Xem mẫu

  1. Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2020. ISBN: 978-604-82-3869-8 SỰ LAI HÓA CỦA GRAPHENE VÀ HKUST-1 (MOF): ĐIỆN CỰC CHO SIÊU TỤ ĐIỆN HIỆU NĂNG CAO Ngô Văn Trúc Khoa Cơ khí, Trường Đại học Thủy lợi, email: ngotruc@tlu.edu.vn 1. GIỚI THIỆU CHUNG kết hợp vật liệu graphene với vật liệu khung hữu cơ kim loại (MOF) để tạo ra một cấu trúc Sự phát triển của các thiết bị điện tử dự trữ không gian ba chiều, rỗng cao như trong hình 1 năng lượng hiệu quả hơn, nhẹ và linh hoạt, và gồm hai quá trình cơ bản như sau. Quá trình 1: có thể mặc được đã và đang trở thành một nhu Nghiền cơ học của MOF (HKUST-1) dạng cầu ngày càng tăng đối với cuộc sống của con kim cương trong graphene oxit (GO- graphene người. Các siêu tụ điện (supercapacitors) với oxit là dạng dẫn xuất của graphene) - để tạo ra mật độ công suất cao, tốc độ nạp - xả nhanh, các thanh HKUST-1, đan xen giữa các tấm độ ổn định cao với tuổi thọ bền đang ngày GO và tạo thành cấu trúc ba chiều. Quá trình càng thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà 2: Để có thể tạo thành cấu trúc rỗng, năng khoa học như một dạng thiết bị hữu hiệu thay lượng laser CO2 được sử dụng để chuyển hóa thế cho các pin truyền thống. Siêu tụ điện dự GO thành graphene với độ dẫn điện tăng lên trữ năng lượng theo cơ chế hai lớp điện hóa và cấu trúc rỗng cao - tạm gọi là L-rGO, đồng (EDLs), có ưu điểm là mật độ công suất cao và thời các thanh HKUST-1 đã bị cácbon hóa thời gian sạc-xả điện tích trội hơn hẳn pin, loại (tạm gọi là C-MOF). thiết bị hoạt động dựa trên các phản ứng quá trình ôxy hóa-khử (Faradaic) và được thiết kế để cung cung mật độ năng lượng cao hơn [1]. Graphene (màng mỏng cấu trúc lục giác của các bon với kiểu lai hóa sp2) đang rất được quan cho các ứng dụng làm điện cực trong các siêu tụ điện, do những tính chất ưu Hình 1. Sơ đồ các bước thí nghiệm việt của nó bao gồm độ dẫn điện, nhiệt cao, độ bền cơ học cao, và khả năng linh động rất cao 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU của các điện tử [2]. Tuy nhiên, sự bám dính khó tách rời của các tấm graphene do ảnh + Chuẩn bị hóa chất và vật liệu nguồn hưởng của tương tác π-π giữa các tấm này + Chuẩn bị oxit graphene (GO). + Chuẩn bị mẫu GO@HKUST-1 và xử lý khiến chúng tạo thành cấu trúc giống với than bằng CO2 laser, làm điện cực siêu tụ điện (graphite), dẫn đến diện tích bề mặt, giảm độ + Các phương pháp đo đạc, kiểm tra tính rỗng của lớp graphene và do đó làm giảm các chất của vật liệu. kênh dẫn ion bên trong cấu trúc của chúng, và khả năng thẩm thấu, sự khuếch tán của các ion 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU chất chất điện ly, và cuối cùng làm chậm các phản ứng oxy hóa - khử của chất điện ly với 3.1. Cấu trúc và đặc trưng màng vật liệu hoạt hóa của điện cực [3]. L-rGO-C-MOF tổ hợp ứng dụng làm điện cực của siêu tụ điện Trong bài báo này, tác giả đưa ra một phương pháp đơn giản và có thể giải quyết Hình 2a, b (ảnh từ trên xuống và ảnh mặt cắt được sự bám dính của các lớp graphene, đó là ngang) của bề mặt màng tổ hợp L-rGO-C-MOF 292
  2. Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2020. ISBN: 978-604-82-3869-8 sau khi được xử lý bằng laser có sự thay đổi đáng kể. Các thanh HKUST-1 bị các bon hóa và hình thái chuyển từ dạng thanh thành các hạt cỡ nanomet tạo thành cấu trúc mạng 3 chiều cùng với L-rGO (hình 2b). Hình 3. Phổ nhiễu xạ tia Rơn ghen, (b) phổ Raman, (c) phân tích nhiệt L-rGO và L-rGO- C-MOF và (d) EDAX của L-rGO-C-MOF với ảnh bên trong là EDAX cuae GO@HKUST-1 Hình 4 tóm tắt các đặc trưng điện hóa của L-rGO và L-rGO-C-MOF dưới dạng điện Hình 2. Ảnh SEM của màng tổ hợp L-rGO- dung, đồ thị sạc-xả và tuổi thọ của điện cực. C-MOF sau khi xử lý bằng laser (a,b) ảnh từ Đường cong CV (cyclic voltammetry) (hình trên xuống, và (c,d) ảnh mặt cắt ngang của 4a) của L-rGO cho thấy có dạng hình chữ bề mặt nhật, chỉ ra rằng hành vi điện dung hai lớp lý Hình 4a cho thấy phổ Rơnghen của L-rGO tưởng (EDLs). Trong khi đó L-rGO-C-MOF (đường a) với đỉnh nhiễu xạ mạnh ở tại với Cu2O trong cấu trúc giữa các tấm 25,72º, khảng định sự phục hồi của cấu trúc graphene, dự trữ điện tích qua các phản ứng lai hóa C-sp2 của graphene từ C-sp3 của GO, ôxy hóa khử Faradaic nhanh và thuận nghịch và sự loại bỏ các nhóm chức chứa ôxy của [4]. Điện cực L-rGO-C-MOF biểu hiện hành GO dưới tác dụng của năng lượng laser. Một vi điện dung có thể tái lặp và ổn định với tốc đỉnh nhiễu xạ tại 26,08º trong phổ của độ quét từ 5 tới 100 mV/s như thấy trong L-rGO-C-MOF cũng khảng định sự phục hồi (hình 4b). Đường cong sạc-xả (CD) của của cấu trúc graphene từ GO. Ngoài ra, đỉnh L-rGO và L-rGO-C-MOF tại 1 A/g được nhiễu xạ tại 43,39º và 74,11º khảng định sự minh họa trên (hình 4c), tương ứng. Màng tổ có mặt cuả Cu2O. hợp L-rGO-C-MOF biểu thị một sự chệnh đi Kết quả phổ Raman (hình 3b) và phân tích từ hành vi tuyến tính và thời gian sạc-xả lâu nhiệt (hình 3c), khảng định GO và HKUST-1 hơn so với L-rGO. Lý do có thể là do đóng sau khi xử lý bằng laser đã được khử và các góp của bản chất của “sự lưu điện hóa” của bon hóa, và khử thành graphene tương ứng. Cu2O và cấu trúc rỗng của L-rGO-C-MOF. Phổ EDAX của L-rGO-C-MOF (hình 4d) cho Như thấy từ (hình 4e), điện dung riêng của cả thấy sự có mặt của ba nguyên tố chính L-rGO và L-rGO-C-MOF đều giảm đáng kể C (80,75%), O (5,92%) và Cu (13,33%), cho khi tốc độ quét tăng. Điều này xảy ra là do thấy hiệu quả của việc khử các nhóm chức sự khuếch tán của ion chất điện ly bị cản trở chứa ôxy của GO và sự phục hồi của cấu tới bề mặt của điện cực từ các lớp kém điện trúc graphene. hóa ổn định ở tốc độ quét cao. 293
  3. Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2020. ISBN: 978-604-82-3869-8 4. KẾT LUẬN Trong nghiên cứu này, tác giả đã trình bày một phương pháp mới, là sự kết hợp của MOF (HKUST-1) và graphene để tạo ra cấu trúc ba chiều ứng dụng cho siêu tụ điện. Màng tổ hợp cấu trúc 3 chiều được xử lý bằng CO2 laser đồng thời khử GO thành graphene và các bon hóa thanh HKUST-1, dẫn tới diện tích bề mặt riêng, độ dẫn điện, và độ rỗng cao. Kết quả đạt được từ phép đo điện hóa, với điện dung đạt giá trị 390F/g tại tốc độ quét 5mV/s, độ ổn định sạc-xả tại mật độ dòng diện 10 A/g sau 5000 chu kỳ với điện dung còn lại rất cao, 97,8%. Hơn nữa, mật độ năng lượng đạt được 22,3 Wh/kg tại công suất riêng cao, 8037,5 W/kg. 5. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] C. Hu et al. (2015), Tailored graphene Hình 4. (a) So sánh đường CV của L-rGO và systems for unconventional applications in L-rGO-C-MOF, (b) CV của L-rGO-C-MOF energy conversion and storage devices, Energy Eviron. Sci. 8, pp31-54. ở các tốc độ quét khác nhau, (c) hành vi sạc- [2] Y. Zhu et al. (2010), Graphene and xả của L-rGO-C-MOF và L-rGO tại 1 A/g, graphene oxide: synthesis, properties, and (d) hành vi sạc-xả của L-rGO-C-MOF ở các applications, Adv. Mater. 22, pp 3906-3924. mật độ dòng điện khác nhau, (e) so sánh điện [3] T. Kim et al. (2013), Activated graphene- dung riêng của L-rGO-C-MOF và L-rGO ở based carbons as supercapacitor electrodes các tốc độ quét khác nhau, và (f) thử độ ổn with macro- and mesopores, ACS Nano 7, định chu kỳ của điện dung của L-rGO-C- pp 6899-6905. MOF sau 5000 chu kỳ sạc-xả [4] D, P. et al. (2010), Fabrication of copper oxide multilayer nanosheets for Cuối cùng, sự ổn định chu kỳ của điện cực supercapacitors applications, J. Alloy. L-rGO-C-MOF được thử nghiệm sạc-xả ở Comp 492, pp 26-30. mật độ dòng điện 10 A/g (hình 4f) cho thấy độ bền sạc-xả cao với khả năng duy trì 97,8% sau 5000 chu kỳ. 294
nguon tai.lieu . vn