Xem mẫu

  1. Thiết chế bảo hiến trong luật của Hoa Kì, Pháp và Đức. Bài học đối với thiết lập toà án bảo hiến ở Việt Nam. I.Về khái niệm bảo vệ Hiến pháp - Bảo hiến: Ở các nước trên thế giới không có một khái niệm thống nhất về cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Thuật ngữ “bảo vệ Hiến pháp” sử dụng ở Việt Nam nhưng thuật ngữ này không được dùng nhiều ở các nước trên thế giới. Ở Anh và Mỹ có một khái niệm là “judical review” có thể tạm dịch là kiểm tra tư pháp. Bản chất của khái niệm này là dùng để chỉ việc kiểm tra của cơ quan tư pháp đối với tính hợp hiến của các đạo luật do cơ quan lập pháp đưa ra. Khái niệm này tương đương với khái niệm “bảo hiến” hay “kiểm hiến” mà một số sách trước đây về luật hiến pháp ở Việt nam hay dùng . Bảo hiến (bảo vệ hiến pháp) về ý nghĩa cốt lõi được hiểu là kiểm soát tính hợp hiến của các đạo luật, là xem xét xem những đạo luật được đưa ra có phù hợp với tinh thần và nội dung của Hiến pháp hay không. Theo cách hiểu này, bảo hiến không nhằm vào các văn bản dưới luật. Sự bảo hiến chỉ nhằm vào những đạo luật do Quốc hội đưa ra. Tuy nhiên cách hiểu bảo hiến chỉ là kiểm soát tính hợp hiến của các đạo luật là một cách hiểu theo nghĩa hẹp. Thực tiễn của chế độ bảo hiến ở các nước cho thấy, các định chế bảo hiến được sinh ra không chỉ đơn thuần là kiểm soát tính hợp hiến của hành vi lập pháp. Toà án Hiến pháp ở nhiều quốc gia châu Âu bên cạnh việc kiểm soát tính hợp hiến của các đạo luật của Nghị viện còn thực hiện nhiều chức năng khác để bảo vệ nội dung và tinh thần của Hiến pháp như giải quyết tranh chấp giữa lập pháp và hành pháp, giữa liên bang và tiểu bang, giữa trung ương và địa phương; kiểm soát tính hợp hiến trong hành vi của Tổng thống cũng như của các quan chức trong bộ máy hành pháp... Ở nghĩa rộng hơn, bảo hiến được hiểu là kiểm soát tính hợp hiến của các hành vi của các định chế chính trị được quy định trong Hiến pháp . II.Thiết chế bảo hiến ở một số nước trên thế giới 1. Thiết chế bảo hiến ở Mỹ Hiến pháp Hoa Kỳ là bản thiết kế chi tiết cho hệ thống cầm quyền của Hoa Kỳ. Được thông qua năm 1788, bản Hiến pháp này xác định ba ngành riêng rẽ của chính phủ (lập pháp, hành pháp và tư pháp) và quyền hạn của các ngành này, đồng thời quy định các vị trí trong từng ngành phải được bổ nhiệm như thế nào. Một đặc điểm rõ
  2. rệt của Hiến pháp là hệ thống kiềm chế và đối trọng mà nó tạo ra để phân bổ quyền lực giữa ba ngành. Mỗi ngành thực thi một dạng quyền lực đối với các ngành kia. Ví dụ, các thẩm phán Tòa án Tối cao (bộ máy tư pháp) được Tổng thống (hành pháp) bổ nhiệm, nhưng phải được sự chấp thuận của Thượng nghị viện Hoa Kỳ (lập pháp). Tương tự, ngành tư pháp có thể bác bỏ những đạo luật vi hiến mà đã được Quốc hội thông qua và được Tổng thống ký. Cơ chế kiểm soát và đối trọng này đảm bảo rằng không một ngành nào của chính quyền sẽ thực thi quá nhiều quyền lực. Vì chính phủ chỉ có thể thực thi những quyền lực được nêu rõ trong Hiến pháp, nên Hiến pháp là sự bảo vệ quan trọng đối với quyền lợi và quyền lực của nhân dân. 10 điều bổ sung sửa đổi đầu tiên của Hiến pháp được biết chung như bản Tuyên ngôn Nhân quyền. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền này đảm bảo sự tự do quan trọng đối với từng người Mỹ, trong đó có tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tôn giáo, quyền không bị khám xét vô cớ và quyền được xét xử bởi các ban hội thẩm. Hiến pháp là luật tối cao của đất nước, không chỉ có giá trị về mặt lý luận mà còn có giá trị về mặt thực tiễn.. Hệ thống toà án liên bang gồm có Toà án Tối cao, Toà án Phúc thẩm, Toà án khu vực và các toà án đặc biệt. Đứng đầu hệ thống toà án là Toà án Tối cao Hoa Kỳ. Đây là cơ quan quan trọng trong cơ cấu các cơ quan nhà nước tối cao bên cạnh Quốc hội và Tổng thống Hoa Kỳ. Toà án Tối cao Hoa Kỳ là cơ quan tư pháp duy nhất được lập ra theo quy định của Hiến pháp Hoa Kỳ gồm chín thẩm phán, một