đó lại là công chức. Các nước trên thế giới đều quy định như vậy đối
với công chức.
- Mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; đang bị truy cứu trách
nhiệm hình sự; đang chấp hành hoặc đã chấp hành xong bản án, quyết định về
hình sự của tòa án mà chưa được xóa án tích...
Như vậy, theo các quy định của Luật cán bộ, công chức năm 2008, tiêu
chuẩn công chức đã có nhiều điểm cơ bản được sửa đổi để đáp ứng yêu cầu cải
cách chế độ công vụ, công chức, phù hợp với các văn bản pháp luật khác và yêu
cầu phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, trong các tiêu chuẩn công
chức nói ở trên thì các tiêu chuẩn cụ thể mới được quy định mang tính chất khung
mà chưa được quy định chi tiết tại Luật. Lý do là vì, trong thực tế các tiêu chuẩn
cụ thể (gồm các ngạch công chức và các chức vụ quản lý) có rất nhiều, không thể
quy định chi tiết trong Luật được. Vì vậy, Quốc hội đã giao cho Chính phủ trách
nhiệm quy định chi tiết các tiêu chuẩn cụ thể này. Để triển khai thực hiện có hiệu
quả Luật cán bộ, công chức và góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ công chức,
cần thiết phải xây dựng, hoàn thiện và bổ sung các tiêu chuẩn cụ thể của công
chức.
2. Những vấn đề đặt ra đối với tiêu chuẩn cụ thể của công chức
Về tiêu chuẩn ngạch công chức, từ năm 1993 Nhà nước đã ban hành hệ
thống tiêu chuẩn chức danh các ngạch công chức, viên chức. Quá trình thực hiện
đến nay đã được trên 16 năm. Theo các Quyết định số 78/2004/QĐ-BNV ngày
03/11/2004; Quyết định số 136/2005/QĐ-BNV ngày 19/12/2005 và Quyết định số
73/2005/QĐ-BNV ngày 25/7/2005 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, hiện nay tiêu chuẩn
chức danh ngạch công chức trong nền hành chính của Việt Nam có 70 ngạch công
chức bao gồm từ các ngạch cao cấp trở xuống cho đến các ngạch nhân viên.
Trong đó, ngạch cao cấp có 11 chức danh ngạch, ngạch chính có 13 chức danh
- ngạch, ngạch chuyên viên và tương đương có 16 chức danh ngạch, ngạch cán sự
và tương đương có 12 chức danh ngạch, ngạch nhân viên có 18 chức danh ngạch.
Đối với các chức vụ quản lý, chỉ tính từ cấp phòng thuộc quận, huyện trở lên đến
các bộ, ngành có khá nhiều chức vụ khác nhau. Tuy nhiên, việc quy định tiêu
chuẩn cho các chức vụ này chưa được đầy đủ. Năm 2004, Bộ trưởng Bộ Nội vụ
ban hành các Quyết định số 82/2004/QĐ-BNV và Quyết định số 83/2004/QĐ-BNV
về tiêu chuẩn chức vụ Vụ trưởng thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ; Giám đốc sở và các chức vụ tương đương thuộc ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương. Một số bộ quản lý ngành đã xây dựng và ban
hành một số tiêu chuẩn chức vụ Cục trưởng, Trưởng ban và chức vụ tương
đương thuộc Tổng cục.
Nhìn tổng thể, bên cạnh hệ thống các ngạch chức danh đã được ban hành
tương đối đầy đủ, hệ thống các chức vụ quản lý trong các cơ quan hành chính
vẫn còn nhiều chức vụ khác chưa có tiêu chuẩn cụ thể. Điều đó dẫn đến, khi
thực hiện việc bổ nhiệm, đề bạt công chức vào các chức vụ quản lý, các cơ quan
có thẩm quyền thường chỉ căn cứ vào các quy định về tiêu chuẩn cán bộ nói chung
do cơ quan có thẩm quyền của Đảng quy định hoặc căn cứ thêm vào các tiêu
chuẩn Vụ trưởng hoặc Giám đốc sở để thực hiện xem xét bổ nhiệm đối với Phó
Vụ trưởng hoặc Phó giám đốc sở. Thực trạng này cho thấy tiêu chuẩn cụ thể của
công chức hiện nay vẫn còn thiếu, chưa đủ để phục vụ cho công tác quản lý.
