Xem mẫu

  1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ VAI TRÒ LUẬT SƯ TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ Nguyễn Thị Huyền Trang TÓM TẮT: Bài viết đánh giá vai trò của Luật trong các giai đoạn giải quyết vụ án hình sự; phân tích bất cập quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về quyền tham gia tố tụng của Luật sư và những vướng mắc, hạn chế trên thực tê hành nghề Luật sư. Từ khóa: Luật sư, vai trò Luật sư, giải quyết vụ án hình sự ABSTRACT: The article evaluates the role of the Law in the stages of criminal case resolution; analyzing the inadequacy of the provisions of the Criminal Procedure Code 2015 on the right to participate in the proceedings of lawyers and problems and limitations in the practice of law practice. Keywords: Lawyer, lawyer role, criminal case resolution 1. Vai trò của Luật sư trong giai đoạn tiền khởi tố, khởi tố điều tra vụ án hình sự 1.1. Giai đoạn tiền khởi tố Giai đoạn tiền khởi tố xác định từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định phân công giải quyết đơn tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; người bị bắt, bị tạm giữ, bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Đối với trường hợp cơ quan điều tra tiến hành điều tra xác minh giải quyết đơn tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố, theo quy định tại Điều 83 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 và Khoản 1 Điều 7 Chương 3 Thông tư số 46/2019/TT-BCA ngày 10/10/2019 của Bộ Công an thì Luật sư được tham gia từ khi có quyết định phân công giải quyết đơn tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và căn cứ xác định tư cách người bị hại, người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố với vai trò là Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố1. Đối với trường hợp người bị bắt (bị bắt trong trường hợp quả tang, bắt trong trường hợp truy  Học viên cao học, Luật sư, Giám đốc Công ty Luật Viên An, thuộc Đoàn Luật sư TP. HCM; Email: luatsutrang76@gmail.com 1 Khoản 1 Điều 7 Thông tư số 46/2019/TT-BCA quy định: “Thời điểm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố tham gia tố tụng kể từ khi có Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và có căn cứ xác định tư cách tham gia tố tụng của bị hại, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.” 446
  2. nã), bị tạm giữ, bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp, theo quy định tại Điều 74 BLTTHS năm 2015 thì Luật sư tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ (trừ trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra). Giai đoạn bị tạm giữ hình sự rất quan trọng đối với các đối tượng bị áp dụng các biện pháp tố tụng. Trong giai đoạn này tinh thần các đối tượng thường hoang mang lo sợ dẫn đến trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra đối tượng khai báo không đầy đủ, không đúng sự thật khách quan, cung cấp tài liệu, chứng cứ sai lệch, làm cho đánh giá của cơ quan điều tra gây bất lợi cho đối tượng, ảnh hưởng đến quyền lợi của họ sau này. Vì vậy vai trò Luật sư là người bào chữa, bảo vệ cho quyền lợi của đối tượng trong giai đoạn này có nhiệm vụ giúp cho họ bình tĩnh khai báo đúng sự thật, bước đầu tìm hiểu nội dung vụ việc, giám sát hoạt động của cơ quan điều tra để đảm bảo việc thực hiện các biện pháp, thủ tục tố tụng được đúng quy định của pháp luật. 1.2. Giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự Giai đoạn khởi tố điều tra được xác định từ khi cơ quan điều tra có quyết định khởi tố vụ án hình sự để tiến hành điều tra cho tới khi kết thúc điều tra. Đây là giai đoạn mang tính chất quyết định trong việc chứng minh người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, người bị khởi tố bị can, có hay không có hành vi phạm tội cũng như tính chất mức độ của hành vi đó. Kết quả điều tra trong giai đoạn này là căn cứ quan trọng để Viện kiểm sát truy tố, Tòa án xét xử, xác định tội danh và hình phạt của bị can, bị cáo. Theo quy định tại Điều 74 BLTTHS 2015 thì Luật sư với vai trò người bào chữa được tham gia tố tụng khi khởi tố bị can hoặc với vai trò người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự (Điều 84 BLTTHS năm 2015). Luật sư có trách nhiệm tìm hiểu nội dung khách quan của vụ án, tình trạng, tính chất mức độ hành vi của bị can, thu thập tài liệu chứng cứ phục vụ cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ đồng thời giám sát hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng để đảm bảo việc điều tra được thực hiện đúng quy định của pháp luật. 447
