Xem mẫu
- Thị trường là chiến trường
Mấy tuần qua, chứng khoán thế giới đảo chiều liên tục và ngay cả người
bình thường nếu đọc các bản tin chứng khoán của các hãng thông tấn cũng
thấy được sự sôi động của thị trường, thậm chí mang mùi “khói lửa”. Xin
chú ý các cụm từ liên tưởng đến chiến tranh mà người viết sử dụng: “The
bruised US stock market slid further Friday as investors retrenched amid
fears of a housing slump and a potential credit crunch that led to a massive
rout a day earlier”. Danh từ trench là chiến hào, động từ là lui về chiến
hào. Retrench có nghĩa riêng là giảm bớt, cắt bớt [lượng mua bán] nhưng ở
đây vẫn tạo hình ảnh các nhà đầu tư lui về cố thủ, không tấn công nữa. Thêm
vào đó, từ bruised(thâm mình, tím mẩy) cho thấy trước đó thị trường đã bị
bầm dập. Các từ khác cũng mang theo chúng nhiều hình ảnh sống động: slid
further(sụt thêm), housing slump (thị trường địa ốc đóng băng), credit
crunch(thắt chặt tín dụng), massive rout (tháo chạy tán loạn).
Dường như hào hứng với cách dùng từ như thế, tác giả bản tin của hãng AFP
viết tiếp: “ Wall Street was still licking its wounds from Thursday's massacre
amid concerns over rising borrowing costs”. Massacre là vụ thảm sát, ở đây
dùng theo nghĩa hôm thứ Năm, thị trường đã gây đổ máu cho nhiều nhà đầu
tư; vì thế Wall Street mới ngồi “chăm sóc” thương tích theo kiểu của các bầy
thú.
Tổng kết thiệt hại, bản tin viết: “The latest losses closed a horrific week for
US and global markets as investors scurried to dump riskier assets”. Hai
động từ scurry (vội vàng, nhốn nháo) và dump (bán tống bán tháo) cũng đầy
- hình ảnh. Dĩ nhiên, trong một bản tin về chứng khoán, không thể không
dùng các từ chuyên ngành. Ví dụ assets (tài sản) phải hiểu là đủ loại chứng
khoán, như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, các quyền mua bán... Hay
trong câu trích nhận định của Bộ trưởng Tài chính Mỹ: “US Treasury
Secretary Henry Paulson said Friday the turmoil on financial markets is the
result of “risk being repriced” which can be painful for some but is
“healthy” in the long run”, có khái niệm “định giá lại rủi ro” - “risk being
repriced”. Trong câu này có thành ngữ “in the long run” có nghĩa về lâu về
dài.
Bản tin còn thích dùng các từ miêu tả tâm trạng nhà đầu tư rất gợi hình. Khi
nói đến mức sụt điểm của chỉ số Dow Jones Industrial Average, tác giả dùng
cụm từ “a stomach-churning 300-plus point decline” - mức sụt trên 300
điểm làm thót ruột hay hình ảnh các nhà đầu tư đang hoang mang, chân tay
bủn rủn được diễn tả bằng cụm từ weak-kneed investors. Ngay cả các câu
trích cũng dùng từ rất kêu, không biết người viết ghi nguyên văn hay “chế
biến” lại: “There is little doubt that this week's tumultuous events officially
sound the death knell for cheap money”, said Douglas Porter at BMO
Capital Markets. Cụm từ sound the dead knell là rung hồi chuông báo tử, ở
đây là cho loại tiền giá rẻ, tức là chi phí đồng vốn thấp.
Đấy là bản tin cách đây hai tuần. Đến cuối tuần trước, khi sự ảm đạm của thị
trường kéo dài, các bản tin dùng từ càng bi quan hơn. BusinessWeek viết:
“There was plenty of bad news to go around”. Bình thường go around là có
đủ cho mọi người - She believes there’s plenty of hope to go around. Cách
dùng từ theo lối mỉa mai là khá thông dụng trong tiếng Anh, làm cho câu
trên có nghĩa: Nhìn đâu cũng thấy tin xấu. Lý do chính cho đợt sụt giảm giá
- chứng khoán ở Mỹ, kéo theo sự sụt giảm ở các thị trường khác là do hậu quả
của sự đổ vỡ thị trường cho vay mua nhà trả góp ở Mỹ: “Volatility in the
major indexes escalated over the past week as investors haven't seen
reassuring signs that the subprime credit mess has run its course”. Trong
một bài trước, chúng ta đã làm quen với từ subprime credit (tín dụng chất
lượng xấu - chỉ các hãng liều lĩnh cho những người có tiền sử “chạy nợ”
mua nhà trả góp). Vụ này lình xình đã mấy tháng nay vẫn chưa xong nên
mới có chuyện has [not] run its course.
Tiên đoán tình hình thị trường trong thời gian tới, BusinessWeek cho
rằng: “Earnings season will be winding down, and even though profits have
come in ahead of expectations, the market is focused more on subprime
worries”. Thông thường vào thời điểm các công ty niêm yết công bố lợi
nhuận hàng quí, giá cổ phiếu sẽ tăng giảm mạnh - những thời điểm còn lại
giá sẽ bị tác động bởi các yếu tố khác. Cho nên câu trên mang ý giá cả thị
trường trong thời gian sắp tới không còn bị chi phối bởi báo cáo tài chính
nữa mà vẫn tập trung vào hậu quả của vụ cho vay theo kiểu “subprime”.
nguon tai.lieu . vn