trong số đó được Tổng thống bổ nhiệm làm Chánh án. Các thẩm phán của Toà án Tối cao, kể cả Chánh án do Tổng thống bổ nhiệm phải được Thượng viện phê chuẩn. Khi Toà án ra bản án, tối thiểu phải có sáu thẩm phán tham gia bỏ phiếu. Toà án Tối cao xem xét sơ thẩm các vụ án liên quan đến phân định thẩm quyền giữa hai hay nhiều bang, các vụ kiện mà một trong các bên là đại sứ nước ngoài và một số vụ án khác. Toà án Tối cao Liên bang Mỹ đã tự nhận cho mình vai trò kiểm tra tư pháp qua suy luận pháp lý được đưa ra lần đầu trong vụ Marbury v. Madison (1803). Trong bản án của vụ án này, Toà án tối cao liên bang đã đưa ra một nguyên tắc rõ ràng về kiểm tra tư pháp: “Trong một vụ tranh chấp mà Toà án phải xem xét, nếu một bên đương sự đưa ra sự bất hợp hiến của đạo luật mà người ta muốn đem thi hành, thì Toà án phải kiểm tra xem sự bất hợp hiến đó có thật hay không, và nếu có thật, Toà án phải từ chối áp dụng đạo luật bất hợp hiến” . Thẩm phán Marshall đã khẳng định quyền từ chối áp dụng một đạo luật trái với Hiến pháp vì cho rằng: “ Hiến pháp là đạo luật cơ bản và có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật của một quốc gia...Nếu toà án có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp, nếu Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao hơn tất cả các văn bản pháp lý thông thường khác của cơ quan lập pháp, thì toà án phải vận dụng Hiến pháp để giải quyết vụ án chứ không phải các văn bản pháp luật thông thường” .
  3. Mọi Toà án Liên bang đều có thể xem xét sự phù hợp của đạo luật đối với Hiến pháp và từ chối áp dụng đạo luật đó nếu nó vi hiến và chỉ có Toà án Liên bang có quyền xem xét về sự phù hợp của các điều khoản trong Hiến pháp của bang với Hiến pháp Liên bang. Quá trình xem xét tính hợp hiến của Toà án Liên bang được gọi là “judicial review” . Mặc dù quyền tài phán hiến pháp thuộc về tất cả các toà án nhưng người ta hay nhắc đến vai trò của Toà án Tối cao Mỹ (với 9 thẩm phán cao cấp do Tổng thống bổ nhiệm và Thượng nghị viện phê chuẩn với nhiệm kỳ suốt đời) vì trong một vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án Liên bang, hai bên bao giờ cũng đem việc tranh tụng ra trước cơ quan tư pháp cao nhất, phán quyết chung thẩm do vị thẩm phán cao nhất đưa ra. Toà án Mỹ chỉ có quyền tuyên bố đạo luật không hợp hiến sẽ không được áp dụng trong vụ án cụ thể chứ không có quyền tuyên bố huỷ bỏ đạo luật đó. “Chúng ta không có quyền nói như một số người cho rằng nếu các vị Chánh án có quyền tuyên bố một đạo luật trái với tinh thần Hiến pháp là một đạo luật vô hiệu lực, các vị Chánh án sẽ có quyền quyết định theo ý nghĩ riêng của mình, thay thế quyết định do cơ quan lập pháp ban hành bằng một quyết định dựa trên ý kiến riêng của họ” . Như vậy về nguyên tắc, hiệu lực phán quyết của Toà án chỉ giới hạn trong các vụ án cụ thể. Tuy nhiên có một nguyên tắc bổ sung cho sự thiếu hụt hiệu lực toàn vẹn của các phán quyết hiến pháp là nguyên tắc xác định việc giải thích Hiến pháp của Toà án Tối cao liên quan đến tất cả các toà án cấp dưới. Mặc dù về nguyên tắc, Toà án không có quyền huỷ bỏ một đạo luật bất hợp hiến, đạo luật đó vẫn tồn tại, nhưng việc Toà án từ chối áp dụng một đạo luật bất hợp hiến trong trường hợp cụ thể trên thực tế đã vô hiệu hoá đạo luật đó. Với truyền thống tôn trọng án lệ, trong những trường hợp tương tự, nếu đương sự viện dẫn đạo luật đã bị Toà án tuyên bố bất hợp hiến, Toà thụ lý vụ án sẽ từ chối áp dụng nó. Toà án Tối cao Mỹ chú trọng bảo vệ các quyền tự do và bình đẳng của công dân (thông qua việc kiểm tra tính hợp hiến của các phán quyết của toà án ) đặc biệt trong lĩnh vực hình sự), các quyết định hành chính và các văn bản quy phạm pháp luật. Ngay từ năm 1937, Thẩm phán Cardozzo tuyên bố: “Điều khoản về thủ tục phù hợp do pháp luật quy định (due process of law) chứa đựng các quyền gắn liền với quan niệm tự do trong khuôn khổ và tất cả các quyền có nguồn gốc từ truyền thống và lương tâm của dân tộc Mỹ, được coi như các quyền cơ bản. Trên cơ sở đó, tất cả các quyền đã được thừa nhận trong mười sửa đổi bổ sung Hiến pháp Mỹ đầu tiên và cả một số quyền mới được đưa ra ( ví dụ quyền được bảo vệ đời tư) đã được gộp vào trong nguyên tắc “due process of law” và có hiệu lực đối với cả Nhà nước liên bang và chính quyền các bang. Trên cơ sở đó đã có rất nhiều án lệ được xây dựng theo tinh thần tiến bộ về quyền tự do tôn giáo, tự do ngôn luận và các quyền trong thủ tục tố