  3. 2. Vai trò của Luật sư trong giai đoạn truy tố, xét xử vụ án hình sự 2.1. Giai đoạn truy tố Truy tố là một giai đoạn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Giai đoạn truy tố được bắt đầu từ khi Viện kiểm sát nhận được các tài liệu của vụ án hình sự (bao gồm cả kết luận điều tra và đề nghị truy tố) do Cơ quan điều tra chuyển đến và kết thúc bằng việc Viện kiểm sát ra một trong ba loại quyết định sau: Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng, trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án hình sự. Quyết định việc truy tố là giai đoạn thứ ba của hoạt động tố tụng hình sự, mà trong đó Viện kiểm sát căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm đánh giá một cách toàn diện, khách quan các tài liệu của vụ án hình sự (bao gồm cả kết luận điều tra và quyết định đề nghị truy tố) do Cơ quan điều tra chuyển đến và trên cơ sở đó Viện kiểm sát ra quyết định: Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng (kết luận về tội trạng); Trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc là đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án hình sự. Quyền và nghĩa vụ của Luật sư trong giai đoạn truy tố được quy định tại khoản 1 Điều 73, Điều Điều 239, Điều 240, Điều 249 BLTTHS 2015. Điều 73 và Điều 82 BLTTHS năm 2015 quy định: Luật sư được đọc, ghi chép và sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án từ khi kết thúc điều tra, do vậy Luật sư chỉ có thể tiến hành hoạt động sao chụp hồ sơ trong giai đoạn truy tố trở đi2. 2.2. Giai đoạn xét xử vụ án hình sự Thời điểm của giai đoạn xét xử vụ án hình sự được bắt đầu từ khi Tòa án nhận được hồ sơ vụ án hình sự (với quyết định truy tố bị can trước Tòa án kèm theo bản cáo trạng) do Viện kiểm sát chuyển sang và kết thúc bằng một bản án (quyết định) có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn thứ tư, trung tâm và quan trọng nhất của hoạt động tố tụng hình sự, mà trong đó cấp Tòa án có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành: (1) Áp dụng các biện pháp chuẩn bị cho việc xét xử; (2) Đưa vụ án hình sự ra xét xử để xem xét về thực chất vụ án, đồng thời trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai và dân chủ của hai bên (buộc tội và bào chữa) phán xét về vấn đề tính chất 2 Điều 82 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Sau khi kết thúc điều tra, nếu có yêu cầu đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm bố trí thời gian, địa điểm để người bào chữa đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án”. 448
  4. tội phạm (hay không) của hành vi, có tội (hay không) của bị cáo; (3) Tuyên bản án (quyết định) của Tòa án có hiệu lực pháp luật nhằm giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự một cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục. Quyền và nghĩa vụ của Luật sư trong giai đoạn xét xử được quy định tại khoản 1 Điều 73, Điều 262, Điều 286, Điều 291, Điều 307, Điều 320, Điều 322 BLTTHS năm 2015. Với vai trò người bào chữa hay người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp thì luật sư đều là “chỗ dựa tinh thần” cho thân chủ tại chốn tụng đình, giúp bị cáo hay bị hại, đương sự ổn định tâm lý từ đó bình tĩnh, sáng suốt trình bày và phải “phát huy năng lực, sử dụng kiến thức chuyên môn, các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của khách hàng” (Bộ quy tắc đạo đức, ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam) 3, thể hiện chủ yếu ở phần tranh tụng thông qua bản luận cứ bào chữa hay bản luận cứ bảo vệ của luật sư, những lập luận, lý lẽ tranh luận “sắc bén” với các bên (nhất là với bên công tố, bên người tham gia tố tụng có quyền lợi đối lập nhau) và các tài liệu, chứng cứ thu thập được có lợi cho khách hàng. 3. Thực trạng hoạt động nghề của luật sư trong quá trình giải quyết vụ án hình sự 3.1. Vướng mắc trong áp dụng pháp luật Quy định của BLTTHS năm 2015 bất cập, không bảo đảm quyền bào chữa, đó là, - Điều 58 BLTTHS năm 2015 quy định: "người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt có quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa" nhưng Điều 73 BLTTHS năm 2015 lại chỉ quy định người bào chữa gặp, hỏi, có mặt khi lấy lời khai người bị bắt, người bị tạm giữ mà không quy định đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Như vậy đối với người bị giữ thì Luật sư có thể có mặt khi lấy lời khai được không? Vấn đề này thì lại chưa được quy