Xem mẫu

  1. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018 SỰ GẮN KẾT KHÁCH HÀNG VỚI CỘNG ĐỒNG THƯƠNG HIỆU TRÊN MẠNG XÃ HỘI VÀ LÒNG TRUNG THÀNH THƯƠNG HIỆU: NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỚI CÁC THƯƠNG HIỆU MỸ PHẨM CUSTOMER ENGAGEMENT WITH BRAND COMMUNITY ON SOCIAL NETWORK AND THEIR LOYALTY: AN EMPIRICAL STUDY WITH COSMETIC BRANDS ThS. Trương Đình Quốc Bảo Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Email: baotdq@due.udn.vn Tóm tắt Mục tiêu của nghiên cứu này là kiểm định thang đo sự gắn kết khách hàng với cộng đồng thương hiệu trên mạng xã hội tại Việt Nam và xem xét ảnh hưởng của sự gắn kết này đến lòng trung thành thương hiệu. Nghiên cứu này đề xuất một mô hình nhân tố bậc hai để đo lường sự gắn kết khách hàng theo quan điểm tâm lý học tổ chức. Nghiên cứu ứng dụng thang đo sự gắn kết được đề xuất bởi So và cộng sự (2014) bao gồm 5 thành phần sự nhiệt tình, tình cảm gắn bó, sự chú tâm, sự say mê và sự tương tác. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát 262 đáp viên tại thành phố Đà Nẵng bằng một thang đo CE gồm 21 chỉ báo. Nghiên cứu đã kiểm định thành công thang đo sự gắn kết khách hàng với cộng đồng thương hiệu trên mạng xã hội với 16 chỉ báo và 5 thành phần như đề xuất. Kết quả cũng cho thấy, sự gắn kết khách hàng với cộng đồng thương hiệu là nhân tố dự đoán ý định trung thành thương hiệu của khách hàng. Với việc kiểm định thành công thang đo sự gắn kết thương hiệu với cộng đồng thương hiệu trên mạng xã hội tại Việt Nam, nghiên cứu này đã cung cấp một bằng chứng thực nghiệm và góp phần làm phong phú thêm lĩnh vực nghiên cứu về sự gắn kết thương hiệu. Các nhà quản trị thương hiệu có thể nhận thấy vai trò của cộng đồng thương hiệu trên mạng xã hội và hành vi gắn kết của khách hàng và lòng trung thành thương hiệu. Qua đó, các nhà quản trị thương hiệu có những chiến lược xây dựng, quản trị và phát triển thương hiệu của mình. Từ khóa: sự gắn kết khách hàng, sự gắn kết thương hiệu, cộng đồng thương hiệu, lòng trung thành thương hiệu. Abstract This study aims to validate the scale of customer engagement (CE) with brand community on social network in Vietnam and investigate the impact of customer engagement to brand loyalty. This study offers a novel second-order factor model of customer engagement that derives from organizational psychology. We adapt the customer engagement scale of So et al. (2014) including five dimensions: identification, enthusiasm, attention, absorption, and interaction. We collect questionnaires from 262 respondents in Danang city with a 26-items scale of CE. The results support the five-dimensional factor structure of customer engagement with brand community on social network. CE also a factor that predicts intention to loyalty with brand. This study provides an empirical evidence and contributes to the theory of customer engagement. Brand managers can recognize the important role of brand community, especially online brand community to customer engagement and their brand loyalty. Thus, brand managers may have a suitable strategy for building, managing and developing their brand. Key words: customer engagement, brand engagement, brand community, brand loyalty. 