Xem mẫu
- Thanh toán và thẻ tín dụng
Trong các giao dịch thương mại cổ điển, việc thanh toán được thực hiện bằng
tiền mặt (cash). Vì vận chuyển tiền mặt kèm theo nhiều rủi ro và bất tiện, người ta đã
nghĩ ra các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, điển hình là thanh toán bằng
séc(cheque), bằng thẻ (card) và bằng các phương thức viễn thông khác như telegraphic
transfer (TTR).
Séc là tờ giấy in theo lối đặc biệt của mỗi ngân hàng qua đó một người (drawer)
lệnh cho ngân hàng trả cho người ghi tên trên séc (payee) hoặc người cầm tờ séc
(bearer) một số tiền ghi trên tờ séc (mệnh giá). Séc có thể do người chủ 1 tài khoản ở
ngân hàng phát hành, trong trường hợp này ngân hàng chỉ thực hiện thanh toán nếu
trong tài khoản có đủ tiền để thực hiện giao dịch, nếu không séc sẽ bị gửi trả lại cho
payee, gọi là cheque bounce hay la cheque return unpaid, với remark là refer to
drawer. Séc có thể do ngân hàng phát hành, ngân hàng là drawer(khi đó goi là banker's
cheque), bên trả tiền là ngân hàng, trong trường hợp này việc thanh toán đảm bảo hơn
vì ngân hàng luôn có đủ tiền để thanh toán. Để có thể phát hành séc, bạn phải mở tài
khoản (current account) ở ngân hàng và mua sổ séc (blank cheque book). Ngoài ra
những người đi du lịch sợ bị trộm cướp thường mua séc du lịch card.gif(travelers'
cheque), do các tổ chức thanh toán quốc tế (vd: American Express) phát hành, drawer
là tổ chức đó, payee chính là người mua séc, mệnh giá thường là cố định (vd: 100,
200, 500, 1000 USD). Du khách này khi đến các nước sẽ tìm đến các ngân hàng, hoặc
chi nhánh các tổ chức thanh toán như Thomas Cook đổi séc du lịch thành tiền mặt để
tiêu ở địa phương.
- Thẻ là một miếng nhựa (plastic) có kích thước tiêu chuẩn và có một dải băng từ
ở mặt sau ghi thông tin về thẻ và chủ của thẻ, cũng có thể có chip điện tử để ghi các
thông tin phụ thêm khác. Thẻ thường do các ngân hàng phát hành cho khách hàng của
mình để phục vụ cho việc thanh toán. Một ngân hàng có số chi nhánh có hạn và việc
thanh toán thường thực hiện giữa các ngân hàng khác nhau, vì thế có các tổ chức thanh
toán quốc tế như VISA, MasterCard, American Express, Delta, vv.. hoặc các tổ chức
thanh toán liên ngân hàng trong nội địa một nước như NETS của Singapore. Các tổ
chức này có biểu tượng (logo) riêng để phân biệt dịch vụ của họ với nhau.
Vậy các tổ chức thanh toán này có chức năng gì? Họ đứng ra làm trung gian
chuyển tải thông tin và giúp việc thanh toán giữa các ngân hàng. Các ngân hàng là
thành viên của tổ chức thanh toán nào thì có thể nhận thanh toán bằng các loại thẻ có
- biểu tượng của tổ chức đó và thường đặt biển hiệu rõ ràng thể hiện những loại thẻ họ
có thể nhận thanh toán. Các ngân hàng này cũng có thể phát hành thẻ theo điều kiện
của tổ chức thanh toán mà họ là thành viên, thẻ đó được chấp nhận để thanh toán ở các
ngân hàng thành viên khác trong cùng tổ chức.
Thẻ được chia ra nhiều loại tùy theo tính năng tác dụng của thẻ. Thẻ tín dụng
(Credit Card) thực chất là bằng chứng của một mối quan hệ vay nợ giữa người cầm thẻ
(Cardholder) và ngân hàng. Ngân hàng đồng ý cho người cầm thẻ vay tiền đến một
mức tối đa nào đó (gọi là credit limit), thường là khoảng 2 lần thu nhập hàng tháng.
Thỏa thuận như vậy tức là người cầm thẻ có một hạn mức tín dụng (line of credit) sẵn
sàng để dùng khi cần. Tất cả các khoản thanh toán mà chủ thẻ thực hiện sẽ được ghi
nợ (debit) vào tài khoản tại ngân hàng. Đến một ngày nhất định mỗi tháng, ngân hàng
sẽ gửi thông báo đến cho chủ thẻ, thống kê tổng số tiền đã chi trong tháng trước đó.
