Xem mẫu
- Suy nghĩ về công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay
Nguyễn Kiến Giang
1. “Công bằng là đạo người ta ở đời”
Có lẽ không cần phải chứng minh dài dòng rằng công bằng từ ngàn xưa
đã là một trong những khát vọng lớn nhất, một trong những lý tưởng xã
hội cao nhất của mọi con người. (Trong tiểu luận “Công bằng xã hội và
kinh tế”, tôi đã trình bày khái quát về vấn đề này, xin được khỏi nhắc lại).
Ðối với người Việt Nam, công bằng bao giờ cũng được coi là một thứ đạo
lý sống của cộng đồng cũng như của mỗi cá nhân. “Công bằng là đạo
người ta ở đời...”, nhiều người đã thuộc lòng câu này từ thời nhỏ tuổi.
Thật ra, chưa có một tác giả nào nói một cách kỹ lưỡng và có hệ thống
về đạo lý này của người Việt cả. Nhưng qua những lẽ sống và những
hiện thực sống của người Việt xưa nay, có thể hiểu được những nội
dung cơ bản của nó. Và cũng như ở các nước khác, khái niệm “công
bằng” được hiểu, được xác định từ những cái ngược lại với nó, mà theo
ngôn ngữ khoa học, đó là sự xác định theo lối tiêu cực: công bằng được
hiểu từ những bất công.
Người Việt cảm nhận rất sâu sắc những nỗi bất công lớn qua cuộc đời
của mình cũng như qua những quá trình lịch sử của dân tộc mình: những
bất công mà cộng đồng mình gánh chịu đối với những thế lực bên ngoài
cộng đồng, những bất công trong nội bộ cộng đồng về địa vị, tài sản,
công tội, trí tuệ v.v...
Khi sự độc lập tự chủ của đất nước bị xâm phạm và tước đoạt thì nỗi bất
công lớn nhất chiếm lĩnh tim óc mọi người Việt là thân phận nô lệ của
mình đối với những thế lực xâm lược bên ngoài. Mà trong lịch sử Việt
Nam không ít lần cả dân tộc rơi vào cảnh nô lệ ấy. Vì thế, công bằng
trước hết được cảm nhận như sự thoát khỏi thân phận nô lệ cho nước
ngoài. Bằng cảm nhận ấy - và nó đã trở thành một tâm thức chủ đạo của
người Việt - không ít lần người Việt đứng lên chiến đấu một mất một còn
giành lại độc lập tự chủ của đất nước. Ðạo lý công bằng này được nói rõ
trong những “tuyên ngôn” lớn, chỉ tính một ngàn năm trở lại đây, nó thể
hiện nổi bật từ “Nam quốc sơn hà nam đế cư” đến “Không có gì quý hơn
độc lập tự do”...
Trong nội bộ cộng đồng dân tộc, sự cảm nhận về bất công cũng được
thể hiện rất rõ trong các quan hệ xã hội khác nhau: thống trị - bị trị; giàu
- nghèo; sang - hèn... Xin nói ngay, các quan hệ này không được coi là
bất công tự bản thân chúng. Ðạo lý Nho giáo, Phật giáo và cả Ðạo giáo
- nữa ăn rất sâu vào tâm thức người Việt, khiến người ta coi những quan
hệ thứ bậc (hierarchique) như một cái gì tự nhiên, do Trời định đoạt, do
phúc đức cha ông, do đức độ cá nhân tạo nên. Ở người Việt ngày trước,
không hề có khái niệm “giai cấp” (do đó, cũng không có khái niệm “đấu
tranh giai cấp”) mà khái niệm chiếm ưu thế trong các quan hệ xã hội là
“hòa”, là “nhường”, là “nhẫn”. Thỉnh thoảng có nổi lên những cuộc đấu
tranh xã hội quyết liệt nhưng không phải là để xóa bỏ hệ thứ bậc xã hội
cũ mà là xóa bỏ những hiện tượng loạn cương, như xã hội học gọi tên.
Có vua là tự nhiên, người ta chỉ chống lại hôn quân (bạo chúa) và ủng hộ
minh quân (minh chúa). Có quan cai trị cũng là tự nhiên, người ta chỉ
chống tham quan ô lại và ưa thích những liêm quan, những vị quan trung
nghĩa. Giàu nghèo cũng là tự nhiên, người ta chỉ bài bác những ác bá,
trọc phú và tán dương những người giàu ân đức. Trong quan hệ gia đình
cũng vậy, người ta không chống lại quyền uy gia trưởng mà chỉ bài bác
những người bố ác nghiệt với con cái, những anh em bất nghĩa với nhau.
Người ta tin vào “mệnh trời”, vào sự sáng suốt của trời (“Trời có mắt”),
vào “ác giả ác báo”, vào “luân hồi” như một sự điều chỉnh tự nhiên... Một
xã hội công bằng đối với người Việt xưa là vậy. Công bằng về đạo lý hơn
là về xã hội, về tính chính đáng (legitimité) hơn là về quyền lợi kinh tế.
Nó hướng tới một trạng thái “đại đồng” nhưng “tiểu dị”, tới một trật tự
được coi là tự nhiên, mà thật ra, đó là một trật tự noi theo những khuôn
mẫu (stéréotyes) lâu đời. Nói như thế, không phải là tuyệt đối không có
xu hướng bình quân trong ý thức xã hội. Những vết tích thị tộc nguyên
thủy, những tác động dòng họ thường là chỗ dựa khá bền vững cho xu
hướng bình quân, nhất là ở các làng xã. Nhưng xu hướng này chưa bao
giờ là xu hướng chủ đạo và cũng chưa bao giờ được “lý luận hóa”.
Người Việt đấu tranh cho đạo lý công bằng một cách bền bỉ và đôi khi
cũng khá quyết liệt, nhất là vào những thời kỳ suy tàn của các triều đại
(Lý, Trần, Lê, Nguyễn), bằng những cuộc nổi dậy mà một số nhà sử học
gọi chưa thật chính xác lắm là các cuộc “khởi nghĩa nông dân” hay “cách
mạng nông dân” (mô phỏng theo những cách gọi cuộc “chiến tranh nông
dân” ở châu Âu thời Trung đại và Cận đại). Trên thực tế, đó là những
cuộc nổi dậy nhằm thay đổi triều đại hơn là những cuộc khởi nghĩa mang
những lý tưởng công bằng xã hội của nông dân (như các cuộc nổi dậy
Hoàng Cân hay Thái Bình thiên quốc ở Trung Quốc ngày xưa, dù rằng
những cuộc nổi dậy này vẫn chưa thoát khỏi hệ tư tưởng quân chủ cổ
truyền). Song nhìn chung, các cuộc đấu tranh cho công bằng chủ yếu
vẫn diễn ra một cách “hòa bình”, bằng những hình thức bài bác, chế giễu
và kiện tụng.