1. Giới thiệu Cùng với sự phát triển bùng nổ của Internet và mạng xã hội, chiến lược bán hàng, xây dựng thương hiệu trên mạng xã hội là một phần không thể thiếu trong chiến lược kinh doanh hiện đại. Hiện nay, người tiêu dùng có thể tham gia vào các cộng đồng trực tuyến (ví dụ: có thể là một group trên Facebook, hay một tài khoản Instagram của thương hiệu) để tương tác với thương hiệu và người sử dụng khác. Sự gắn kết của khách hàng đối với các cộng đồng thương hiệu trên mạng xã hội được quan tâm những năm gần đây vì những lợi ích không thể chối bỏ của nó đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Cụ thể đó là sự tăng trưởng doanh số, khuyến khích khách hàng tương tác, phản hồi với 231
  2. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018 thương hiệu. Vì vậy hiểu được hành vi gắn kết này của khách hàng là rất cần thiết và quan trọng trong chiến lược phát triển thương hiệu và xây dựng mối quan hệ với khách hàng. Tuy nhiên, các nghiên cứu đi trước trên thế giới chưa có sự thống nhất về cách thức đo lường sự gắn kết thương hiệu và chỉ được đo lường ở các đối tượng nghiên cứu riêng lẻ. Các nghiên cứu trước phần lớn cũng được làm tại các nước phương Tây, chưa có nhiều nghiên cứu tại khu vực Châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng. Đáp lại những lời kêu gọi cần có thêm những nghiên cứu thực nghiệm tại các thị trường mới nổi và đa dạng các chủng loại thương hiệu, nghiên cứu này thực hiện nghiên cứu sự gắn kết khách hàng với đối tượng là các thương hiệu mỹ phẩm và cộng đồng thương hiệu trực tuyến. Để làm rõ được khái niệm cũng như nghiên cứu ảnh hưởng của sự gắn kết đến lòng trung thành với thương hiệu, nghiên cứu này đặt ra hai mục tiêu: Thứ nhất, hiệu lực thang đo sự gắn kết khách hàng với thương hiệu trên mạng xã hội cho thị trường Việt Nam. Thứ hai, nghiên cứu ảnh hưởng của sự gắn kết khách hàng với cộng đồng thương hiệu trên mạng xã hội đối với lòng trung thành thương hiệu. 2. Cơ sơ lý thuyết 2.1. Sự gắn kết khách hàng Sự gắn kết khách hàng được cho là sự tương tác được lặp đi lặp lại giữa khách hàng và một doanh nghiệp (tổ chức) mà qua đó gia tăng sự đầu tư (về tâm lý, cảm xúc, hành vi) của khách hàng có với thương hiệu và tổ chức đó (Hollebeek, Glynn, & Brodie, 2014). Lý thuyết về sự trao đổi xã hội có thể được viện dẫn để giải thích cho sự đầu tư này, một cá nhân đánh giá những chi phí và lợi ích (hữu hình và vô hình) mà họ nhận được khi xây dựng mối quan hệ với thương hiệu/tổ chức. Theo lẽ thường tình, khách hàng tối thiểu phải cảm thấy sự cân bằng trong giá trị mà họ nhận được với chi phí mà họ bỏ ra trong một khoảng thời gian của mối quan hệ này (Brodie, Hollebeek, Jurić, & Ilić, 2011; Hollebeek, 2011a). Ví dụ, khách hàng có thể đầu tư sự chú ý và sự nhiệt tình của mình vào việc tương tác với thương hiệu qua đó họ có thể nhận