định rõ ràng trong Luật, do vậy trong thực tế đối với người bị giữ thì gần như 100% là không có Luật sư. - Luật chưa có quy định cụ thể đối với giữ người trong trường hợp khẩn cấp không do Cơ quan điều tra thụ lý giữ mà là Đồn biên phòng, và trường hợp giữ người trên máy bay, tàu biển, 3 Bộ Quy tắc đạo đức, ứng xử nghê nghiệp luật sư Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 201/QĐ- HĐLSTQ ngày 13/12/2019: Quy tắc số 5. Bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng: “Luật sư có nghĩa vụ tận tâm với công việc, phát huy năng lực, sử dụng kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng theo quy định của pháp luật và Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam”. 449
  5. khi máy bay, tàu biển rời khỏi sân bay, bên cảng...thì Luật sư có được tiếp xúc bảo vệ quyền lợi cho người bị giữ hay không và theo quy định nào? - Điều 75 BLTTHS năm 20154 quy định người bị bắt, bị tạm giữ phải có đơn yêu cầu nhờ người bào chữa là không bảo đảm kịp thời về quyền nhờ người bào chữa, trong khi việc bắt tạm giữ rất khẩn trương, cấp bách, thời hạn tạm giữ rất ngắn; người bị tạm giữ cần phải được bảo đảm các quyền. Từ thực tế đó, cần mở rộng hình thức nhờ người bào chữa, phù hợp sự phát triển của công nghệ thông tin, theo đó người bị bắt, bị tạm giữ có thể bằng điện thoại, hay trực tiếp nhờ người thân để yêu cầu nhờ người bào chữa. - Một số quy định về thủ tục như: thân chủ phải có đơn yêu cầu nhờ người bào chữa, luật sư làm thủ tục đăng ký bảo vệ, điều tra viên thống nhất thời gian ... nếu cán bộ và cơ quan thụ lý không thiện ý thì quyền được nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị giữ, bị bắt, bị can, bị cáo cũng sẽ không được thực hiện đầy đủ và kịp thời... - Điểm l khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định quyền của người bào chữa: “Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu có trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc vụ án”. Chúng tôi cho rằng qui định này đã gây ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện nhiệm vụ của Người bào chữa (trong đó có Luật sư). Như trên đã phân tích, Luật sư có trách nhiệm tìm hiểu nội dung khách quan của vụ án, tình trạng, tính chất mức độ hành vi của bị can, thu thập tài liệu chứng cứ phục vụ cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ đồng thời giám sát hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng để đảm bảo việc điều tra được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ này, pháp luật cần cho phép người bào chữa được nghiên cứu hồ sơ vụ án ngay trong giai đoạn điều tra vụ án bởi các căn cứ sau: + Hồ sơ vụ án được nêu trong BLTTHS là hồ sơ tố tụng, đó là tài liệu, chứng cứ cơ quan điều tra thu thập được bằng các hoạt động tố tụng được pháp luật quy định và phải được công khai, minh bạch trước pháp luật, nó khác với tài liệu trinh sát mà cơ quan điều tra thu thập được bằng biện pháp nghiệp vụ của mình và cần phải giữ bí mật. 4 Khoản 2 Điều 75 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đơn yêu cầu người bào chữa của người bị bắt, bị tạm giữ thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị bắt, người bị tạm giữ có trách nhiệm chuyển đơn này cho người bào chữa, người đại diện hoặc người thân thích của họ.” 450
  6. + Luật sư cần được nghiên cứu hồ sơ vụ án ngay trong quá trình điều tra thì mới biết được cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện các hoạt động tố tụng nào, có đúng quy định của pháp luật hay không, chứng cứ của vụ án có được thu thập đúng quy định hay không? Có như vậy thì Luật sư mới kịp thời khiếu nại, kiến nghị các quyết định, hành vi tố tụng sai phạm nếu có, tránh oan sai, đồng thời Luật sư mới có thể thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 73 BLTTHS năm 2015, để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ. - Điều 307 BLTTHS năm 2015 quy định về trình tự xét hỏi: Chủ toạ phiên toà hỏi trước, đến Hội thẩm, Kiểm sát viên rồi mới đến người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hỏi. Quy định trình tự xét hỏi như trên là chưa hợp lý, bởi Hội đồng xét xử dựa trên các tài liệu điều tra, truy tố kết quả thẩm vấn và tranh luận tại toà để ra phán quyết, do vậy nên để bên công tố và Luật sư tham gia hỏi trước, nếu thấy vấn đề gì chưa rõ thì Hội đồng xét xử mới hỏi thêm, mặt khác việc Hội đồng xét xử và Kiểm sát viên hỏi trước có thể sẽ dẫn đến tình trạng định hướng sẵn nội dung các vấn đề cho bị cáo, người bị hại và các