Từ cuối thế kỷ thứ XIX - đầu thế kỷ thứ XX, các quá trình xã hội mới
được mở đầu ở Việt Nam. Một mặt, sự thống trị của thực dân Pháp được
thiết lập; đất nước mất độc lập tự chủ; dân Việt Nam trở thành nô lệ cho
nước ngoài; nỗi bất công lớn nhất đối với dân Việt Nam xuất hiện và đây
- không chỉ là bất công về chính trị. Những sự bóc lột của thực dân Pháp
(chiếm đất đai làm đồn điền, độc quyền mua bán, khai thác hầm mỏ,
v.v...) dẫn tới chỗ của cải đất nước phần lớn lọt vào tay những “ông chủ”
nước ngoài, gây ra cùng khổ, đói nghèo của số đông dân chúng. Mặt
khác, các quan hệ kinh tế và xã hội mới đã hình thành theo hướng phân
hóa giai cấp ngày càng rõ rệt, những bất công và giàu nghèo tăng lên.
Ngoài những bất công về đạo lý, về chính trị, còn chồng chất thêm
những bất công mới gắn liền với đời sống vật chất - kinh tế hàng ngày
của người dân. Ý thức về những bất công ấy ngày càng lan rộng và ăn
sâu trong xã hội.
Lúc đầu, ý thức này nảy sinh dưới ảnh hưởng của thuyết tiến hóa
(Darwin, Spencer...), lý giải những bất công đối với dân tộc theo lối
“mạnh được yếu thua”. Về sau, từ khi chủ nghĩa Mác-Lênin du nhập vào
Việt Nam thì những bất công trong các quan hệ giữa dân tộc và chủ
nghĩa thực dân và giữa các giai cấp xã hội khác nhau được giải thích
theo thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp. Khái niệm “công bằng xã hội”
không phải được hiểu từ những kiểu bất công “đối ngoại” và “nội bộ” ấy
mà chủ yếu là từ kiểu bất công thứ nhất, vì không một người Việt Nam
nào, dù thuộc giai cấp nào, lại không cảm thấy nỗi nhục mất nước để
nuôi khát vọng độc lập và tự do của dân tộc. Không những thế, các cuộc
đấu tranh chống ách áp bức nước ngoài được tiến hành chủ yếu bằng
sức mạnh bạo lực. Những bất công trong nội bộ cộng đồng tạm thời
được đặt xuống dưới và được giải quyết bằng những biện pháp ôn hoà,
trừ một số trường hợp cực đoan (như thời kỳ xô viết Nghệ An, với khẩu
hiệu “trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ!”).
Song không phải vì thế mà ý thức về công bằng xã hội bị lu mờ. Cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc nào, ngoài mục tiêu giành độc lập dân tộc
ra, cũng noi theo những lý tưởng xã hội nào đó. Ở Việt Nam, sự du nhập
và truyền bá chủ nghĩa cộng sản đã mang lại cho những bộ phận quần
chúng nhất định, nhất là trong các tầng lớp nghèo khổ, một ý thức công
bằng xã hội mạnh mẽ. Ðằng sau sự vẫy gọi của lòng yêu nước, ở chân
trời xa còn hiện lên hình ảnh mờ ảo nhưng tha thiết của một xã hội công
bằng, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn.
Cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và những năm đầu kháng chiến
chống Pháp, lòng yêu nước quật khởi và ý thức công bằng xã hội trở
thành những động lực tinh thần mạnh mẽ của người Việt Nam. Phải nói
rằng đó là những năm đẹp nhất, hào hùng nhất trong lịch sử dân tộc
hàng nghìn năm. Công bằng xã hội lúc đó thể hiện ở tinh thần cùng nhau
hy sinh cho đất nước, ở những sự điều hòa quyền lợi giữa các tầng lớp
xã hội khác nhau (vận động giảm tô, hiến điền, “thóc gạo khao quân”...).
Nhưng chẳng bao lâu, với sự du nhập chủ nghĩa Mao từ Trung Quốc đầu
- những năm 50, vấn đề công bằng xã hội được đặt ra theo tinh thần “đấu
tranh giai cấp”, mô phỏng những kinh nghiệm “đấu tố” của Trung Quốc
trong các phong trào cải cách ruộng đất, “tam phản”, “ngũ phản”, v.v...,
mà về thực chất, đó là quan niệm về công bằng xã hội theo chủ nghĩa
bình quân của nông dân nghèo khổ. Hậu quả của các cuộc vận động
“giảm tô” và “cải cách ruộng đất” thật ghê gớm. Chưa bao giờ xã hội Việt
Nam bị chia cắt thô bạo đến thế, chưa bao giờ công bằng xã hội vốn là
đạo lý của người Việt lại được thực hiện một cách vô đạo lý đến thế.
Việc sửa sai đã giúp giảm bớt những hậu quả tai hại ấy nhưng những
cuộc “đấu tố” dã man trong cải cách ruộng đất vẫn là một ký ức nặng nề
của toàn xã hội. Ngày nay nhìn lại, nhiều người cho rằng hoàn toàn có
thể tiến hành cải cách ruộng đất theo lối ôn hòa hơn nhiều và có hiệu
quả hơn nhiều (như kinh nghiệm Ðài Loan cho thấy).
Nhưng chưa học xong bài học đau xót của cải cách ruộng đất, thì cuối
những năm 50 - đầu những năm 60 (tức là ngay sau cải cách ruộng đất),
người ta lại giải quyết vấn đề công bằng xã hội theo lối “xóa bỏ các giai
cấp bóc lột” dưới hình thức “cải tạo xã hội chủ nghĩa” mà về thực chất,
đó là những sự tước đoạt. Không những các “giai cấp bóc lột” (như tư
sản, phú nông, tiểu chủ...) bị tước đoạt, mà cả những người lao động có
sở hữu tư nhân (nông dân, tiểu thương, thợ thủ công, v.v...) cũng bị tước
đoạt. Những cấu trúc kinh tế và xã hội “mới”, hoàn toàn giả tạo, được
thiết lập cho phù hợp với “chủ nghĩa xã hội”. Cấu trúc kinh tế chỉ gồm hai
thành phần: kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Tương ứng với cấu trúc
kinh tế đó là cấu trúc xã hội gồm hai giai cấp chính: giai cấp công nhân
và giai cấp nông dân tập thể. Cộng thêm vào đó là “tầng lớp trí thức xã
hội chủ nghĩa” mà trên thực tế, mang tính chất viên chức hơn là tính chất
trí thức. Cách giải quyết vấn đề công bằng xã hội theo lối đó đã dẫn tới
những hậu quả tai hại như thế nào cho sự tồn tại và phát triển bình
thường của xã hội Việt Nam, tưởng không cần phải chứng minh nữa.