được những lợi ích như có được thông tin mới về thương hiệu, cách thức sử dụng sản phẩm, những chương trình khuyến mãi hay những giá trị tăng thêm từ thương hiệu. Phần lớn các nghiên cứu đi trước đều ủng hộ định nghĩa sự gắn kết khách hàng là một khái niệm nhiều chiều (hay đa tiêu thức), trong đó nhiều tác giả cho rằng nó bao gồm các thành phần lý trí, cảm xúc và hành vi (Bowden, 2009; Brodie & cộng sự, 2011; Brodie, Ilic, Juric, & Hollebeek, 2013; Dessart, Veloutsou, & Morgan-Thomas, 2015; So, King, & Sparks, 2014). Định nghĩa về hành vi gắn kết khách hàng, Van Doorn & cộng sự (2010) cho rằng hành vi gắn kết khách hàng bao gồm sự hoạt hóa, hình thức, phạm vi, mức độ ảnh hưởng của sự gắn kết và mục tiêu của khách hàng. Định nghĩa này nhằm phân biệt sự gắn kết với sự lôi cuốn (involvement), một khái niệm hay được đem ra so sánh với khái niệm sự gắn kết. Ủng hộ cho việc phân biệt hai khái niệm này, So & cộng sự (2014) cho rằng sự lôi cuốn dường như chỉ giới hạn ở thành phần nhận thức (hay lý trí), trong khi sự gắn kết là sự kết hợp giữa 3 thành phần nhận thức (lý trí), cảm xúc và hành vi (Hollebeek, 2011b; Vivek, Beatty, & Morgan, 2012). Những phân tích gần đây về sự gắn kết khách hàng cho thấy, khái niệm sự gắn kết là một khái niệm đa tiêu thức gồm ba thành phần: nhận thức (sự tập trung và sở thích của khách hàng với một thương hiệu/tổ chức cụ thể), cảm xúc (cảm giác tự hào hoặc được truyền cảm hứng từ một thương hiệu/tổ chức cụ thể), và hành vi (nỗ lực và năng lượng cần thiết của khách hàng nhằm tương tác với một thương hiệu/tổ chức cụ thể) (Kuvykaitė & Tarutė, 2015). Tuy nhiên, sự gắn kết khách hàng không phải luôn luôn tồn tại từ việc kết hợp 3 thành phần này độc lập mà có thể trùng lắp với nhau dựa trên nền tảng là 3 thành phần trên. Cụ thể, So & cộng sự (2014) cũng cho rằng khái niệm sự gắn kết khách hàng là một khái niệm đa tiêu thức, tuy nhiên bao gồm 5 thành phần là sự nhiệt tình, tình cảm gắn bó, sự chú tâm, sự say mê và sự tương tác. Mặc dù có sự khác nhau về số lượng, tuy nhiên bản chất của khái niệm không thay đổi. So & cộng sự (2014) khi phát triển khái niệm sự gắn kết khách hàng cũng xuất phát từ định nghĩa của Hollebeek (2011b) gồm 3 thành phần và phát triển cụ thể hơn. Trong đó, 232
  3. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018 sự tương tác đại diện cho thành phần hành vi của sự gắn kết khách hàng, tình cảm gắn bó đại diện cho thành phần cảm xúc của sự gắn kết khách hàng, trong khi đó sự say mê, sự nhiệt tình và sự chú tâm đại diện cho thành phần nhận thức của sự gắn kết khách hàng. Phân tích kĩ lưỡng, định nghĩa của 3 thành tố sự say mê, sự nhiệt tình và sự chú tâm của So & cộng sự (2014) đề xuất, có thể nhận thấy chúng có đặc điểm của cả thành phần nhận thức và cảm xúc. 2.2. Thành phần của khái niệm sự gắn kết khách hàng Nghiên cứu này dựa trên đề xuất của So & cộng sự (2014) về khái niệm sự gắn kết khách hàng gồm 5 thành phần sự nhiệt tình, tình cảm gắn bó, sự chú tâm, sự say mê và sự tương tác. Định nghĩa của từng