đương sự khác. 3.2. Các dạng vi phạm phổ biến của cơ quan tiến hành tố tụng trong hoạt động thực tiễn Một là, vi phạm về việc giải thích, thông báo cho người bị bắt, bị tạm giữ, người bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố về quyền nhờ người bào chữa. Tại Điều 71 BLTTHS năm 2015 quy định cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng (trong đó có người bị bắt, bị tạm giữ, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị can, bị hại, đương sự) và việc thông báo, giải thích phải ghi vào biên bản. Cụ thể hóa điều luật này về hoạt động luật sư, tại Thông tư số 46/2019/TT- BCA đã quy định: “Khi tiếp nhận người bị bắt, giao Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Quyết định tạm giữ cho người bị tạm giữ, Quyết định khởi tố bị can cho bị can, người thực hiện lệnh, quyết định, tiếp nhận người bị bắt phải đọc, giải thích rõ về quyền, nghĩa vụ của họ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và ghi vào biên bản giao nhận. Trong biên bản phải ghi rõ ý kiến của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can về việc có nhờ người bào chữa hay không và đề nghị thông báo cho người đại diện, người thân thích”, “Trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang 451
  7. bị tạm giam chưa yêu cầu nhờ người bào chữa thì trong lần đầu tiên lấy lời khai người bị bắt, người bị tạm giữ, lần đầu tiên hỏi cung bị can, Điều tra viên hoặc Cán bộ điều tra phải hỏi rõ người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can có nhờ người bào chữa hay không và phải ghi ý kiến của họ vào biên bản”. Điều 8 Thông tư 46 nêu trên quy định: “Trong lần đầu tiên lấy lời khai bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải giải thích quyền, nghĩa vụ của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố theo quy định của BLTTHS năm 2015 và hỏi họ xem có nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp hay không, phải ghi ý kiến của họ vào biên bản”. Các quy định nêu trên cơ bản xác định rõ hơn thủ tục bào chữa. Tuy nhiên trên thực tế các quy định đó vẫn không được bảo đảm thực thi. Thực tế, cơ quan tiến hành tố tụng không thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ cho người bị bắt, bị tạm giữ, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị can, bị hại, đương sự. Theo quy định tại các văn bản nêu trên khi người bị bắt, bị tạm giữ, bị giữ khẩn cấp, bị tạm giam có đơn yêu cầu người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lý họ đều phải thông báo cho người đại diện hoặc người thân thích của họ biết, ngoài ra Thông tư số 46/2019/TT-BCA còn quy định cụ thể khi những người trên không có yêu cầu nhờ người bào chữa thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra cũng phải thông báo cho người đại diện hoặc người thân thích của họ biết (Điều 3)5. Trên thực tế gia đình của các bị can đều không nhận được thông báo của cơ quan điều tra về nội dung trên. Hai là, vi phạm về thủ tục đăng ký bào chữa Điều 78 BLTTHS năm 2015 và Điều 6 Chương 3 Thông tư 46/2019/TT-BCA quy định rất rõ về thời hạn giải quyết thủ tục đăng ký bào chữa, cụ thể: trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ hồ sơ đăng ký bào chữa (Quy định tại khoản 4 Điều 78) cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải gửi văn bản thông báo người bào chữa hoặc thông báo từ chối đăng ký bào 5 Điều 3 Thông tư số 46/2019/TT-BCA quy định: “Trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam không nhờ người bào chữa thì trong thời hạn 12 giờ sau khi lấy lời khai người bị bắt, người bị tạm giữ, 24 giờ kể từ khi hỏi cung bị can lần đầu, Điều tra viên, Cán bộ điều tra đã lấy lời khai, hỏi cung có trách nhiệm thông báo cho người đại diện hoặc người thân thích của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam.” 452
  8. chữa cho người đăng ký bào chữa. Tuy nhiên trên thực tế vẫn xảy ra thực trạng Luật sư không được nhận Thông báo bào chữa đúng thời hạn theo quy định của pháp luật. Khoản 6 Điều 78 BLTTHS 2015 quy định về thời hiệu của văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tham gia tố tụng (trừ khi bị những người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật TTHS từ chối, thay đổi hoặc hủy bỏ). Trên thực tế quy định này cũng không được thực hiện đầy đủ, mặc dù Luật sư đã có văn bản Thông báo người bào chữa của Cơ quan điều tra, nhưng khi đến giai đoạn tiếp theo của quá trình tố tụng thì Luật sư vẫn bị yêu cầu đăng ký lại với lý do có thể đến giai đoạn đó người bị buộc