Một quan niệm thô sơ về công bằng xã hội như vậy, sau khi giải phóng
miền Nam, còn được áp dụng trong cả nước, cũng với những cuộc “cải
tạo xã hội chủ nghĩa” như đã được làm ở miền Bắc trước đó. Toàn xã hội
lâm vào ngõ cụt, cho tới khi bắt đầu công cuộc “đổi mới” từ năm 1986.
Có thể nói một cách tổng quát rằng: việc giải quyết vấn đề công bằng xã
hội theo lối “xã hội chủ nghĩa” ấy đã thất bại.
2. Thực trạng bất công trong xã hội Việt Nam hiện nay
Sự thất bại về công bằng xã hội, như kinh nghiệm các nước xã hội chủ
nghĩa trước đây cho thấy, không những biểu hiện ở sự bất lực trong việc
giải quyết những bất công, mà còn biểu hiện ở sự xuất hiện những bất
công mới.
Lúc đầu, đúng là có những đảo lộn xã hội thật lớn lao trước sự vui mừng
- của một số người và sự tuyệt vọng của một số người khác. Và đây
không phải là điều gì mới. Ngay sau Cách mạng tháng Mười Nga, Pierre
Pascal, một trí thức Pháp hưởng ứng cuộc cách mạng này sớm nhất, đã
mô tả không khí xã hội Nga hồi đó: “Một cảnh tượng độc nhất làm say
lòng người: sự sụp đổ của một xã hội. Bây giờ chính là lúc thực hiện
thánh thi thứ tư trong những lời kinh chủ nhật và Magnificat (Văn chầu
Thánh Mẫu): Những kẻ cường quyền bị hạ bệ và kẻ nghèo khổ đứng lên
khỏi bùn đen. Những ông chủ nhà bị dồn vào một gian phòng, và ở mỗi
gian phòng khác có một gia đình đến ở. Không còn người giàu nữa: chỉ
có những người nghèo và những người nghèo hơn. Trí thức không được
coi là đặc quyền và không còn được tôn trọng nữa. Người thợ trước đây
được đề bạt lên làm giám đốc, chỉ huy các kỹ sư. Tiền lương từ trên
xuống dưới gần ngang nhau. Quyền sở hữu chỉ còn lại những bộ áo
quần người ta mặc hàng ngày. Quan tòa không còn phải áp dụng luật
pháp. Hôn nhân chỉ còn là một sự đăng ký giá thú và ly hôn có thể được
báo bằng tấm danh thiếp. Con cái được ăn học để giám sát bố mẹ.
Những tình cảm hào hiệp bị sự khốn khó xua đuổi: trong gia đình người
ta tính từng mẩu bánh hay vài gam đường. Vẻ dịu dàng bị coi là tội lỗi.
Sự hiếu thảo bị giết bởi cái chết hiện ra khắp nơi. Tình bạn chỉ còn như
là tình đồng chí”. (Pierre Pascal, Journal, t.2, trích theo R. Furet, Le passé
d’une illusion, Robert Laffont, Paris, 1995, tr. 131). Không phải cảnh
tượng này diễn ra ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đúng hệt như vậy,
nhưng những đảo lộn xã hội ở mức độ khác nhau đã xảy ra khắp nơi. Và
những thể chế về công bằng xã hội sau khi thiết lập chế độ xã hội chủ
nghĩa thì gần như giống nhau. Ðại đa số dân chúng biến thành những
người làm công cho Nhà nước hoặc trực tiếp (công nhân, viên chức),
hoặc gián tiếp (nông dân tập thể, xã viên hợp tác xã). Tất cả đều do một
bộ máy toàn năng điều khiển. Sự phân phối bình quân, hay gần như bình
quân, được thiết lập về tư liệu sinh hoạt. (“Một yêu anh có may-ô, Hai
yêu anh có cá khô ăn dần...” là một hiện thực cách đây chưa xa ở nước
ta). Và hẳn người ta còn nhớ cảnh gắp thăm mua phụ tùng xe đạp, mua
quần đen... Những cảnh đó đã chấm dứt với “đổi mới”, với “kinh tế thị
trường”, được nhiều người cảm nhận như một biến đổi xã hội quan
trọng. Có người nói rất đúng rằng, trong một nền kinh tế “thiếu hụt”
(économie de deficit) thì đó là sự phân phối nạn nghèo khổ cho mọi
người. Chế độ bao cấp quả tình cũng thật chu đáo: từ chiếc tã cho trẻ sơ
sinh đến tấm vải liệm cho người chết. Không ai chết đói cả, hoặc nếu có
thì, như người ta nói, chỉ là “có nơi có lúc” nhưng hầu hết không đủ no và
thiếu dinh dưỡng. Ðứng về một mặt nào đó, một xã hội “đại đồng” (hiểu
theo nghĩa “rất giống nhau”) đã hiện lên trước mắt chúng ta. Và bây giờ,
sau khi xóa bỏ chế độ bao cấp, không phải không có người còn luyến
tiếc!
Nhưng đó chỉ làm một mặt của tấm huân chương. Còn mặt khác của nó
(thật khó phân định đây là mặt phải hay mặt trái) là sự hình thành một xã
- hội thứ bậc (societé hiérarchique) với những đặc quyền lớn và nhỏ. Ở đô
thị, xã hội phân chia thành hai hạng người: người của Nhà nước được
hưởng các loại tem phiếu do cơ quan, xí nghiệp phát và người không
phải của Nhà nước chỉ có phiếu N (nhân dân) do các phường, các khu
phố phát. Và ngay trong “những người của Nhà nước”, sự chênh lệch về
mức cung cấp rất lớn, nếu tính từ phiếu E đến bìa A (chưa nói tới một số
ít người được cung cấp “theo nhu cầu”). Chưa nói tới rất nhiều bất công
khác làm người ta công phẫn: từ trường học cho con em đến những khả
năng tiến thân khác nhau, từ nhà nghỉ đến chỗ chữa bệnh, từ vé đi xem
các cuộc trình diễn đến vé nghỉ mát, v.v... Cũng chưa nói đến những cơ
hội đi nước ngoài học hành và công tác... Và cũng chưa nói tới những bất
công về mặt chính trị theo sự phân chia lý lịch: “trong sạch” và “có liên
quan” (với chế độ cũ, với gia đình bóc lột ngày xưa, với đủ mọi thứ đáng
nghi ngờ). Bất công hiện lên khắp nơi và khắp các lĩnh vực. Xin nhấn
mạnh: đó là những bất công được chính thức thừa nhận, không cần che
đậy, nhân danh “cách mạng”, “chủ nghĩa xã hội”, “thời kỳ quá độ”... Có
những bất công có thể hiểu được, nhưng có những bất công không thể
hiểu được vì những chế độ xã hội “lạc hậu” trước đây cũng không thấy
có.