  4. tụng hình sự, đặc biệt là dưới thời Chánh án Warren (1953-1969). Theo án lệ của Toà án Tối cao liên bang trong vụ Brown v. Board of Education of Topeka (1954), các bang có nghĩa vụ tôn trọng quyền bình đẳng giữa các chủng tộc. Nguyên tắc về bảo hộ quyền bình đẳng trước pháp luật được mở rộng áp dụng đối với các quyền chính trị và quyền bào chữa. Về quyền bình đẳng giới tính thiếu quy định cụ thể trong Hiến pháp nhưng dưới thời Chánh án Burger (1969 - 1986) và dưới thời Chánh án Rehnquist (1986 - nay), Toà án Tối cao đã phát triển án lệ theo xu hướng bảo vệ các quyền của phụ nữ, các hành vi phân biệt đối xử căn cứ vào giới tính đều bị coi là trái Hiến pháp. 2. Thiết chế bảo hiến ở Đức - Toà án Bảo hiến Liên bang Ở Đức, Toà án Bảo hiến Liên bang (Bundesverfassungsgericht) vừa là cơ quan Hiến pháp cao nhất của Liên bang, vừa là toà án xem xét các vấn đề liên quan đến áp dụng Hiến pháp . Toà án Bảo hiến Liên bang đảm bảo việc thực hiện Hiến pháp của Liên bang; Toà án bảo hiến của các bang đảm bảo việc thực hiện Hiến pháp của bang mình. Mặc dù không có quan hệ thứ bậc giữa các Toà án Bảo hiến, Toà án Bảo hiến Liên bang vẫn có vai trò quan trọng vì trên thực tế, văn bản pháp luật Liên bang có hiệu lực pháp lý cao hơn văn bản pháp luật của các bang. Điều đáng chú ý là văn bản pháp lý quan trọng nhất thông qua năm 1949 của Cộng hoà liên bang Đức không được gọi là là Hiến pháp (Konstitution) mà được gọi là Luật cơ bản (Grundgesetz). Điều 1 - Điều khoản đầu tiên của Hiến pháp 1949 được dành để long trọng tuyên bố địa vị tối thượng của con người: "Phẩm giá con người là bất khả xâm phạm. Nghĩa vụ của mọi quyền lực nhà nước là kính trọng và bảo vệ phẩm giá đó. Dân tộc Đức nhìn nhận các quyền bất khả xâm phạm và bất khả nhượng của con người như là nền tảng của mọi cộng đồng nhân loại, của hòa bình và công chính trên thế giới. Các quyền căn bản sẽ được kể sau đây có giá trị đối với lập pháp, hành pháp và tư pháp, như là quyền có giá trị bắt buộc trực tiếp". Với quan niệm Hiến pháp là Luật lệ nền tảng của Quốc gia và định chế Nhân bản và Dân chủ là giá trị bất di dịch, Toà án Bảo hiến Liên bang có thẩm quyền can thiệp để bảo vệ Hiến pháp trong mọi giải thích và áp dụng Hiến pháp vào đời sống thực tế: "Toà án Bảo hiến Liên bang phán quyết trong trường hợp bất đồng ý kiến hay nghi vấn đối với việc thích hợp hay không thích hợp lý thuyết cũng như thực hành của một đạo luật Liên bang hay đạo luật của bang với Hiến pháp này hoặc việc thích hợp hay không một đạo luật của bang đối với đạo luật của Liên bang, do lời yêu cầu của Chính phủ Liên bang, của Chính phủ của một bang hay của 1/3 thành viên của Hạ viện" (Điều 93 Hiến pháp Cộng hoà liên bang Đức 1949)
  5. Toà án Bảo hiến Liên bang là cơ quan có thẩm quyền phán quyết tính cách hợp hiến hay vi hiến các lối giải thích thành luật lệ, hoạt động, thành phần cơ chế của guồng máy nhà nước và các chủ thể khác. Như vậy, không phải vị Nguyên thủ quốc gia được giao cho bổn phận là người canh giữ Hiến pháp nữa (như trong Hiến pháp Weimar 1919) mà nhiệm vụ này đã được chuyển sang cho các thẩm phán của Toà án Bảo hiến Liên bang. Toà án Bảo hiến Liên bang gồm 16 thẩm phán, một nửa do Hạ viện Liên bang (Bundestag) và một nửa do Thượng viện Liên bang (Bundesrat) bầu ra với đa số tuyệt đối (hai phần ba số phiếu thuận). 