tội từ chối hoặc thay đổi người bào chữa thì sao? Chúng tôi cho rằng lý do này là không phù hợp vì nếu người bị buộc tội từ chối hoặc thay đổi người bào chữa dẫn đến thông báo người bào chữa hết hiệu lực thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải là người nắm rõ và thông báo cho Luật sư (quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 5 Thông tư số 46/2019/TT-BCA)6. Ba là, bất cập trong quy định một số quyền tham gia tố tụng của Người bào chữa Quyền và nghĩa vụ của Người bào chữa được quy định rất rõ tại điều 73 Bộ luật TTHS năm 2015, tuy nhiên trong thực tế quyền của Người bào chữa có nhiều bất cập, các cơ quan tiến hành tố tụng không tuân thủ quy định của pháp luật một cách đầy đủ, thậm chí còn có nhiều vi phạm, cụ thể như sau: - Quyền gặp và hỏi người bị buộc tội: điểm a khoản 1 Điều 73, Điều 80 BLTTHS năm 2015 và Điều 10 Thông tư liên tịch số 01/2018/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 23/11/2018 quy định về quyền của Luật sư được gặp, hỏi người bị buộc tội, Luật sư có quyền gặp mặt người bị buộc tội bất cứ lúc nào (trong giờ làm việc) không hạn chế số lần gặp, thời gian gặp mặt và khi gặp có quyền hỏi, ghi chép (trừ các trường hợp không được gặp mặt người bị tạm giữ, tạm giam được quy định tại Điều 34 Luật thi hành tạm tạm giữ, tạm giam). Đây là quyền cơ bản của Luật sư để thực hiện nghĩa vụ bảo vệ quyền và lợi ích 6 Điều 5 Thông tư số 46/2019/TT-BCA quy định: “Trường hợp thay đổi người bào chữa, nếu bị can, người đại diện hoặc người thân thích nêu đích danh người bào chữa thì cơ quan đang thụ lý vụ án có trách nhiệm yêu cầu hoặc đề nghị cơ quan của người bào chữa đó để phân công; nếu không nêu đích danh người bào chữa thì cơ quan đang thụ lý vụ án có trách nhiệm gửi đến một trong các cơ quan quy định tại điểm a, điểm b khoản 3 Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để cử lại người. Trường hợp từ chối người bào chữa thì cơ quan đang thụ lý vụ án có trách nhiệm thông báo cho cơ quan đã cử người, người được cử chỉ định. Điều tra viên, Cán bộ điều tra có trách nhiệm thống nhất với người được cử chỉ định về thời gian gặp bị can thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, người đại diện hoặc người thân thích của những người quy định tại điểm b khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để xác nhận việc từ chối” 453
  9. hợp pháp của thân chủ. Tuy nhiên trên thực tế Luật sư gặp rất nhiều khó khăn khi đăng ký gặp mặt người bị buộc tội, mặc dù Luật sư đã thực hiện đầy đủ thủ tục theo qui định pháp luật nhưng cơ quan tạm giữ, tạm giam thường gây khó khăn, từ chối cho gặp mặt với lý do phải có ý kiến của cơ quan điều tra thụ lý án hoặc đang trong quá trình xét xử phải có ý kiến của Tòa án mặc dù BLTTHS năm 2015 không có các quy định này, làm cho hạn chế quyền của Luật sư được pháp luật cho phép và ảnh hưởng đến chất lượng bào chữa của Luật sư. - Quyền được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian địa điểm tiến hành các hoạt động điều tra khác: theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 và khoản 1 Điều 11 Thông tư 46/2019/TT-BCA, thì Cơ quan đang thụ lý án, vụ việc phải báo trước về thời gian, địa điểm tiến hành tố tụng mà người bào chữa tối thiểu 24 giờ đối với trường hợp người bào chữa cùng tỉnh, thành phố và 48 giờ với trường hợp người bào chữa ngoài tỉnh, thành phố với cơ quan thụ lý án, vụ việc. Tuy nhiên trong thực tế thì các cơ quan thụ lý án, vụ việc chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật, họ chỉ thông báo khi tiến hành hỏi phúc cung hoặc thực hiện các hoạt động tố tụng quan trọng, còn đa số các buổi lấy lời khai, hỏi cung khác thì cơ quan điều tra không thông báo cho Luật sư. - Quyền sao chụp hồ sơ tài liệu: điểm l khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào chữa: “Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu có trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc vụ án”. Nghĩa là Luật sư chỉ có thể sao chụp hồ sơ tài liệu từ giai đoạn truy tố trở đi. Thời hạn truy tố rất ngắn: ít nhất là 5 ngày (đối với án rút gọn), nhiều nhất là 60 ngày, trong nhiều vụ án Luật sư gửi văn bản đề nghị được sao chụp hồ sơ nhưng không được VKS chấp thuận, với lý do: VKS đang bận hoặc chưa bố trí được cán bộ giám sát, thậm chí có vụ án đến khi chuyển sang Toà án thì Luật sư mới được tiếp cận hồ sơ. - Quyền được đề nghị triệu tập người tham gia tố tụng khác: theo quy định tại điểm g, khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 thì Luật sư có quyền được đề nghị triệu tập người tham gia tố tụng khác. Tuy nhiên trên thực tế có không ít trường hợp Luật sư đề nghị Toà án triệu tập Điều tra viên, Giám định viên hoặc những người có nghĩa vụ quyền lợi liên quan khác nhưng không được chấp nhận. Mặc dù Luật sư đã trình bày các căn cứ rõ ràng về việc cần thiết phải triệu tập những người này tham gia phiên toà. Điều này không chỉ vi phạm đến quyền của Luật sư được quy định trong TTHS mà còn làm cho một số tình tiết của vụ án 454