Những bất công thời “quan liêu bao cấp” này đã làm triệt tiêu những động
lực lành mạnh của con người và ở một mức độ nào đó, làm “lưu manh
hóa” con người. Chúng phỉ báng nhân cách tốt đẹp của con người, đưa
con người vào trạng thái bệnh hoạn. Bởi vì để tồn tại và nhất là để tiến
thân, người ta buộc phải đi theo những tính toán nhỏ nhen: dìm dập
nhau, xu nịnh, giả dối, v.v... Ðạo đức suy đồi vì thế, guồng máy hỗn loạn
vì thế và cả nền kinh tế nữa, cũng mất hiệu năng vì thế.
Có người nói: nhắc lại cái “thời đã qua” ấy làm gì? Tôi nghĩ khác: phải
nhắc lại và nhắc lại nhiều hơn, không chỉ vì để tránh cho xã hội ngày mai
lại đi vào “vết xe đổ” ấy (ngày nay, không phải không có người muốn trở
lại), mà còn vì những hệ quả của những bất công này vẫn còn rất nặng
nề, gây khó khăn rất lớn cho việc tạo ra một không khí xã hội bình
thường và lành mạnh, do đó, cả cho sự phát triển xã hội hiện nay và sau
này.
Không có gì bí mật khi nói rằng một bộ phận khá lớn những người giàu
có hôm nay chính là những quan chức chiếm giữ những đặc quyền đặc
lợi hôm qua và bây giờ đang dựa vào những quyền lực sẵn có trong tay
để làm giàu. Ðúng là ta đang khuyến khích “dân giàu” (để cho “nước
mạnh”). Nhưng sự giàu có cần khuyến khích là sự giàu có do năng lực
(trí tuệ, kinh doanh) tạo ra, chứ không phải là bất cứ sự giàu có nào, nhất
là sự giàu có do tham nhũng, ăn cướp của dân, đầu cơ, buôn lậu... Một
hiện tượng khá phổ biến ở các nước xã hội chủ nghĩa trước khi chuyển
sang kinh tế thị trường là chủ nghĩa tư bản quan chức (capitalism
- nomenclatura): những quan chức có thế lực đang dùng tài sản đục khoét
bằng mọi kiểu (từ đặc quyền đặc lợi đến tham nhũng), cũng dùng quyền
lực hiện có để làm giàu vô cùng nhanh chóng kiểu mafia. Họ thông đồng
với những thế lực buôn bán phi pháp để trục lợi. Pháp luật không đụng
tới họ (một bộ phận trong bộ máy giám sát và xử lý về luật pháp cũng
dựa vào quyền lực của mình để làm giàu). Và không ít trường hợp, họ và
con cái họ đang trở thành những “bà chủ”, “ông chủ” của những đơn vị
kinh doanh mới, trở thành những “nhân vật mới” có thế lực trong nền kinh
tế thị trường hoặc công khai, hoặc ngấm ngầm. Chưa nói tới việc họ
dùng những đồng tiền ăn cắp hoặc ăn cướp để xây dựng nhà cửa nguy
nga, mua sắm những thiết bị sang trọng, sống phè phỡn như đế vương.
Chỉ cần nhìn hàng loạt ngôi nhà đồ sộ mọc lên gần đây ở các thành phố
và thị xã, cũng đủ nhận diện thứ “chủ nghĩa tư bản quan chức” này
không khó khăn gì. Rồi nhà cửa, đất đai (nhất là đất đai) họ được Nhà
nước giao cho sử dụng theo lối đặc quyền đặc lợi trước đây cũng đang
dần dần biến thành tài sản “hợp pháp” của họ.
Một số người đưa ra ý kiến đáng chú ý: “Thôi thế cũng được, miễn là
những tài sản họ nắm trong tay được họ đưa ra kinh doanh một cách
hợp pháp, coi như thứ “tiền chuộc” (rachat) đối với họ, như vậy cũng tốt
cho sự phát triển kinh tế của đất nước”. Tôi tán thành ý kiến này về
nguyên tắc nhưng trong thực tế, rất khó xảy ra điều đó. Bởi vì nói chung,
chủ nghĩa tư bản quan chức là thứ chủ nghĩa tư bản ăn bám tuyệt đối,
chỉ làm cho nền kinh tế đất nước hỗn loạn thêm và èo uột đi. Chừng nào
nó còn tồn tại, chừng đó không thể nói tới một sự phát triển kinh tế lành
mạnh được. Chủ nghĩa tư bản quan chức là tác nhân ung thư đối với xã
hội hiện nay. Nó là sự kết hợp những đặc quyền đặc lợi kiểu phong kiến
thời quan liêu bao cấp với những hoạt động làm giàu kiểu mafia thời kinh
tế thị trường. Quyền lực chính trị đẻ ra quyền lực kinh tế, trước đây đã
như vậy, ngày nay lại càng như vậy. Chủ nghĩa tư bản quan chức là sự
thách thức nghiêm trọng nhất đối với sự phát triển của đất nước; nó tạo
ra những bất công lớn nhất, nhức nhối nhất trong xã hội hiện nay.
Chính nó, chứ không phải là sự phân hóa giàu nghèo của kinh tế thị
trường, đang đặt đất nước trước những triển vọng nguy hiểm về kinh tế
về xã hội. Một số người lên tiếng báo động về tình trạng phân hóa giàu
nghèo hiện nay ở nước ta, coi đó như nguồn gốc của mọi bất công xã
hội hiện nay. Ý kiến này, theo tôi, có mặt đúng và có mặt chưa đúng.
Phân hóa giàu nghèo đang là một hiện tượng đập vào mắt mọi người.