6 thẩm phán được lựa trong số các thẩm phán của Toà án Liên bang. 10 thẩm phán còn lại là những nhân vật ngoài 40 tuổi, hội đủ các điều kiện để được chọn thành dân biểu Hạ viện, đã tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật, có khả năng chuyên môn cần thiết để hành nghề thẩm phán. Quyền hạn và nhiệm vụ của các thẩm phán Toà án Bảo hiến Liên bang kéo dài 1 2 năm và không được tái nhiệm. Toà án Bảo hiến Liên bang gồm có hai Văn phòng (Senate) có quyền hạn ngang nhau và độc lập nhau. Mỗi Văn phòng gồm 8 thẩm phán, mỗi thẩm phán được chọn vào một Văn phòng của Toà án Bảo hiến Liên bang không thể được chuyển qua Văn phòng bên kia và cũng không thể thay thế: hai Văn phòng của Toà án Bảo hiến Liên bang là một hình thức Toà án song đôi (Twin - Court). Thẩm quyền của mỗi Văn phòng được pháp luật quy định. Trên thực tế, do có quá nhiều khiếu kiện nên hai Hội đồng xét xử gồm 8 thẩm phán chỉ xét xử khoảng 30 vụ mỗi năm là những vụ quan trong nhất. Mỗi Hội đồng có quyền phán quyết các vấn đề với sự hiện diện ít nhất 6 thành viên (6/8). Và sáu Hội đồng, mỗi Hội đồng gồm ba thẩm phán chịu trách nhiệm giải quyết phần lớn các khiếu kiện được chia thành hai loại chính: loại thứ nhất là các khiếu kiện của người dân về các bản án, quyết định hay hành vi hành chính, trừ trường hợp khiếu kiện dó có liên quan đến một vấn đề chưa từng được giải quyết trước đó hoặc khiếu kiện về tính hợp hiến của một văn bản luật; loại thứ hai là xem xét kiểm tra tính hợp hiến của một văn bản pháp luật cụ thể. Toà án Bảo hiến Liên bang phải giải quyết mỗi năm khoảng 5000 vụ việc thuộc hai loại kể trên, một nửa số vụ có thời gian giải quyết kéo dài trên 2 năm và số vụ việc tồn đọng lên tới hơn 3000 vụ . Toà án Bảo hiến Liên bang có 13 thẩm quyền khác nhau, trong số đó phải kể đến những thẩm quyền quan trọng nhất sau đây: Phán quyết tính cách hợp hiến hay vi hiến theo nguyên tắc (abstrate Normenkontrolle) của luật pháp Liên bang cũng như luật pháp các bang: " Toà án Bảo hiến Liên bang phán quyết trong trường hợp bất đồng ý kiến hay nghi vấn đối với việc thích hợp hay không thích hợp lý thuyết cũng như thực hành một đạo luật Liên bang hay đạo luật của một bang đối với Hiến pháp này, hoặc việc thích hợp hay
  6. không một đạo luật của Liên bang đối với đạo luật của các bang..." (Điều 93 Hiến pháp Cộng hoà liên bang Đức 1949). Tính cách hợp hiến hay vi hiến có thể xảy ra khi áp dụng vào thực tế, một đạo luật được ban hành, đó là trường hợp "kiểm soát thực tế " (konkrete Normakontrolle): "Nếu một toà án cho rằng một đạo luật mang tính cách vi hiến, việc áp dụng của đạo luật phải được đình hoãn. Nếu là vi hiến đối với Hiến pháp của bang, cần phải có phán quyết của Toà án Bảo hiến của bang, có thẩm quyền trên các việc tranh luận về Hiến pháp. Trong khi đó, nếu đạo luật mang tính cách vi hiến đối với Hiến pháp này (Luật nền tảng, Grundgesetz), cần phải có sự phán quyết của Toà án Bảo hiến Liên bang. Điều vừa kể cũng có giá trị nếu một đạo luật của bang có tính cách vi hiến đối với Hiến pháp nầy hoặc một đạo luật của bang không phù hợp với luật pháp Liên bang" (Điều 100 Hiến pháp Cộng hoà liên bang Đức 1949). Thẩm quyền phán quyết các tranh chấp giữa Liên bang và bang hay giữa các bang với nhau. Các tranh chấp trên là điều không thể tránh khỏi trong một nhà nước liên bang. Toà án Bảo hiến Liên bang có quyền phán quyết "... trong trường hợp có sự bất đồng ý kiến về quyền hạn và nhiệm vụ giữa Liên bang và các bang, nhất là đối với việc các bang thi hành một đạo luật Liên bang hoặc bất đồng ý kiến về việc hành xử quyền kiểm soát của Liên bang", "... trong trường hợp có các sự bất đồng ý kiến về công pháp giữa Liên bang và các bang, giữa các bang với nhau, hoặc ngay cả trong nội bộ của một bang, khi không thể nhờ vào quyền tư pháp nào khác để phán quyết" (Điều 93, Hiến pháp Cộng hoà liên bang Đức 1949). Toà án Bảo hiến Liên bang xét xử vị Nguyên thủ quốc gia, bị Hạ viện hay Thượng viện Liên bang tố cáo là vi phạm Hiến pháp hay