  10. không được làm sáng tỏ, khách quan và toàn diện, đồng thời gây tâm lý ức chế cho Luật sư (Ví dụ: vụ án Đinh Ngọc Hệ Vi phạm quy định về quản lý đất đai xảy ra tại Quân chủng Hải Quân; trong vụ án này Luật sư đề nghị Tòa án triệu tập nhưng không được chấp nhận...). Bốn là, vi phạm Nội quy phiên toà: Điều 256 BLTTHS năm 2015 quy định: "Tại phiên toà, bị cáo đang bị tạm giam chỉ được tiếp xúc với người bào chữa cho mình. Việc tiếp xúc với những người khác phải được Chủ toạ phiên toà cho phép". Điều đó có nghĩa là tại phiên toà Luật sư đương nhiên được tiếp xúc với thân chủ của mình. Tuy nhiên trong thực tế không ít lần Luật sư bị Cảnh sát dẫn giải hạn chế, gây khó khăn khi tiếp xúc thân chủ để phục vụ cho việc bào chữa (Ví dụ: vụ án Văn Kính Dương – Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, vụ án Trương Thị Thanh - Toà án nhân dân tỉnh Hưng Yên). Năm là, việc gi âm, ghi hình trong quá trình hỏi cung: Điều 183 BLTTHS 2015 quy định: việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại cơ sở Cơ quan điều tra, cơ sở được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Không có điều luật nào cấm Luật sư khi dự cung sử dụng các thiết bị ghi âm và ghi hình. Tuy nhiên trong thực tế thì hầu hết các Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều không cho phép Luật sư sử dụng các thiết bị ghi âm và ghi hình để phục vụ cho việc bào chữa, hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ. Có vụ án xét xử công khai nhưng Hội đồng xét xử không cho các Luật sư mang máy tính vào phòng xét xử để tác nghiệp (Ví dụ: vụ án Vũ Huy Hoàng cùng đồng phạm Vi phạm quy định về quản lý sử dụng tài sản của Nhà nước gây thất thoát lãng phí xảy ra tại Dự án 2-4-6 Hai bà Trưng, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, hoặc vụ án xảy ra tại Gang thép Thái Nguyên). Việc này đã gây không ít khó khăn cho các Luật sư vì tài liệu hồ sơ đã được số hoá và lưu giữ trong máy tính cá nhân. 3.3. Một số nguyên nhân cơ bản của những hạn chế, vướng mắc từ thực tiễn Một là, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng về vai trò của Luật sư trong quá trình cải cách đổi mới nền tư pháp Việt Nam nên chưa chú trọng nghiên cứu các quy định của pháp luật về hoạt động luật sư để áp dụng trong các hoạt động tố tụng của mình dẫn đến việc thực hiện không đúng, không đầy đủ các quy định. 455
  11. Hai là, một số người tiến hành tố tụng còn có nhận thức cho rằng Luật sư bào chữa cho bị can là gây cản trở công tác điều tra vụ án, bênh vực kẻ phạm tội, bới móc vi phạm của cơ quan thi hành tố tụng, dẫn đến có hành vi gây khó khăn, không hợp tác khi có đề nghị thực hiện các quyền của luật sư bào chữa. Họ không nhận thức được rằng hoạt động của Luật sư bào chữa đã tạo điều kiện để cơ quan điều tra nâng cao trình độ năng lực của mình, giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng tránh được oan sai. 4. Một số giải pháp mang tính định hướng về hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về Luật sư, đáp ứng yêu cải cách tư pháp đương đại Trong hơn 60 năm qua, công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự đã từng bước được kiện toàn và phát triển, đáp ứng ngày càng cao yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong từng giai đoạn của lịch sử cách mạng nước ta; tăng cường khả năng chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, chống làm oan người vô tội; đáp ứng ngày càng tốt yêu cầu bảo đảm các quyền tự do dân chủ của công dân đã được Hiến pháp và pháp luật quy định. Trong những năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, công cuộc cải cách tư pháp toàn diện và sâu sắc dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt đến những bước phát triển mới, tạo nên những tiền đề và cũng là những thách thức lớn về kinh tế, chính trị, xã hội, đòi hỏi phải có những điều chỉnh mang tính cải cách đối với tư pháp hình sự từ nhiệm vụ, thẩm quyền của các chủ thể tố tụng, trình tự, thủ tục, thời