Chấp nhận kinh tế thị trường có hiệu quả cao nhất thì không thể không
chấp nhận sự phân hóa giàu nghèo. Nếu coi đó là một sự bất công xã
hội thì đó là một sự bất công xã hội cần thiết. Kinh nghiệm phát triển kinh
tế của các nước trên thế giới cho thấy sự phân hóa giàu nghèo là điều tự
nhiên, kinh tế càng phát triển thì, một mặt, khoảng cách giàu nghèo dần
- dần thu hẹp lại và, mặt khác, ngay cả những tầng lớp nghèo cũng có
mức sống ngày càng tăng lên. Như vậy còn tốt hơn là sự chia đều nhau
một chiếc bánh ngày càng nhỏ lại vì kinh tế không có hiệu quả (vả lại,
khi chiếc bánh nhỏ dần đi thì không thể chia đều được, một số người có
thế lực sẽ chiếm lấy phần lớn hơn và một số người “hẩm hiu” sẽ chỉ
được hưởng “bụi bánh”). Công bằng xã hội, hiểu theo nghĩa mọi người
đều giàu có ngang nhau, là một ảo tưởng. Tất cả vấn đề là sự phân hóa
giàu nghèo phải mang tính chất lành mạnh, phần hưởng thụ tương xứng
với hiệu quả hoạt động kinh tế, không giới hạn hiệu quả đó cũng như
phần hưởng thụ tương xứng với nó. Ði đôi với những cạnh tranh chính
đáng, hợp pháp trong kinh tế thị trường, xã hội phải tính đến việc bảo
đảm một mức sống cần thiết tối thiểu cho những thành viên mất khả
năng hoạt động, gặp khó khăn lớn hoặc gặp rủi ro, ngoài ý muốn của họ.
Ðiều đặc biệt quan trọng là xã hội tạo ra những cơ may ngang nhau cho
mọi người khi bước vào những hoạt động độc lập bằng cách bảo đảm
cho mỗi người có trình độ học vấn tối thiểu ngang nhau, có khả năng thể
lực tối thiểu ngang nhau... Tất cả cùng đứng ngang nhau ở “vạch xuất
phát”, sau đó, ai đạt được hiệu quả cao hay thấp là tùy theo năng lực của
mỗi người.
Ở nước ta, sự phân hóa giàu nghèo hiện nay về cơ bản là kết quả của
những bất công lưu cữu ngày càng được khoét rộng ra. Số người giàu
lên bằng cách làm ăn chính đáng, hợp pháp không nhiều, trong khi
những kẻ giàu lên bằng chụp giật, tham nhũng, buôn lậu, chiếm đoạt...
lại quá nhiều. Ngày xưa, để giàu có, phải mất cả một đời, còn bây giờ thì
chỉ trong một thời gian rất ngắn, có khi chỉ mấy tháng, mấy ngày là có
thể trở thành người giàu có. Cả một lớp người giàu có hãnh tiến đang đè
nặng lên toàn xã hội, không chỉ về đời sống kinh tế mà cả về đời sống
văn hóa, đạo đức.
Bên cạnh đó, nhiều người “không may” gần như không hề nhận được
một sự giúp đỡ và bảo đảm nào của xã hội từ ăn ở, học hành, chữa
bệnh,... trở đi. Và trong những người “không may” này, chua xót nhất là
những người đã hi sinh cả một phần thân thể mình, hy sinh con cái mình,
nhà cửa, tài sản của mình trong các cuộc chiến đấu giải phóng toàn vẹn
đất nước.
Một bên là chủ nghĩa tư bản quan chức, các tầng lớp giàu có hãnh tiến,
bất hợp pháp và một bên là những tầng lớp, những người nghèo khổ làm
không đủ ăn và “không may” - đó là nét nổi bật nhất trong bức tranh về
công bằng xã hội ở nước ta hiện nay.
Ngoài ra, còn phải kể tới nhiều bất công khác:
giữa những vùng có nhiều thuận lợi kinh tế hơn và những vùng hẻo lánh,
- nghèo nàn, thiếu những điều kiện kinh tế cần thiết;
giữa những công dân “đặc quyền” và những công dân không có khả
năng thực hiện các quyền của mình;
giữa thành thị và nông thôn;
giữa những trẻ em có “cơ may” không ngang nhau...
Ở đây, tôi không có ý định làm một bản liệt kê đầy đủ và có hệ thống mà
chỉ muốn nêu lên một số hiện tượng bất công dễ nhìn thấy khi bàn tới
bức tranh chung về thực trạng bất công ở nước ta hiện nay.
3. Ði tới công bằng xã hội như thế nào?
Trước hết, xin nói ngay rằng không bao giờ có thể đạt tới công bằng xã
hội tuyệt đối, lý tưởng cả. Công bằng xã hội là một giá trị định hướng để
con người sống ngày càng tốt hơn trong các quan hệ giữa các thành viên
của cộng đồng, về mặt vật chất cũng như về mặt tinh thần. Vì thế,
không thể bàn về công bằng xã hội theo lối trừu tượng, ngoài không gian
và thời gian.
Ở đây, xin bàn về công bằng xã hội trong những điều kiện xã hội cụ thể
của nước ta hiện nay. Chúng ta đã từ bỏ quan niệm công bằng xã hội
vừa có tính chất bình quân, vừa chứa đựng đặc quyền đặc lợi của chế
độ quan liêu bao cấp trước đây. Chúng ta đang đương đầu với những bất
công cũ và mới, có hại cho sự phát triển của đất nước, trong một xã hội
đang chuyển biến mạnh mẽ.
Ðịnh hướng của sự phát triển đã được nêu ra: đi tới một xã hội dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Ðịnh hướng này đang được
sự hưởng ứng rộng rãi trong dân chúng. Nhưng khi đi sâu vào những
mục tiêu ấy, có nhiều điều cần phải làm rõ hơn. Chẳng hạn, về mục tiêu
xã hội công bằng là mục tiêu có liên quan trực tiếp với những điều chúng
ta đang bàn. Những câu hỏi trực tiếp đặt ra là thế nào là công bằng xã
hội trong hoàn cảnh hiện nay? Mối quan hệ của nó với sự phát triển xã
hội là như thế nào? Làm thế nào để đạt tới công bằng xã hội khi nó đã
được quan niệm một cách tương đối thống nhất? Xin lần lượt trình bày ý
kiến của tôi để trả lời những câu hỏi đó. Và vì ở đây, tôi không có tham
vọng đưa ra một chương trình cụ thể về công bằng xã hội nên chỉ dừng
lại ở những quan niệm và định hướng giải pháp chung.
3.1. Công bằng xã hội trong những điều kiện cụ thể hiện nay là thế
nào?