luật pháp Liên bang, bằng hành động có suy tính trước: "Hạ viện hoặc Thượng viện Liên bang có quyền tố cáo Tổng thống Liên bang trước Toà án Bảo hiến Liên bang vì có những hành động có suy tính vi phạm Hiến pháp hoặc luật pháp Liên bang. Để có thể tố giác, đơn tố cáo phải được ít nhất 1/4 thành viên Hạ viện hoặc 1/4 thành viên Thượng viện..." (Điều 61, Hiến pháp Cộng hoà liên bang Đức 1949). Toà án Bảo hiến Liên bang có quyền bảo đảm việc giải thích đồng nhất các nguyên tắc nền tảng (Grundgesetz) của Hiến pháp 1949 đối với các Toà án Bảo hiến bang: "Trong khi giải thích Hiến pháp 1949, nếu Toà án Bảo hiến của một bang muốn giải thích khác với đường lối của Toà án Bảo hiến Liên bang, hay Toà án Bảo hiến của một bang giải thích khác với cách giải thích của Toà án Bảo hiến của một bang khác, Toà án Bảo hiến bang phải tham khảo ý kiến của Toà án Bảo hiến Liên bang " (Điều 100, Hiến pháp Cộng hoà liên bang Đức 1949). Toà án Bảo hiến Liên bang có quyền quyết định một đạo luật quốc tế có thực sự hiện hữu và thuộc thành phần luật pháp của Liên bang hay không. Theo điều 25 Hiến pháp 1949, các đạo luật quốc tế tổng quát là thành phần tất yếu của luật pháp
  7. Liên bang, có giá trị trên luật pháp Liên bang, xác định quyền và bổn phận cho dân chúng trên lãnh thổ Liên bang: "Trong các cuộc tranh luận về luật pháp nếu không chắc chắn một đạo luật quốc tế có là thành phần tất yếu của luật pháp liên bang hay không và nếu đạo luật đó có đưa đến các quyền hạn và nghĩa vụ đối với cá nhân hay không, toà án phải hỏi ý kiến quyết định của Toà án Bảo hiến Liên bang " (Điều 100, Hiến pháp 1949) 3. Thiết chế bảo hiến ở Pháp: Hội đồng bảo hiến - Hội đồng Hiến pháp Tại Cộng hòa Pháp, Hội đồng Hiến pháp là cơ quan đặc biệt, giám sát việc tuân theo Hiến pháp. Hội đồng bảo hiến được quy định trong chương VII (từ điều 56 đến điều 63 của Hiến pháp) Hội đồng Hiến pháp bao gồm chín thành viên có nhiệm kỳ chín năm và không được tái nhiệm. Ba năm một lần, Hội đồng Hiến pháp tiến hành thay thế 1/3 số thành viên. Ba thành viên do Tổng thống bổ nhiệm, ba thành viên do Chủ tịch Hạ viện bổ nhiệm và ba thành viên do Chủ tịch Thượng viện bổ nhiệm. Bên cạnh chín thành viên nêu trên, các Tổng thống mãn nhiệm đương nhiên là thành viên suốt đời của Hội đồng Hiến pháp. Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp do Tổng thống bổ nhiệm. Trong trường hợp số phiếu của các thành viên ngang nhau, phiếu của Chủ tịch có giá trị quyết định. Người đã là thành viên của Hội đồng Hiến pháp thì không được đồng thời kiêm nhiệm Bộ trưởng hoặc thành viên của Nghị viện. Các trường hợp bất khả kiêm nhiệm khác được quy định trong một đạo luật về tổ chức. Hội đồng Hiến pháp đảm bảo cho cuộc bầu cử Tổng thống được tiến hành hợp lệ. Hội đồng Hiến pháp xem xét, giải quyết các khiếu nại và công bố kết quả bầu cử. Trong trường hợp có khiếu nại, Hội đồng Hiến pháp có quyền xem xét về tính hợp lệ của cuộc bầu cử Hạ viện và Thượng viện. Hội đồng Hiến pháp đảm bảo cho các hoạt động trưng cầu ý kiến nhân dân được tiến hành hợp lệ và tuyên bố kết quả trưng cầu ý kiến nhân dân. Các đạo luật về tổ chức, trước khi được được ban hành, và các Quy chế hoạt động của Hạ viện và Thượng viện, trước khi được áp dụng, phải trình lên Hội đồng Hiến pháp để xem xét tính hợp hiến của các văn bản đó. Đối với các đạo luật khác, trước khi được ban hành, cũng có thể được trình lên Hội đồng Hiến pháp để xem xét tính hợp hiến khi có yêu cầu của Tổng thống, Thủ tướng, Chủ tịch Hạ viện, Chủ tịch Thượng viện hoặc 60 Hạ nghị sỹ hoặc 60 Thượng nghị sỹ. Trong các trường hợp nêu trên, Hội đồng Hiến pháp phải xem xét và cho ý kiến trong thời hạn một tháng. Tuy nhiên, trong trường hợp khẩn cấp, theo yêu cầu của Chính phủ, thời hạn này có thể rút lại còn 8 ngày. Cũng trong những trường hợp trên, việc chuyển văn bản sang cho Hội đồng Hiến pháp xem xét tính hợp hiến sẽ tạm đình chỉ thời hạn ban hành văn bản.