hạn cũng như mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Công cuộc hội nhập quốc tế ở nước ta đang được tiến hành ngày một sâu rộng. Việt Nam đã và đang tham gia ngày càng đầy đủ vào các sân chơi quốc tế như: WTO, APEC, ASEAN..., ký kết, tham gia nhiều điều ước quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm. Trong quá trình hợp tác quốc tế, hệ thống pháp luật và thể chế tư pháp Việt Nam đã có những điều chỉnh, sửa đổi, hoàn thiện khá tích cực để bảo đảm phù hợp với các nguyên tắc pháp lý quốc tế, các cam kết quốc tế, tạo động lực thúc đẩy tự do thương mại và đầu tư quốc tế, đã từng bước chuyển hoá các nguyên tắc pháp lý quốc tế cơ bản như không phân biệt đối xử, công khai, minh bạch trong hoạt động ban hành pháp luật, áp dụng pháp luật, trong quy trình ra các quyết định hành chính, tư pháp; nguyên tắc và cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính bằng các thủ tục hành chính và tố tụng tư pháp công khai; nguyên tắc bảo đảm quyền được xét xử theo một thủ tục tố tụng công bằng, bình đẳng; 456
  12. nguyên tắc bảo đảm các quyền cơ bản của con người, đặc biệt là bảo đảm quyền bào chữa của người bị tình nghi phạm tội . Do đó cải cách tư pháp hình sự ở nước ta trong thời gian tới phải đáp ứng yêu cầu đổi mới chính sách hình sự trong thời gian tới, ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm, xác định đúng đắn quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tố tụng cho phù hợp với các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, đề cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trước dân, trước Nhà nước, bảo đảm tăng cường hiệu lực, hiệu quả các cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động tố tụng hình sự. Đặc biệt cải cách tư pháp hình sự ở nước ta trong thời gian tới phải đáp ứng yêu cầu xây dựng hệ thống tố tụng hình sự công khai, minh bạch, dân chủ, giản tiện, dễ tiếp cận. Là một dạng hoạt động quyền lực nhà nước (quyền tư pháp), hoạt động tư pháp hình sự một mặt phải bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng chồng tội phạm, đồng thời quá trình vận hành các thủ tục tố tụng hình sự phải đáp ứng yêu cầu về tính công khai, minh bạch, dân chủ, giản tiện, dễ tiếp cận đối với người dân. Xuất phát từ yêu cầu này việc cải cách tư pháp hình sự cần loại bỏ những thủ tục rườm rà, phức tạp, gây phiền hà cho người dân tiếp cận công lý, tiếp cận với quá trình giải quyết vụ án; bổ sung các nội dung nhằm tăng cường tính công khai, minh bạch của các quy định, thủ tục tố tụng hình sự... Không thể vì lý do cần giữ bí mật điều tra mà gây khó khăn, tạo nên những cách trở giữa người dân với quá trình giải quyết vụ án. Cải cách tư pháp hình sự phải đáp ứng yêu cần bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong quá trình phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, tố tụng hình sự phải đảm đương vai trò là công cụ sắc bén và đầy hiệu lực của Nhà nước và xã hội trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh những người có hành vi phạm tội. Tuy nhiên, trong điều kiện toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đặt quyết tâm chính trị đẩy mạnh quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền thì yêu cầu đối với quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm là phải hết sức chú trọng đến mục tiêu đề cao công lý, không làm oan người vô tội, bảo vệ đầy đủ các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân, phải xem đây là yêu cầu tối quan trọng đối với quá trình giải quyết vụ án. Nguyên tắc bảo đảm quyền sống tự do và an ninh cá nhân, quyền bình đẳng trước pháp luật và được 457
  13. pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng, quyền được bình đẳng trước toà án, được xét xử công bằng, công khai bởi một toà án độc lập, không thiên vị. Luật đã có những điều chỉnh khá cơ bản về quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người bào chữa, bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tuy nhiên trong thực tế thì các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng còn có nhiều vi phạm dẫn đến quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người bào chữa không được đảm bảo. Cải cách tư pháp hình sự phải đáp ứng yêu cầu bảo đảm sự công bằng, bình đẳng thực sự giữa các bên (bên buộc tội và bên gỡ tội) trong suốt quá trình đi tìm sự thật của vụ án. Công bằng, bình đẳng luôn là yêu cầu quan trọng của quá trình giải quyết vụ án hình sự, được ghi nhận là một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Một