Xét về nội dung, tiêu chuẩn các ngạch và các chức vụ quản lý đều được
hình thành bởi các tiêu chuẩn từ thấp đến cao, do mức độ phức tạp và yêu cầu
công việc của từng chức vụ, chức danh quy định. Kết cấu của tiêu chuẩn ngạch
công chức hiện nay gồm 3 phần chủ yếu là chức trách, hiểu biết và yêu cầu trình
độ nhằm xác định nội dung chức trách, khối lượng kiến thức, tri thức, kỹ năng và
mức độ đào tạo cần phải có. Tuy nhiên, qua thực hiện từ năm 1993 đến nay, hệ
thống tiêu chuẩn ngạch công chức đã bộc lộ hạn chế cần bổ sung và sửa đổi,
nhất là nội dung quy định liên quan đến năng lực công chức. Có thể nhận thấy,
tiêu chuẩn về trình độ được nhấn mạnh nhưng tiêu chuẩn về năng lực vẫn còn
mờ nhạt, chưa rõ ràng hoặc chưa được thể hiện. Kết cấu của tiêu chuẩn chức vụ
công chức hiện được quy định gồm: vị trí, chức trách, nhiệm vụ, phẩm chất, năng
lực, hiểu biết và trình độ. Trong đó, tiêu chuẩn các chức vụ quy định chưa thể
hiện cụ thể được các nội dung liên quan đến phẩm chất, trình độ và năng lực. Bên
cạnh quy định các tiêu chuẩn mang tính chung chung, tiêu chuẩn các chức vụ quản
lý nhìn chung là chưa đầy đủ.
- Việc quy định các tiêu chuẩn cụ thể của công chức như hiện nay tạo ra
nhiều bất cập và ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ công chức. Thực tiễn cho
thấy, với những quy định như hiện nay dẫn đến một thực tế là, các cơ quan quản
lý khi thực hiện việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức có xu hướng chú
trọng nhiều hơn vào tiêu chuẩn phẩm chất và tiêu chuẩn trình độ mà chưa chú ý
thỏa đáng đến tiêu chuẩn năng lực. Trong một số trường hợp, có đề cập đến năng
lực nhưng là năng lực chung chung mà chưa có tiêu chí cụ thể, rõ ràng. Điều đó
dẫn đến tính hình thức trong hoàn thiện tiêu chuẩn công chức. Đó là, công chức
chỉ tham gia các khóa đào tạo để có đủ văn bằng, chứng chỉ theo quy định hoặc
tham gia bổ sung thêm các văn bằng, chứng chỉ cho “đẹp” hồ sơ nhưng năng lực
giải quyết công việc hoặc hiệu quả công tác vẫn không được nâng lên. Cấp có
thẩm quyền quản lý ở một số cơ quan khi đánh giá công chức để sử dụng còn coi
trọng yếu tố bằng cấp, mà chưa chú ý đến yếu tố năng lực. Các cơ quan quản lý
khi tổ chức tuyển dụng công chức vẫn phân biệt loại hình đào tạo chính quy và
tại chức, chỉ lựa chọn kết quả học tập từ khá trở lên... mà chưa chú ý thích đáng
đến đánh giá năng lực hoạt động thực tiễn, năng lực áp dụng những điều đã được
học vào công vụ. Việc ra đề thi tuyển công chức hoặc thi nâng ngạch công chức
chỉ tập trung theo hướng “học thuộc lòng” mà chưa chú trọng đến năng lực và kỹ
năng thực thi công vụ, năng lực sáng tạo trong hoạt động thực tiễn; không yêu cầu
người dự tuyển phải làm được những việc gì, thành thạo kỹ năng gì, kinh nghiệm
công tác... Chương trình đào tạo, bồi dưỡng mới tập trung chủ yếu vào cung cấp
các kiến thức truyền thống liên quan đến quản lý nhà nước, các nhận thức về
chính trị tư tưởng mà chưa có nhiều hàm lượng về các kỹ năng thực thi công vụ,
kỹ năng soạn thảo văn bản, kỹ năng giao tiếp hành chính, chưa có các nội dung
cung cấp cho công chức các căn cứ để xác định thái độ, nhận thức khi thực thi
công vụ. Chương trình học từ ngạch cao cấp trở xuống đến ngạch chuyên viên
hiện nay về cơ bản là không khác nhau nhiều. Đã có thời gian, một số cơ quan
phải thi hành kỷ luật nhiều trường hợp sử dụng, quản lý và cấp phát văn bằng
chứng chỉ không hợp pháp. Số công chức có thể làm việc hiệu quả trong mỗi cơ
quan, tổ chức chiếm tỷ lệ không tương xứng với trình độ được đào tạo (hầu hết
đều tốt nghiệp đại học trở lên). Điều này đã phản ánh và có ảnh hưởng nhiều
đến chất lượng đội ngũ công chức và có nguyên nhân từ việc xây dựng và kết cấu
tiêu chuẩn cụ thể đối với công chức.