  8. Quy định bị tuyên bố không hợp hiến thì không được ban hành và áp dụng. Các quyết định của Hội đồng Hiến pháp không bị khiếu nại, kháng cáo, kháng nghị. Các quyết định này có hiệu lực áp dụng bắt buộc đối với tất cả các cơ quan quyền lực Nhà nước và tất cả các cơ quan hành chính và tư pháp. Một đạo luật về tổ chức sẽ quy định về tổ chức và hoạt động của Hội đồng Hiến pháp, thủ tục và thời hạn giải quyết trước Hội đồng Hiến pháp. III. Toà án bảo hiến ở Việt Nam Hiến pháp đầu tiên của nước ta ra đời trong bối cảnh nước ta đã giành được độc lập. sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, ngày 02/09/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ lâm thời đọc bản "Tuyên ngôn độc lập" của nhân dân ta, dân tộc ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở đông Nam châu Á. Ngày 03/09/1945, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Hồ Chủ Tịch đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ, trong đó có nhiệm vụ lập ra một Hiến pháp dân chủ: "Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ". Ngày 20/9/1945 Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 34 thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 7 người, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Tháng 11/1945 bản Dự thảo Hiến pháp đầu tiên được công bố để nhân dân đóng góp ý kiến. Ngày 9/11/1946 tại kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa I (do cuộc tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 bầu) đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta. Trên thực tế, mặc dù Hiến pháp 1946 không được ban hành rộng rãi trong nhân dân vì hoàn cảnh chiến tranh nhưng Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh luôn làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.Chính vì ngay từ đầu chúng ta đã đề cao tính tối cao của Hiến pháp nên đã sớm hình thành cơ chế bảo hiến. Tuy nhiên, trong thời gian đầu cơ chế này không thể hoàn thiện hay đầy đủ được cũng như chưa đáp ứng trọn vẹn về mặt ngữ nghĩa của cụm từ này. Cơ chế bảo hiến ở nước ta hiện nay được thể hiện cụ thể qua bản Hiến pháp 1992 hiện hành. Đó là cơ chế giám sát tương đối tòan diện. Người ta gọi cơ chế bảo hiến theo việc giám sát như thế này là mô hình Quốc hội vì Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao. Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao đối vơi toàn bộ họat động của Nhà nước và giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. bên cạnh đó, các cơ quan khác cũng thực hiện chức năng giám sát việc tuân theo Hiến pháp và giám sát các văn bản quy phạm pháp luật khác để nó không trái với nội dung cũng như tinh thần của Hiến pháp. Cụ thể, cơ chế giám sát đó được thể hiện chi tiết qua những quy định sau đây trong Hiến pháp: - Điều 83:
  9. "Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. ... Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước". - Điều 84: "Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1- Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật; quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; 2- Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; ... 9- Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; ... 13- Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế khác đã được ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước;" - Điều 91: "Uỷ ban thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: ... 3- Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; ... 5- Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc huỷ bỏ các văn bản đó; huỷ bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; 6- Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ các nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân" - Điều 94, 95 quy định Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội giám sát việc thi hành pháp luật trong lĩnh vực mà mình phụ trách.