thành phần như sau: Sự nhiệt tình đại diện cho “sự phấn khích hoặc nhiệt tình” của một cá nhân và sự quan tâm của họ đến một thương hiệu (Vivek & cộng sự, 2012). Bên cạnh đó, So & cộng sự (2014, p. 308) cũng cho rằng sự nhiệt tình “đại diện cho mức độ hứng thú và ưa thích mạnh mẽ của một cá nhân liên quan đến sự tập trung vào sự gắn kết… và phân biệt nó với các khái niệm tương tự như sự hài lòng”. Sự chú tâm liên quan đến mức độ tập trung của khách hàng, có ý thức và vô thức, về thương hiệu. Sự chú ý liên tục với một thương hiệu có thể dẫn tới sự gắn kết cao hơn (Scholer & Higgins, 2009). Sự say mê được phân tích sâu hơn từ khái niệm của sự chú tâm, liên quan đến mức độ tập trung cao độ của khách hàng với thương hiệu (Schaufeli, Salanova, González-Romá, & Bakker, 2002). Sự say mê là một đặc điểm tích cực, ở đó khách hàng sẽ hoàn toàn say mê với thương hiệu, phần lớn họ sẽ không nhận thức được bao nhiêu thời gian họ đã bỏ ra để dành cho thương hiệu (Patterson, Campbell, Busch-Vishniac, & Guillaume, 2011). Sự tương tác là thành tố nền tảng của sự gắn kết, bao gồm sự chia sẻ và trao đổi những ý tưởng, suy nghĩ, cảm nhận về các kinh nghiệm họ có với thương hiệu hoặc với các khách hàng khác của thương hiệu (Vivek, Beatty, Dalela, & Morgan, 2014). Sự tương tác được ủng hộ bởi lý thuyết về sự gắn kết khách hàng, trong đó sự tương tác có thể trực tiếp hoặc gián tiếp, online hoặc offline. Tình cảm gắn bó liên quan đến việc khách hàng có sự đồng cảm với một số thương hiệu hơn là các thương hiệu khác, đặc biệt với các thương hiệu có hình ảnh phù hợp với hình ảnh cá nhân của họ (Bagozzi & Dholakia, 2006). 2.3. Sự gắn kết khách hàng với cộng đồng thương hiệu Sự gắn kết khách hàng với thương hiệu có thể tồn tại thông qua việc tham gia và gắn kết với các cộng đồng thương hiệu. Các cộng đồng này có thể là các cộng đồng trực tiếp (offline – tiếp xúc trực tiếp), ví dụ các cộng đồng của các fan hâm mộ một người nổi tiếng hay một thương hiệu nào đó (cộng đồng fan bóng đá của câu lạc bộ Manchester United hay cộng đồng người sử dụng xe máy Harley Davidson là một ví dụ điển hình), hoặc là cộng đồng gián tiếp (online) thông qua các cộng đồng trên Internet, trong đó mạng xã hội chiếm một vị trí quan trọng trong việc hình thành các cộng đồng này. Khác với các hình thức cộng đồng trực tuyến trong giai đoạn đầu (diễn đàn-forum) phần lớn do thương hiệu lập ra và quản trị, cộng đồng thương hiệu trên mạng xã hội có thể được lập ra và quản trị bởi doanh nghiệp hoặc bởi chính khách hàng. Nó cho phép sự tương tác hai chiều giữa khách hàng và thương hiệu (Hennig-Thurau & cộng sự, 2010; Vivek & cộng sự, 2012). Mạng xã hội được định nghĩa là “nhóm các ứng dụng dựa vào nền tảng Internet mà được xây dựng dựa trên nền tảng ý tưởng và công nghệ Web 2.0 và cho phép người dùng tạo ra và trao đổi những nội dung của họ” (Kaplan & Haenlein, 2010, p. 61). Vì vậy, Facbook, Youtube, Instagram, Zalo, … được xem như là một nền tảng mạng xã hội. Những nền tảng này cho phép khách hàng (người dùng) bình luận, đánh giá, chia sẻ, và tạo ra các nội dung trực tuyến có thể được tìm thấy thông qua các công cụ tìm kiếm trực tuyến. Như 233