Tuy chưa định hình rõ ràng, xã hội Việt Nam hiện nay đang mở ra khả
năng ngày càng rộng lớn cho các cá nhân, các tầng lớp xã hội khác nhau
phát huy những năng lực và những nguồn lực vốn có và có thể có để vừa
mưu cầu lợi ích của mình, vừa tạo nên sức mạnh chung của cộng đồng
- (“dân giàu, nước mạnh”), đưa đất nước từng bước tiến tới trình độ hiện
đại (“văn minh”). Như vậy, công bằng xã hộ cần được hiểu theo những
yêu cầu ấy. Quan niệm công bằng xã hội theo chủ nghĩa bình quân đi
ngược lại những yêu cầu ấy đã đành, mà cả quan niệm “mạnh được yếu
thua”, “may nhờ rủi chịu”, để mặc cho mọi thứ bất công hoành hành, có
hại cho lợi ích của đại đa số dân chúng, cũng không thể chấp nhận
được. Có người nói: đã là kinh tế thị trường thì phải chấp nhận mọi thứ
bất công. Một nền kinh tế thị trường “dã man”, vô chính phủ, để mặc cho
các thế lực mafia chi phối thì đúng là thế thật. Và như kinh nghiệm một
số nước cho thấy, một nền kinh tế thị trường như vậy không giúp gì cho
sự phát triển của đất nước, ngay cả trong lĩnh vực kinh tế, sớm muộn gì
cũng sẽ dẫn đất nước tới hỗn loạn, nghèo khổ và ngày càng lạc hậu.
Nền kinh tế thị trường mà chúng ta muốn có là một nền kinh tế thị trường
“văn minh”, có luật pháp, có điều tiết theo những lợi ích chung của sự
phát triển đất nước và bảo đảm cho mọi người sống ngày càng ổn định
và khá lên thì không thể chấp nhận tất cả mọi bất công đang có và có
thể có.
Một quan niệm thích hợp về công bằng xã hội hiện nay đòi hỏi phải phân
biệt giữa những loại bất công khác nhau:
loại bất công tự nhiên: tính từ “tự nhiên” ở đây bao hàm cả những khả
năng, những năng lực khác nhau về mặt tự nhiên (chẳng hạn, về nguồn
gốc sinh học) cũng như những khác biệt về trình độ phát triển do lịch sử
lâu đời để lại như thành thị và nông thôn, miền núi..., và trước mắt, cố
gắng đến mức tối đa để bù đắp những thiệt thòi do những bất công này
gây ra, không để trở thành những căng thẳng và xung đột có hại cho sự
phát triển nói chung.
loại bất công “hợp lý”: tính từ “hợp lý” ở đây cũng được hiểu rất tương
đối, theo nghĩa không thể tránh khỏi nếu muốn đưa đất nước lên con
đường “dân giàu, nước mạnh”. Ai cũng biết rằng, nói “dân giàu” nhưng
không phải ai cũng giàu ngang nhau và cũng không thể loại bỏ tình trạng
nghèo khổ tương đối. Sự phân hóa giàu nghèo là không thể tránh khỏi
nhưng không thể để xẩy ra tình trạng “làm giàu vô tội vạ” trên lưng đại đa
số dân chúng, cũng như không thể để xảy ra tình trạng người nghèo “vô
phương làm ăn”, không có một sự giúp đỡ có hiệu quả nào của cộng
đồng. Nói cách khác, chúng ta chấp nhận sự làm giàu chính đáng, hợp
pháp, có lợi cho sự phát triển của đất nước khi đó là sự làm giàu dựa vào
những năng lực và cả những nguồn lực chính đáng. Sự làm giàu này
không vấp phải một hạn chế nào. Tài kinh doanh, óc tổ chức, sáng kiến
và cả chỗ dựa chính đáng về nguồn lực nữa, đều có đất phát huy đến
mức cao nhất (qua cạnh tranh lành mạnh).
loại bất công “phi lý” - và cũng là phi pháp: đó là tất cả những bất công
nào hoàn toàn đi ngược lại lợi ích của sự phát triển xã hội, làm cho đời
sống xã hội biến dạng và đạo đức xã hội suy đồi như đã phân tích về
- những cách làm giàu phi pháp (tham nhũng, buôn lậu, chiếm đoạt, đầu
cơ) của “chủ nghĩa tư bản quan chức’’ trên đây. Ðó cũng là những bất
công hoàn toàn giả tạo dựa trên những sự phân biệt về các quyền công
dân, về nguồn gốc xã hội v.v... Những bất công này phải bị xóa bỏ càng
sớm càng tốt, càng triệt để càng tốt.
Xóa bỏ những bất công “phi lý”, điều tiết những bất công “tự nhiên” và
“hợp lý” dù sao cũng chỉ là mặt tiêu cực của việc thực hiện công bằng xã
hội. Mặt quan trọng không kém - nếu không nói là quan trọng hơn - là
mặt tích cực: xã hội phải dần dần tạo ra được những điều kiện thuận lợi
cho những cơ may ngang nhau giữa các thành viên của xã hội. Vì chỉ
riêng việc xóa bỏ và điều tiết những bất công không đủ để thực hiện
công bằng xã hội: xử lý và tước đoạt những tài sản do tham nhũng và
những hoạt động phi pháp cũng chưa có nghĩa là tạo ra những cơ may
ngang nhau về học tập, sức khỏe và tiến thân. Ðể làm công việc này,
cần có những chính sách và những đầu tư xã hội lớn. Khi nhà trường phổ
thông và các bệnh viện phổ thông còn đòi người ta phải trả tiền thì không
thể nói tới những cơ may ngang nhau. Ngày nay, ở nhiều nước đang phát
triển, cũng đã thực hiện việc Nhà nước chi ngân sách cho giáo dục phổ
thông và bảo hiểm y tế ở mức tối thiểu ngang nhau. Còn ở nước ta lại
đang thực hiện một cách phổ biến chế độ nộp học phí và viện phí ở
những cấp cơ sở, làm sao có thể hiểu được? Trong những lĩnh vực phúc
lợi xã hội cần thiết tối thiểu này, cần thực hiện ngay lập tức công bằng
xã hội, không thể viện lý do “cơ chế thị trường” như người ta vẫn làm
hiện nay. Ðặc biệt, tất cả những người có công với công cuộc giải phóng
dân tộc, cũng phải được hưởng những trợ cấp thường xuyên đủ duy trì
mức sống tối thiểu mà không phải là những chiếu cố “tình nghĩa” hay
“nhân đạo” theo lối ban phát. Thực hiện những cơ may ngang nhau
không dễ nhưng phải làm từng bước để đi tới chỗ đó.