Chủ thẻ có thể chọn thanh toán toàn bộ số tiền trước thời hạn ghi trong thông báo, khi
đó chủ thẻ không phải trả lãi (interest). Nếu không chủ thẻ có thể trả số tiền tối thiểu
(Minimum Payment), thường là khoảng 5% số tiền nợ, phần còn lại có thể trả từ từ, tất
nhiên là ngân hàng sẽ tính lãi, thường là từ 12% đến 24% một năm, tiền lãi tính từng
ngày.
Vậy việc thanh toán bằng thẻ tín dụng xảy ra thế nào?
Giả sử bạn có thẻ VISA. Một lần bạn đến một cửa hàng (Merchant) thấy có
logo của VISA thể hiện cửa hàng nhận thanh toán bằng thẻ VISA, bạn mua hàng và
yêu cầu thanh toán bằng thẻ của mình. Cửa hàng sẽ quẹt (swipe) thẻ của bạn vào một
chiếc máy đọc (gọi là EDCT - Electronic Data Capture Terminal). EDCT đọc các
thông tin về thẻ của bạn ghi trên băng từ và liên hệ với ngân hàng của cửa hàng
(Merchant's Bank) thông qua modem, đường điện thoại hoặc ISDN line, gửi kèm theo
- yêu cầu về số tiền cần thanh toán, ngân hàng này kiểm tra trong CSDL của VISA xem
thẻ của bạn có phải là thẻ hết hạn hoặc bị mất cắp hay không, số tiền bạn muốn trả có
vượt quá hạn mức không, nếu không, ngân hàng sẽ báo lại ngay trong vài giây về
EDCT là giao dịch được phê duyệt (approved), khi đó EDCT sẽ in ra một tờ giấy nhỏ
ghi rõ số tiền, mã số giao dịch để bạn ký vào đó (Sale Slip).
Bạn được giữ bản chính của sale slip, chủ cửa hàng sẽ giữ bản sao và gửi về
ngân hàng để nhận tiền sau này. Nhận được thông báo của người bán, ngân hàng của
anh ta sẽ ghi có (credit) ngay số tiền giao dịch vào tài khoản đồng thời gửi thông báo
qua mạng của VISA yêu cầu ngân hàng của bạn (Cardholder's Bank) thanh toán số
tiền. Ngân hàng của bạn sẽ thanh toán tiền cho ngân hàng của người bán và ghi nợ số
tiền vào tài khoản của bạn. Chi tiết về giao dịch sẽ được ghi trong thông báo kế tiếp
gửi đến cho bạn. Giả sử có người ăn cắp thẻ của bạn, giả mạo chữ ký của bạn thì trong
thời hạn nhất định (thường là 2 tuần) bạn có thể liên hệ với ngân hàng của bạn để đòi
lại tiền. VISA đảm bảo rằng nếu ngân hàng của bạn chứng minh được ccard01.gifhữ
ký không phải là chữ ký của bạn thì họ sẽ trả lại tiền cho bạn ngay. Ngân hàng của
người bán sẽ lấy lại tiền từ tài khoản của người bán còn việc tranh chấp là gánh nặng
của người bán, đi theo bạn đòi tiền nếu họ muốn. Trường hợp này gọi là Chargeback.
Trường hợp bạn thanh toán trực tuyến, người bán không có điều kiện quẹt thẻ
của bạn, cũng không nhìn thấy bạn. Nhưng bạn cung cấp tên, ngày hết hạn và số thẻ
(16 số in trên mặt trước thẻ) thì họ cũng kiểm tra được tương tự như làm qua EDCT.
Để bảo vệ thêm cho người bán, phía sau thẻ có một dãy số dài in trên cùng dải băng
nơi có chữ ký của bạn. Đa số người bán yêu cầu bạn cung cấp 3-4 số cuối trong dãy số
này, gọi là security code, trước khi nhận thanh toán. Tuy vậy bạn thấy rõ rằng giao
dịch này không hoàn toàn an toàn 100%, một người có bản photocopy cả 2 mặt thẻ của
- bạn là có thể thanh toán trực tuyến rồi. Đừng lo, rủi ro là ở phía người bán, nếu bạn
phát hiện giao dịch không đúng trên thông báo của mình, hãy đến ngay ngân hàng của
bạn yêu cầu chargeback. Nếu bạn chứng minh được giao dịch không phải do bạn thực
hiện (vd: bạn ở Hàn Quốc mà giao dịch lại do ai đó thực hiện từ máy tính ở Mỹ) hoặc
bạn chứng tỏ là chẳng nhận được hàng gì cả, thì ngân hàng của bạn có cơ sở để đòi lại
số tiền cho bạn ngay. Cuối cùng, chỉ tội nghiệp người bán hàng có thể đã gửi hàng đi
mà chẳng được trả tiền, nếu có muốn kiện bạn thì bạn ở quá xa xôi, chi phí pháp lý thì
cao, đành chấp nhận ngậm bồ hòn làm ngọt vậy. Không ít người đã sử dụng kẽ hở này
để thực hiện các giao dịch không trung thực trên internet.