  4. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018 vậy, có thể nhận thấy tầm quan trọng của mạng xã hội đối với việc hình thành các cộng đồng thương hiệu trên mạng xã hội và sự gắn kết của khách hàng với cộng đồng trực tuyến này là rất quan trọng. 3. Mô hình và giả thuyết nghiên cứu Điểm mới của nghiên cứu đó là thang đo sự gắn kết khách hàng được đo lường như là một nhân tố bậc hai được cấu thành từ 5 nhân tố thành phần đã đề xuất ở trên. Theo đề xuất của So & cộng sự (2014), chúng tôi xử lý nhân tố sự gắn kết của khách hàng với cộng đồng thương hiệu theo một mô hình nhân tố bậc hai, cấu tạo từ 5 thành phần nhân tố bậc 1. Ý định trung thành với thương hiệu là một biến số kết quả được nhiều tác giả trước đề xuất khi nghiên cứu về sự gắn kết khách hàng với thương hiệu. Ý định trung thành với thương hiệu được định nghĩa bởi Zeithaml, Berry, & Parasuraman (1996) đó là dự định của khách hàng sẽ nói những điều tích cực về thương hiệu, giới thiệu thương hiệu với người khác và bạn bè, và mua thương hiệu trong thời gian sắp tới. Nghiên cứu trước cho thấy sự cam kết của khách hàng với cộng đồng thương hiệu dẫn đến các hành vi xã hội có cường độ cao bên trong cộng đồng (Kang, Lee, Lee, & Choi, 2007), và nâng cao khả năng họ giới thiệu cộng đồng cho người khác. Muniz & O'guinn (2001) cho rằng, những trao đổi xã hội bên trong các cộng đồng thương hiệu cung cấp các cơ hội cho các thành viên bộc lộ sự khác biệt của bản thân với những người khác và thể hiện kiến thức và sự sùng bái của họ với thương hiệu. Hành vi này được hiểu sẽ làm gia tăng lòng trung thành của thành viên với thương hiệu của cộng đồng đó, đây là tư tưởng chủ yếu của việc hình thành các cộng đồng thương hiệu (Laroche, Habibi, & Richard, 2013). Chính vì vậy, với các lập luận trên nghiên cứu này đề xuất hai giả thuyết, H1: Sự gắn kết khách hàng với cộng đồng thương hiệu là một khái niệm đa tiêu thức bao gồm 5 thành phần sự nhiệt tình, tình cảm gắn bó, sự chú tâm, sự say mê và sự tương tác. H2: Sự gắn kết khách hàng với cộng đồng thương hiệu ảnh hưởng tích cực đến ý định trung thành với thương hiệu. Giả thuyết được mô hình hóa như Hình 1. Sự nhiệt tình Tình cảm gắn bó H2 Sự gắn kết khách Ý định trung Sự chú tâm hàng với cộng thành với đồng thương hiệu thương hiệu Sự say mê Sự tương tác Hình 1: Mô hình nghiên cứu đề xuất 4. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu này là một nghiên cứu định lượng được thực hiện trên mẫu 262 đáp viên tại thành phố Đà Nẵng. Đối tượng khảo sát là những người tham gia vào các Group, like các Fan-Page hay theo dõi các kênh mạng xã hội của các thương hiệu mỹ phẩm trên các nền tảng mạng xã hội như Facebook, Instagram, Youtube. Độ tuổi của đáp viên từ 18 đến 28 tuổi, với 70.3 % từ 20 đến 22 tuổi, 96,6% là nữ giới, và 90% đang học đại học. Thời gian tham gia mạng xã hội mỗi ngày từ 1 đến 3 giờ là 37.4%; từ 3 đến 5 giờ là 38.9%. 61,5% người tham gia khảo sát đang đi làm việc bán thời gian. 234