Có ý kiến nói rằng: khi chưa thực hiện được công bằng xã hội theo chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, thì phải thực hiện công bằng xã hội
theo “pháp quyền tư sản” như Marx từng nói (xem Phê phán cương lĩnh
Gôta). Thật ra, đó là cách đặt vấn đề trên cơ sở hệ tư tưởng (vô sản/tư
sản) hơn là trên cơ sở sự phát triển kinh tế xã hội một cách bình thường
theo hướng đi tới một xã hội công bằng và văn minh. Lúc này, có lẽ
không nên để mất quá nhiều thì giờ và công sức để tranh cãi nhau về hệ
tư tưởng. Chỉ nên giới hạn vấn đề này trong khuôn khổ những mục tiêu
đã đưa ra: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
3.2. Công bằng xã hội và sự phát triển đất nước
Như vậy, tiêu chí hàng đầu của công bằng xã hội ở nước ta hiện nay là
có lợi hay có hại cho sự phát triển đất nước. Ðây là bài toán cực khó, mà
loài người, ít ra trong cả một thế kỷ vừa qua, đang cố đi tìm những lời
giải tối ưu nhưng chưa tìm thấy. Kinh nghiệm cho thấy rõ: đặt công bằng
- xã hội lên trên hết (theo lối “chủ nghĩa xã hội hiện thực” hay “Nhà nước
phúc lợi”) sẽ dẫn tới chỗ triệt tiêu những yếu tố phát triển kinh tế nhưng
đặt hiệu quả kinh tế lên hàng đầu lại dẫn tới chỗ khoét sâu những ngăn
cách xã hội và nhất là dồn một số người không nhỏ vào tình trạng nghèo
khổ và bế tắc, cuối cùng cũng tạo ra những trở ngại lớn cho hiệu quả và
phát triển kinh tế, những nguy cơ bùng nổ xã hội. Phải đi tìm một công
thức mới, trong đó, không để hai mặt công bằng xã hội và phát triển kinh
tế đối kháng nhau, loại bỏ nhau (còn sự đối lập của hai mặt đó là không
thể tránh), mà cần phải làm sao để cho hai mặt đó trở thành tiền đề của
nhau, hơn nữa, để cho mặt này bao hàm cả mặt kia ở một mức độ hợp lý
nhất. Ðiều đó càng cần thiết vì ngày nay, mọi lý luận về sự phát triển
đều bác bỏ cách hiểu phát triển đồng nghĩa với tăng trưởng kinh tế và
đều nhấn mạnh nội dung cơ bản và mục tiêu cao nhất của sự phát triển
là phát triển con người với tư cách cá nhân trong một cộng đồng đầy
nhân tính. Sự kết hợp, sự giao nhau của hai mặt đó phải được tính toán
theo những điều kiện cụ thể của mỗi nước, chủ yếu là theo trình độ phát
triển kinh tế và theo những truyền thống, theo tâm lý dân tộc. Ở đây,
không có và cũng không thể có đơn thuốc pha chế sẵn nào cả.
Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, sự kết hợp hai mặt đó vấp phải
những khó khăn không dễ vượt qua được. Một mặt, chủ nghĩa bao cấp
vừa bình quân vừa đặc quyền còn để lại rất nhiều di sản nặng nề không
những trong đời sống vật chất mà cả trong ý thức con người. Mặt khác,
quá trình chuyển sang kinh tế thị trường chứa đầy những yếu tố độc
quyền, lũng đoạn và vô chính phủ, tự phát làm cho kinh tế thị trường
mang trạng thái dã man, tuy có kích thích những hoạt động kinh tế nào
đó nhưng đưa con người vào những “mê cung” đầy bất trắc và nhất là,
tạo nên một sức ép tâm lý và xã hội của lối sống hãnh tiến, chạy theo
đồng tiền một cách trơ tráo (cynique). Không thể phủ nhận rằng kinh tế
thị trường đã giúp cho đời sống kinh tế đất nước rời khỏi “điểm chết” và
phục hồi lại sức sống kinh tế của xã hội. Ðó là một trong những thành
quả lớn nhất của “đổi mới” và, xét về triển vọng rất có lợi cho sự phát
triển kinh tế của đất nước. Nhưng cũng không thể phủ nhận rằng kinh tế
thị trường dã man này đã tạo ra những bất công xã hội mới, ghê gớm và,
xét về triển vọng, sẽ ngăn cản sự phát triển xã hội nói chung. Tội lỗi
không phải thuộc về bản thân kinh tế thị trường mà ở những tác nhân
phá hoại của nó, biến nó thành dã man. Chúng ta cần có kinh tế thị
trường như một môi trường thuận lợi nhất cho các hoạt động kinh tế
nhưng đó phải là một nền kinh tế thị trường văn minh, với những hoạt
động sinh lợi thật sự và được luật pháp kiểm soát chặt chẽ có lợi cho
quốc kế dân sinh.
Hơn nữa, bản thân kinh tế thị trường không tự động bảo đảm cho công
bằng xã hội. Phải có những điều tiết của xã hội (thông qua nhà nước) để
phân phối lại những kết quả hoạt động kinh tế theo hướng đảm bảo
- công bằng xã hội ở mức cần thiết tối thiểu. Ðó là cái mà các nhà kinh tế
học gọi là “kinh tế thị trường xã hội” đã và đang được thực hiện ở một số
nước phát triển. Tiếc thay, ở nước ta, chưa có những sự điều tiết như
vậy. Những bất công phi lý, phi pháp đang biến thành những trở lực lớn
đối với sự phát triển kinh tế. Khi nói rằng phát triển kinh tế là tiêu chí
hàng đầu của công bằng xã hội, thì đồng thời, ngay trong hoàn cảnh
nước ta hiện nay, cũng phải nói rằng công bằng xã hội (ở mức độ như đã
quan niệm trên đây) là một điều kiện của sự phát triển kinh tế, không có
cái này mà không có cái kia. Mọi thái độ coi nhẹ công bằng xã hội rốt
cuộc dẫn tới chỗ làm cho phát triển kinh tế bị hạn chế và què quặt.