Để chống lại hiện tượng này các tổ chức thanh toán quốc tế có vài giải pháp.
Các thẻ xảy ra rắc rối sẽ được ghi lại trên CSDL, lần sau sẽ khó chuyện chấp thuận
cho giao dịch hơn. Thẻ gây ra quá nhiều giao dịch thì cảnh sát có thể bí mật điều tra về
chủ thẻ, và người đó có thể bị bắt, bị tù vì tội lừa đảo. Về phía người bán hàng, họ tự
vệ bằng cách từ chối nhận thanh toán bằng các loại thẻ phát hành từ các quốc gia mà
ngân hàng của họ không với tới được, các quốc gia mà hệ thống bảo vệ pháp luật,
cưỡng chế thi hành kém, thậm chí thẻ do các ngân hàng nhỏ và lạ phát hành. Một số
Merchant lớn, họ có biện pháp an toàn gần như 100% là yêu cầu bạn điền thông tin
vào một tờ khai, in ra, ký tên và gửi lại cho họ qua fax. Như đã nói ở trên, một khi giao
dịch đã có chữ ký của bạn, thì khó lòng có thể Chargeback được, và nếu chữ ký giả
mạo, thì từ chữ ký đó và số fax, thời gian, người ta có thể lần tìm ra được kẻ lừa đảo.
Người thiệt thòi trong trường hợp này, có thể nói chính là Cardholder không được
chấp nhận thanh toán, như các bạn ở Hàn Quốc chẳng hạn, trong khi thẻ của các bạn
có biểu tượng của VISA, MasterCard hẳn hoi, tiền phí thì ngân hàng vẫn thu, mà công
dụng thì không có.
- Ngoài thẻ tín dụng còn có loại thẻ khác gọi là Debit Card. Debit card khác với
Credit Card ở điểm căn bản nhất là không có quan hệ vay nợ, bạn có tiền trong tài
khoản thì tiêu, hết thì thôi, không vay được. Ngân hàng phát hành thẻ Debit Card
không phải chịu rủi ro khi bạn không có tiền trả nợ. Thực chất họ giữ tiền hộ bạn, giúp
bạn sử dụng được tiện ích của các tổ chức thanh toán quốc tế. Debit Card có thể sử
dụng được để thanh toán quốc tế có các đặc điểm về hình thức giống hệt Credit Card,
phía trước có in nổi tên chủ thẻ, ngày cấp và ngày hết hạn và in nổi 16 số của thẻ, logo
của tổ chức thanh toán quốc tế, phía sau có chữ ký và mã an ninh (security code). Nếu
thẻ của bạn có đầy đủ các yếu tố này, từ phía người bán hàng, họ không thể biết được
thẻ của bạn là Credit hay Debit, và thông tin ấy cũng không có ý nghĩa gì với họ cả.
Debit hay Credit là nói về quan hệ của bạn với ngân hàng của bạn mà thôi.
Cũng cần nói thêm, ngoài loại thẻ Debit tiêu chuẩn như nói ở trên, nhiều ngân
hàng chưa thật sự tích hợp hệ thống với các mạng lưới thanh toán quốc tế, họ phát
hành các loại thẻ cũng gọi là debit card, nhưng thực chất không dùng được để thanh
toán trực tuyến. Nếu bạn thấy tên mình, ngày cấp, ngày hết hạn, số thẻ không in nổi,
số thẻ không phải 16 số, thì chắc chắn không thanh toán trực tuyến được. Các loại thẻ
"debit rởm" kiểu này thực chất ở nhiều nước được gọi là ATM card. Bởi vì thẻ dùng
được ở ATM. Bạn dùng thẻ rút tiền ở ATM ra tiêu thôi.
Hi vọng bai viết này có thể cung cấp cho các bạn các kiến thức sơ đẳng về cách
thanh toán thẻ tín dụng
nguon tai.lieu . vn