Ý kiến của các nhà quản lý đều cho rằng năng lực của đội ngũ công chức
hiện nay là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng có tính quyết định đến kết quả hoạt
động công vụ. Thể hiện rõ nhất ở năng lực tham mưu, hoạch định chính sách;
- năng lực soạn thảo văn bản; năng lực phối hợp làm việc với đồng nghiệp; năng
lực làm việc theo nhóm; năng lực giao tiếp và ứng xử trong hoạt động công vụ...
Bên cạnh đó, hiện nay với việc hình thành nền kinh tế tri thức, sự xuất hiện chính
phủ điện tử và thực hiện ứng dụng các thành quả của khoa học - công nghệ vào
quản lý thì việc quan tâm đến năng lực thực thi để nâng cao chất lượng của đội
ngũ công chức là một việc làm rất cần thiết.
3. Một số ý kiến về hoàn thiện tiêu chuẩn công chức gắn với yếu tố
năng lực
Thực hiện triển khai có hiệu quả Luật cán bộ, công chức, cần thiết phải
hoàn thiện tiêu chuẩn công chức trên cơ sở nhấn mạnh tiêu chuẩn năng lực của
công chức. Trước tiên, cần phải từng bước xây dựng hệ thống các vị trí việc làm
trong từng cơ quan, đơn vị. Mỗi vị trí việc làm khi xác định phải quy định chức
trách, các nhiệm vụ cụ thể và ngạch công chức tương ứng để bổ nhiệm công
chức khi bố trí vào vị trí việc làm đó. Như vậy, khi tiến hành hoàn thiện hệ thống
tiêu chuẩn chức danh các ngạch công chức cần đồng thời tiến hành xây dựng các
vị trí việc làm. Tất nhiên việc xây dựng các vị trí việc làm là khó và phức tạp.
Trước mắt có thể phải ưu tiên tiến hành hoàn thiện lại hệ thống các tiêu chuẩn
chức danh ngạch và tiêu chuẩn chức vụ công chức. Kết cấu của tiêu chuẩn ngạch
công chức sẽ gồm: tiêu chuẩn về phẩm chất, tiêu chuẩn về trình độ và tiêu chuẩn
về năng lực.
Tiêu chuẩn các ngạch công chức phải có và nhất thiết phải có nội dung liên
quan đến các nhóm năng lực để thực thi nhiệm vụ khi công chức được bố trí vào
vị trí việc làm ứng với ngạch đó. Có thể liệt kê một số năng lực như năng lực
soạn thảo văn bản; năng lực xây dựng chính sách; năng lực phối hợp trong công
vụ; năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ theo nhóm; năng lực làm việc độc lập;
năng lực giao tiếp, ứng xử trong hành chính. Đối với tiêu chuẩn các chức vụ quản
lý, phải bổ sung thêm và quy định rõ, cụ thể các nội dung liên quan đến tiêu chuẩn
năng lực của từng vị trí quản lý. Có thể liệt kê một số năng lực như: năng lực lãnh
đạo, điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ; năng lực tham mưu chiến lược và
điều hành công việc hàng ngày; năng lực bao quát với năng lực biết tập trung cho
các công việc chính yếu, quan trọng; năng lực định hướng chỉ đạo với năng lực
biết lắng nghe trao đổi và đối thoại; năng lực quản lý hành chính, tài chính và nhân
sự trong cơ quan được giao lãnh đạo, quản lý; năng lực tập hợp, đoàn kết công
chức trong cơ quan được giao lãnh đạo, quản lý; năng lực sử dụng các công cụ
quản lý phục vụ cho công tác lãnh đạo, quản lý.
- Hoàn thiện tiêu chuẩn công chức, chú trọng đến tiêu chuẩn năng lực là rất
cần thiết để thực hiện tốt các nội dung đổi mới chế độ công vụ, công chức ở
nước ta. Tuy nhiên, để thực hiện tốt việc chuẩn hóa đội ngũ công chức, không thể
không tính đến yếu tố lịch sử hình thành đội ngũ công chức để có các chính sách
và bước đi phù hợp. Bên cạnh đó, việc triển khai đồng bộ các giải pháp khác như
xây dựng các vị trí việc làm, đổi mới phương thức quản lý biên chế, đổi mới nội
dung và hình thức thi tuyển, thi nâng ngạch công chức, đổi mới chế độ đào tạo,
bồi dưỡng... theo hướng chú trọng yếu tố năng lực, trọng dụng người có tài năng
trong hoạt động công vụ sẽ góp phần tích cực nâng cao chất lượng đội ngũ công
chức, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, tiếp tục đổi mới chế độ công vụ,
công chức ở nước ta hiện nay ./.
nguon tai.lieu . vn