Không thể đồng ý với quan niệm cho rằng nếu coi trọng công bằng xã
hội thì khó lòng tập trung các nguồn lực (bên trong và bên ngoài) để phát
triển kinh tế. Ðứng về ngắn hạn mà xét, có thể là như vậy, nhưng nếu
xét theo triển vọng lâu dài thì quan niệm này rất có hại. Xin lấy một ví dụ:
đầu tư. Tất nhiên, trước mắt cần tập trung đại bộ phận các nguồn lực
cho tăng trưởng kinh tế (nhất là vào các cấu trúc hạ tầng và vào những
lĩnh vực kinh doanh có khả năng sinh lợi nhanh), để từ đó có thêm những
nguồn lực ném vào giáo dục, y tế, trợ cấp xã hội... Nhưng nếu ngày nay,
không đầu tư thích đáng cho những lĩnh vực này thì liệu trong mười -
mười lăm năm nữa, chúng ta có thể bảo đảm nguồn nhân lực có chất
lượng cho sự phát triển kinh tế không? Hay lúc đó, nhân lực dồi dào của
nước ta sẽ trở thành một gánh nặng vì thiếu học vấn, thiếu trình độ nghề
nghiệp và không đủ sức khỏe? Theo tư duy kinh tế mới, đầu tư cho các
lĩnh vực xã hội cũng là trực tiếp đầu tư cho kinh tế, nhất là xét theo triển
vọng dài hạn. Ðầu tư cho cấu trúc hạ tầng, chẳng hạn, không chỉ bó hẹp
vào những cấu trúc hạ tầng kinh tế mà phải mở rộng ra những cấu trúc
hạ tầng xã hội (con người). Do đó, phải tính những đầu tư này như
những đầu tư kinh tế. Ở đây, chúng ta lại có thêm một luận cứ nữa để
đặt công bằng xã hội và phát triển kinh tế trong sự thống nhất của
chúng.
3.3. Gợi ý một số giải pháp về công bằng xã hội
Công bằng xã hội đụng tới tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội: kinh tế,
chính trị, pháp luật, văn hóa, xã hội. Không thể giải quyết vấn đề công
bằng xã hội bằng cách khuôn nó vào cái thường được gọi là “chính sách
xã hội” một cách tách bạch. Công bằng xã hội phải được giải quyết - và
chỉ có thể được giải quyết - gắn liền với xã hội công dân, nhà nước pháp
quyền, chế độ dân chủ, kinh tế và văn hóa ngày càng phát triển.
Nó phải được giải quyết trên cơ sở xác lập các quyền công dân và quyền
con người một cách thật sự bình đẳng. Bất cứ sự phân biệt nào về các
quyền công dân và quyền con người đều ngăn cản thực hiện công bằng
xã hội. Nói cách khác, vạch xuất phát của mỗi người về quyền công dân
- và quyền con người phải ngang nhau. Xóa bỏ những đặc quyền về kinh
tế, chính trị và tư tưởng là nội dung đầu tiên của việc thực hiện công
bằng xã hội.
Mỗi công dân, trước hết, phải được bảo đảm sự tự chủ về đời sống kinh
tế của mình, từ sở hữu đến nghề nghiệp. Vấn đề sở hữu (tài sản, trí tuệ,
lao động) phải được xác định rõ ràng để cho mỗi người có sở hữu riêng
và dùng sở hữu ấy theo khả năng và sở thích của mình, được luật pháp
bảo vệ vững chắc.
Mọi công dân đều ngang nhau trước luật pháp - điều này không những
phải được khẳng định mà còn phải trở thành hiện thực. Một nhà nước
pháp quyền chịu trách nhiệm trước công dân (kể cả các cá nhân công
dân) là một điều kiện không thể thiếu được để có công bằng xã hội.
Công bằng xã hội đòi hỏi một chế độ dân chủ thực sự. Không thể có một
nhóm người hay một tổ chức nào - dưới bất cứ danh nghĩa gì - tự coi
mình đứng lên trên xã hội và luật pháp để áp đặt ý chí của mình cho
những người khác và có thái độ đối địch với những người có những tín
niệm khác. Sự lựa chọn tự do của các công dân phải được tôn trọng đầy
đủ .
Trong các hoạt động kinh tế, phải loại bỏ những thế lực và những
phương thức độc quyền, lũng đoạn, bảo đảm cho mọi người bình đẳng
về quyền kinh doanh và nghĩa vụ đối với Nhà nước, đối với xã hội. Nhất
thiết tách Nhà nước và các cơ quan hành chính ra khỏi kinh doanh. Thực
hiện chế độ khai báo tài sản minh bạch của mọi nhân viên Nhà nước từ
trên xuống dưới. Bảo đảm cho viên chức Nhà nước có mức lương xứng
đáng với trách nhiệm của mình, và cấm nhân viên Nhà nước hoạt động
kinh doanh dưới mọi hình thức, trực tiếp hoặc gián tiếp. Coi những tội
phạm kinh tế (phá hoại, tham nhũng, đầu cơ, buôn lậu, chiếm đoạt...)
nghiêm trọng như tội phạm quốc gia và khi xử lý về pháp luật, phải tịch
thu toàn bộ tài sản do những tội phạm ấy mà có.
Trong thời hạn ngắn nhất, thực hiện chế độ giáo dục phổ thông và chữa
bệnh phổ thông không mất tiền. Ngân sách phải được đầu tư đầy đủ cho
các cấu trúc hạ tầng xã hội, bằng cách giảm bớt những đầu tư kinh tế
tốn kém quá mức và kém sinh lợi cũng như những đầu tư phô trương
(nhất là xây các trụ sở, các nhà khách...). Trường học và bệnh viện phải
được coi là những ưu tiên về xây dựng cơ bản.
Ban hành những chế độ trợ cấp xã hội ổn định và thường xuyên cho
những người có công và những nạn nhân chiến tranh hay những nạn
nhân khác mất khả năng kiếm sống. Trợ cấp và giúp đỡ cho những
người tàn phế.
Thực hiện chế độ đảm phụ ở những thành thị và những vùng có lợi thế
kinh tế để tài trợ cho những vùng bị chiến tranh tàn phá và những vùng
bất lợi về phát triển kinh tế (vùng núi, vùng hẻo lánh...)
Sử dụng có hiệu quả những viện trợ nhân đạo và phát triển của các
nước và các tổ chức quốc tế, nghiêm khắc loại bỏ tình trạng “ăn chặn”
và sử dụng sai mục đích.
- Giúp đỡ các tổ chức từ thiện hoạt động có hiệu quả và khuyến khích mọi
hoạt động từ thiện, đồng thời chống lại việc lợi dụng hoạt động “từ thiện”
để mưu cầu lợi riêng.
Vấn đề công bằng xã hội cũng được đặt ra trong các quan hệ đối ngoại,
đặc biệt về mặt kinh tế. Những ưu đãi cần thiết đối với các nhà kinh
doanh nước ngoài phải đi đôi với sự kiểm tra chặt chẽ những hoạt động
của họ, tránh những tổn thất đáng tiếc cho đất nước (nhất là về môi
trường tự nhiên và môi trường xã hội). Vấn đề phân phối lại thu nhập của
người làm ăn với nước ngoài để tránh sự hình thành một tầng lớp “mại
bản” mới, cũng như để tránh những bất công
nguon tai.lieu . vn