  5. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018 Thang đo sự gắn kết thương hiệu trong nghiên cứu này được ứng dụng từ thang đo của So và cộng sự (2014) bao gồm 5 nhân tố lớn: Tình cảm gắn bó (identification) được đo lường bởi 5 chỉ báo của Ashforth và Mael (1989); Sự nhiệt tình (enthusiasm) được đo lường bởi 4 chỉ báo của (Vivek & cộng sự, 2014), sự chú tâm (attention) được đo lường bởi 4 chỉ báo của (Vivek & cộng sự, 2014), sự say mê (absorption) được đo lường bởi 4 chỉ báo của Sachaufei et al. (2002) và sự tương tác (interaction) được đo lường bởi 4 chỉ báo của Wiertz và de Ruyter (2007). Thang đo được điều chỉnh để phù hợp với đối tượng nghiên cứu là cộng đồng thương hiệu trực tuyến (xem bảng 1). Lòng trung thành được đo lường bởi thang đo gồm 4 chỉ báo của Zeithaml và ctg (1996). Bảng 1: Thang đo sử dụng trong nghiên cứu Kí hiệu Phát biểu chỉ báo Nguồn Tình cảm gắn bó ID1 Khi có ai đó chỉ trích cộng đồng, tôi cảm thấy như là một sự công kích cá Ashforth và Mael nhân (1989) trích từ (So & ID2 Tôi quan tâm đến những gì người khách nghĩ về cộng đồng cộng sự, 2014) ID3 Tôi cảm thấy sự thành công và phát triển của cộng đồng cũng chính là sự thành công, phát triển của bản thân tôi ID4 Khi người khác khen ngợi cộng đồng, tôi cảm thấy đó như là một thành tựu cá nhân ID5 Khi nói về cộng đồng, tôi thường dùng “chúng tôi nói” hơn là “họ nói” Sự nhiệt tình EN1 Tôi dùng nhiều thời gian rảnh của mình để nghĩ về cộng đồng này Vivek & cộng sự EN2 Tôi coi trọng cộng đồng này (2014) EN3 Tôi đam mê với cộng đồng này EN4 Một ngày của tôi sẽ không như bình thường nếu tôi không một lần ghé vào cộng đồng Sự chú tâm AT1 Tôi thích nghe những thông tin cập nhật từ cộng đồng Vivek & cộng sự AT2 Tôi dành nhiều sự chú ý của mình về những thứ liên quan đến cộng đồng (2014) AT3 Mọi thứ liên quan đến cộng đồng chiếm được sự quan tâm của tôi AT4 Tôi tập trung nhiều vào cộng đồng này Rothbard (2001) Sự say mê AB1 Khi tôi tham gia tương tác trong cộng đồng, tôi tập trung vào nó mà ít suy Sachaufei et al. nghĩ tới những thứ khác (2002) AB2 Khi tôi tương tác trong cộng đồng, tôi như ở một nơi khác, quên mọi thứ xung quanh AB3 Thời gian như trôi nhanh hơn khi tôi tương tác trong cộng đồng AB4 Khi đang tương tác trong cộng đồng, thật khó để làm tôi bị xao nhãng Sự tương tác IN1 Nhìn chung, tôi thích tham gia vào các cuộc thảo luận trong cộng đồng Wiertz và de Ruyter này (2007) IN2 Tôi là người thích tương tác với những người có cùng quan điểm trong cộng đồng này IN3 Tôi là một người thích tham gia tích cực vào các cuộc thảo luận trong cộng đồng này IN4 Nói chung, tôi hoàn toàn thoải mái trao đổi ý tưởng với những người khác trong cộng đồng này Ý định trung thành với thương hiệu BIL1 Tôi sẽ nói những điều tốt đẹp về thương hiệu này với mọi người Zeithaml và ctg BIL2 Tôi sẽ giới thiệu thương hiệu này cho những người cần lời khuyên của tôi (1996) BIL3 Tôi sẽ khuyến khích người thân và bạn bè của tôi mua thương hiệu này BIL4 Tôi dự kiến sẽ mua nhiều sản phẩm của thương hiệu này trong thời gian tới 235