nền tư pháp tiến bộ là nền tư pháp phải bảo đảm cho các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội và chức năng bào chữa có các cơ hội, điều kiện như nhau trong việc bày tỏ ý kiến và bảo vệ ý kiến của mình trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Sự đấu tranh, vận động giữa chức năng buộc tội và chức năng bào chữa càng dân chủ, bình đẳng bao nhiêu thì quá trình tìm kiếm chân lý càng được bảo đảm bấy nhiêu. Thời gian qua: về mặt xây dựng và hoàn thiện thể chế, chúng ta đã có những sửa đổi, bổ sung nhằm tạo điều kiện cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa hiệu quả hơn; người bào chữa có quyền tham gia tố tụng sớm hơn, các quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người bào chữa của họ từng bước được mở rộng. Tuy nhiên, xét cả trên bình diện pháp lý và thực tiễn, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa được xem là một bên trong quan hệ tố tụng, thậm chí nhiều trường hợp, gần như là đối tượng xem xét của các cơ quan tiến hành tố tụng. Tính thụ động và bị lệ thuộc của người bào chữa vào các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn là điểm dễ nhận thấy trong tố tụng hình sự nước ta. Người bào chữa chưa được đảm bảo các điều kiện cần thiết để trở thành một bên bình đẳng với bên buộc tội trong quá trình đi tìm sự thật khách quan của vụ án, ví dụ như: thủ tục đăng ký Luật sư bào chữa rườm rà, mất nhiều thời gian, việc Luật sư dự cung trong giai đoạn điều tra vụ án, Luật sư tham gia xét hỏi, tranh luận tại phiên toà… đều chưa thực sự được đổi mới, chưa đảm bảo một cách đầy đủ các quyền của Luật sư như Bộ luật THHS 2015 quy định. Những vướng mắc, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả đấu tranh phòng, chống tội phạm, đến yêu cầu xây dựng một nền tư pháp dân chủ, công bằng nghiêm minh, bảo vệ công lý, ảnh hưởng 458
  14. đến quyền bào chữa của bị can, bị cáo và đặc biệt là đã không tạo ra được cơ chế pháp lý hữu hiệu để thúc đầy các cơ quan tiến hành tố tụng tự hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động của mình trước sự đối trọng, phản biện tích cực từ bên bào chữa. Xuất phát từ yêu cầu đó, quá trình cải cách tư pháp hình sự phải tạo ra các quy trình, thủ tục tố tụng hợp lý khoa học nhằm bảo đảm sự bình đẳng thực sự giữa chủ thể thực hiện chức năng buộc tội và chủ thể thực hiện chức năng bào chữa, tạo các cơ hội, điều kiện bình đẳng giữa các bên trong việc đưa ra chứng cứ, bảo vệ ý kiến của mình, bảo đảm cho các bên phản ánh được hết ý kiến lập luận của mình với toà án một cách trực tiếp. Sau 15 năm thực thi Nghị quyết số 49 (từ năm 2005 đến nay), cải cách tư pháp đã đạt được khá nhiều thành tựu đáng khích lệ, góp phần bảo vệ công lý trong hoạt động tư pháp một cách hiệu quả hơn. Mặc dù vậy, vẫn còn nhiều hạn chế cần giải quyết để thúc đẩy cải cách tư pháp ở nước ta lên một bước mới, qua đó bảo vệ công lý một cách vững chắc và toàn diện, trong mọi hoạt động và giai đoạn của tố tụng tư pháp, đặc biệt là tố tụng hình sự. Do vậy cần tiếp tục cải cách thủ tục tố tụng để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận với luật sư, tòa án và các thiết chế khác để tìm kiếm công lý. Bên cạnh đó, cũng cần hoàn thiện cơ chế bảo vệ các quyền con người trong tố tụng, đặc biệt là các quyền bào chữa, quyền khiếu nại, tố cáo, kháng cáo và các quyền khác mà cho phép bị can, bị cáo được xét xử công bằng. Đặc biệt, để bảo vệ công lý hiệu quả, nhất thiết phải củng cố năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ làm việc trong các cơ quan tư pháp, đồng thời hoàn thiện pháp luật về Luật sư để đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp đương đại. Đồng thời cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định về các nguyên tắc tố tụng cơ bản trong pháp luật tố tụng hình sự, đặc biệt là nguyên tắc có vai trò nền tảng trong việc bảo vệ công lý, như nguyên tắc về tính độc lập của tòa án, nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc suy đoán vô tội.., theo hướng tháo gỡ các “nút thắt tư duy” để hiểu và áp dụng các nguyên tắc này chính xác, phù hợp với xu thế chung trên thế giới./ 459
  15. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Quy tắc đạo đức, ứng xử nghê nghiệp luật sư Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 2. Bộ luật hình sự năm 2015 3. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. 4. Thông tư số 46/2019/TT-BCA ngày 10/10/2019 của Bộ Công an 460
nguon tai.lieu . vn