  10. - Trong các chế định Chủ tịch nước, chính phủ, tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân, hiến pháp cũng quy định Chủ tịch nước, chính phủ, tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân bảo vệ Hiến pháp thông qua việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Không những vậy, pháp luật hiện hành có quy định cơ chế giám sát và bảo vệ Hiến pháp thông qua việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật - một trong những nội dung quan trọng nhất của cơ chế bảo hiến. Theo đó, Quốc hội thực hiện quyền giám sát văn bản quy phạm pháp luật của chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, chính phủ, thủ tướng chính phủ, tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và có quyền bãi bỏ căn bản của các cơ quan này nếu văn bản đó được ban hành trái với với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của quốc hội. Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát văn bản quy phạm pháp luật của chính phủ, thủ tướng chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân tối cao, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và có quyền đình chỉ văn bản của những cơ quan này nếu trái Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội. Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của quốc hội có trách nhiệm bảo đảm tính hợp Hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với cá dự án luật, pháp lệnh khi trình Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua. Thủ tướng có việc đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân và chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trái Hiến pháp, đình chỉ thi hành Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nếu nó trái Hiến pháp. Hội đồng nhân dân giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân cùng cấp và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp và có quyền bãi bỏ nếu trái Hiến pháp. Chủ tịch ủy ban nhân dân có quyền đình chỉ hoặc bãi bỏ văn bản trái pháp luật của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp mình và văn bản trái pháp luật của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp, đình chỉ việc thi hành nghị quyết trái pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp . Như vậy, cơ chế bảo hiến ở nước ta hiện nay chính là giám sát theo mô hình Quốc hội vì Quốc hội giữ vai trò giám sát tối cao việc tuân thủ Hiến pháp. Đó cũng là cơ chế bảo hiến với nhiều chủ thể cùng với những họat động, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể. Tuy nhiên, mô hình này cũng bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Quá nhiều chủ thể, nhiều tầng nấc làm hạn chế và làm lu mờ vai trò giám sát tối cao của Quốc hội đồng thời làm hạn chế, giảm đi tính tối cao, tính hiệu lực của các họat động đó. Hơn nữa, Quốc hội vừa là cơ quan lập pháp, vừa là cơ quan thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân thủ Hiến pháp. Theo đó, Quốc hội vừa làm luật, vừa giám sát, quyết định về việc một đạo luật do chính Quốc hội ban hành là trái Hiến pháp! Điều này là không khách quan. Bên cạnh đó, Quốc hội còn có trách nhiệm giải quyết việc tuân thủ hiến pháp trong họat động xét xử của Tòa án (quyền tư pháp). Như vậy “còn có
  11. sự lẫn lộn giữa quyền lập pháp và quyền tư pháp trong họat động của Quốc hội” . Trong khi đó các đại biểu Quốc hội là chuyên gia pháp luật không nhiều, đa số đại biểu họat động theo chế độ kiêm nhiệm, Quốc hội làm việc theo chế độ Hội nghị và quyết định theo đa số. Cơ cấu như vậy không đảm bảo đươc hiệu quả của cơ chế bảo hiến và thực tiễn cho thấy cơ chế này chưa hiệu quả. Trên thực tế, đã có các trường hợp văn bản Luật trái hiến pháp và các văn bản luật cũng trái nhau nhưng không có cơ quan nào đứng ra “phán quyết”, hay hủy bỏ văn bản pháp luật không hợp hiến, hợp pháp. Hiện nay, có 3 phương án khác nhau về cơ chế tài phán hiến pháp ở nước ta : - Phương án 1: Quốc hội thành lập ủy ban giám sát hiến pháp trực thuộc Quốc hội để giúp Quốc hội thực hiện việc bảo hiến đối với các văn bản pháp luật do Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, chính quyền địa phương ban hành. Thành viên của ủy ban giám sát hiến pháp phải là các đại biểu Quốc hội được bầu theo thủ tục thông thường. Ủy ban giám sát hiến pháp có trách nhiệm trình báo cáo kết quả giám sát của mình để Quốc hội xem xét và quyết định.Với mô hình ủy ban giám sát hiến pháp này, Quốc hội tiếp tục được khẳng định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Về thực chất ủy ban giám sát hiến pháp chỉ là một cơ quan thuộc Quốc hội, một cơ cấu mang tính giúp việc chứ không thể trở thành một cơ cấu có quyền quyết định về tính hợp hiến của các văn bản pháp luật được giám sát. Đối tượng giám sát của ủy ban giám sát hiến pháp cũng chỉ là các văn bản pháp luật từ pháp lệnh trở xuống. Như vậy các đạo luật vẫn nằm ngoài sự giám sát tính hợp hiến của chúng. Do vậy hoạt động thực hiện quyền lập pháp của Quốc hội về cơ bản vẫn không phải là đối tượng giám sát nhìn từ yêu cầu đòi hỏi của nguyên tắc về tính tối cao và bất khả xâm phạm của hiến pháp. - Phương án 2: Cơ cấu lại tổ chức và thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao, theo đó Tòa án nhân dân tối cao được trao quyền bảo vệ hiến pháp.Để thực hiện được thẩm quyền bảo vệ hiến pháp, Tòa án nhân dân tối cao cần được quy định lại về vị trí, chức năng trong bộ máy nhà nước, bỏ bớt một số chức năng hiện hành để tập trung vào chức năng bảo vệ hiến pháp; cơ cấu lại số lượng, chất lượng, thành phần và phương thức bổ nhiệm đặc biệt đối với các thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, để đảm bảo năng lực, trình độ, phẩm chất chính trị và đạo đức nghề nghiệp của mỗi một thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong việc thực hiện nhiệm vụ, trách nhiệm thiêng liêng là bảo vệ hiến pháp trước mọi sự xâm hại có thể xảy ra.Dù cơ quan bảo hiến sẽ được thiết lập theo mô hình nào chăng nữa, thì việc xuất hiện một cơ quan bảo hiến sẽ làm thay đổi nội dung và phương thức thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ở nước ta.
  12. - Phương án 3: Thành lập cơ quan bảo hiến độc lập không thuộc Quốc hội, thực hiện độc lập các hoạt động giám sát tính hợp hiến của các hoạt động nhà nước, cả hoạt động lập pháp của Quốc hội. Đây là một phương án khá phổ biến trong nhiều mô hình nhà nước pháp quyền trên thế giới. Tính độc lập của cơ quan bảo vệ hiến pháp (có thể là hội đồng bảo hiến, tòa án hiến pháp...) được đảm bảo bởi tính cân bằng trong quan hệ quyền lực giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Trong điều kiện cụ thể ở nước ta, mô hình cơ quan bảo hiến độc lập này còn phải gắn liền với vai trò giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước từ phía Đảng cầm quyền - Đảng Cộng sản VN. Nếu phương án này được xây dựng thì khả năng độc lập và sức mạnh tài phán của cơ quan bảo hiến này được đảm bảo trước hết bởi Đảng Cộng sản VN.Với mô hình này, người đứng đầu cơ quan bảo hiến (có thể là tòa án hiến pháp) sẽ do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội, các thành viên của các cơ quan này có thể do Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn theo đề nghị của Chủ tịch nước.Cơ chế bảo hiến với mô hình cơ quan bảo hiến độc lập tất yếu sẽ làm thay đổi các quan hệ tổ chức quyền lực nhà nước, trong đó vai trò của Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất sẽ phải được nhận thức lại. Sau đây là những ưu khuyết điểm của các phương án trên : Về phương án 1, ưu điểm của phương án này là không làm cồng kềnh thêm bộ máy nhà nước hiện hành, thành lập thêm Ủy ban giám sát Hiến pháp của Quốc hội cũng tương tự như vừa qua Quốc hội quyết định thành lập thêm Ủy ban Tư pháp và Ủy ban Tài chính - Ngân sách được tách ra từ Ủy ban pháp luật và Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội. Thành lập cơ quan này không cần sửa đổi Hiến pháp, chỉ sửa đổi Luật tổ chức Quốc hội, Quốc hội vẫn giữ được vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, vẫn thực hiện chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, trong đó có giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội. Tuy nhiên, nhược điểm của phương án này là các đạo luật, nghị quyết của Quốc hội ban hành vẫn chỉ do chính Quốc hội tự giám sát tính hợp hiến của chúng. Trong trường hợp Quốc hội không bãi bỏ luật, nghị quyết của Quốc hội trái với Hiến pháp, không có biện pháp pháp lý nào xử lý được. Cơ chế Quốc hội tự kiểm tra, giám sát chính mình là cần thiết, nhưng thực tế đã chỉ ra rằng sự kiểm tra, giám sát này không phải bao giờ cũng khách quan, cũng đúng. “ Vì vậy, có thể nói đây là phương án có tính chất nửa vời, nhưng là phương án có lẽ dễ được nhiều người chấp nhận, vì nó không có sự thay đổi gì nhiều so với hiện tại, phù hợp với cách nghĩ của một số người là "cần phải có lộ trình từng bước". Về phương án 2, TATC chỉ là một nhánh của quyền lực. TATC giám sát, phán xét tính hợp hiến các đạo luật của Quốc hội không phải dường như mâu thuẫn với quy định của Hiến pháp hiện hành: “Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao
  13. nhất”, “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao” (Điều 83 và Điều 84 của Hiến pháp) như một số người e ngại. Vì chúng ta có thể sửa đổi những quy định này của Hiến pháp hiện hành, mà theo tôi là để “phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp” như Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X đã đề ra, không thể trao cho TATC thẩm quyền này. Về phương án 3, Theo phương án này, Tòa án Hiến pháp sẽ là một thiết chế hoàn toàn mới trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước ta, được thành lập ra để chuyên thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp. Chánh án và các Thẩm phán Tòa án Hiến pháp với một nhiệm kỳ duy nhất và dài (10 hay 15 năm và không được tái bổ nhiệm) có thể sẽ do Chủ tịch nước bổ nhiệm sau khi được Quốc hội chuẩn y. Nhiệm kỳ Tòa án Hiến pháp khi phán quyết về các vi phạm Hiến pháp (hay không vi phạm) trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp là theo nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo Hiến pháp chứ không phải tuân theo pháp luật như Tòa án nhân dân các cấp khi xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế… Tính độc lập của cơ quan bảo vệ Hiến pháp đảm bảo tính cân bằng trong quan hệ quyền lực giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Thành lập Tòa án Hiến pháp để phán quyết các vi phạm hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp là phương án được áp dụng khá phổ biến ở nhiều nước trên thế giới những năm gần đây, như trên đã nêu. Tuy nhiên, cơ quan bảo hiến độc lập tất yếu sẽ làm thay đổi các quan hệ tổ chức quyền lực nhà nước, trong đó vai trò của Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất sẽ phải được nhận thức lại. Từ ba phương án nói trên, tôi ủng hộ phương án thành lập Tòa án Hiến pháp độc lập. Vì hoạt động của Tòa án Hiến pháp nếu được thành lập sẽ bảo đảm tính khách quan, độc lập, hoạt động chuyên trách, theo thủ tục tố tụng Hiến pháp.
nguon tai.lieu . vn