  6. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018 5. Phân tích kết quả Thang đo được kiểm định theo một quy trình khoa học từ phân tích nhân tố EFA, phân tích nhân tố khẳng định CFA, phân tích độ tin cậy và kiểm định giả thuyết thông qua phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính SEM. Kết quả phân tích nhân tố sử dụng phép quay Promax và phương pháp trích nhân tố Principal Axis Factoring cho thấy, các chỉ báo ID4, ID5, EN1, AB2, và IN1 bị loại bỏ vì có trọng số factor loading nhỏ hơn 0.5. Các chỉ báo còn lại được nhóm thành 6 nhân tố đúng như đề xuất ban đầu (KMO=0.915, Bartlett's Test=3272.389, .sig=0.000). Phân tích nhân tố khẳng định CFA cho thấy chỉ số mô hình tốt, phù hợp với dữ liệu thị trường (Chi-square/df=1.720; p-value=0.000; GFI=0.906; TLI=0.957; CFI=0.965; RMSEA=0.053). Bảng 2: Phân tích độ tin cậy tổng hợp, phương sai trích và tương quan nội tại CR AVE IN AT BIL AB EN ID IN 0.828 0.615 0.784 AT 0.864 0.614 0.345 0.783 BIL 0.886 0.660 0.686 0.663 0.813 AB 0.874 0.700 0.653 0.174 0.332 0.836 EN 0.892 0.734 0.654 0.367 0.606 0.541 0.857 ID 0.796 0.567 0.723 0.268 0.505 0.728 0.700 0.753 Số in đậm ở đường chéo là căn bậc hai của AVE và số in thường dưới đường chéo là giá trị tuyệt đối của chỉ số tương quan nội tại Thang đo sự gắn kết khách hàng được kiểm định độ tin cậy tổng hợp (CR) và chỉ số hiệu lực hội tụ AVE. Bảng 3 cho thấy độ tin cập tổng hợp của từng nhân tố cao (>0.70) và AVE lớn hơn 0.50, do đó thang đo đạt được độ tin cậy. Anderson & Gerbing (1988) cho rằng thang đo cũng đạt giá trị hội tụ khi các trọng số chuẩn hóa đều cao (>0.05) và giá trị phân biệt khi AVE lớn hơn bình phương tương quan giữa các nhân tố (xem bảng 2), do vậy thang đo đạt được giá trị hội tụ và giá trị phân biệt. Kết quả cho thấy, sự gắn kết khách hàng là một khái niệm đa tiêu thức, tức là một nhân tố bậc hai bao gồm 5 thành phần (dimensions) với các chỉ số kiểm định mô hình tốt (Chi-square/df= 2.333; GFI= 0.868; TLI=0.920; CFI=0.931; RMSEA=0.071). Chúng tôi quan sát thấy sự gắn kết khách hàng với cộng đồng thương hiệu giải thích các thành phần (nhân tố bậc 1) như sau: sự nhiệt tình (beta chuẩn hóa=0.79, Critical ratio, CR=5.967, p
  7. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018 đến hình ảnh của thương hiệu, họ tìm thấy sự tương đồng về hình ảnh của mình với hình ảnh thương hiệu, đây cũng chính là lý do khách hàng có tình cảm và bảo vệ thương hiệu (Bagozzi & Dholakia, 2006). Các thành phần còn lại (sự nhiệt tình, sự say mê và sự chú tâm) là các thành phần thuộc nhân tố nhận thức (lý trí) lần lược là thành phần mạnh thứ ba, tư và năm của sự gắn kết thương hiệu cho thấy khách hàng bỏ nhiều nỗ lực (tâm trí và thời gian) trong việc gắn kết với cộng đồng thương hiệu. Nghiên cứu này cũng chứng minh được sự gắn kết khách hàng với cộng đồng thương hiệu trên mạng xã hội là khái niệm đa tiêu thức tồn tại như là một nhân tố bậc hai của 5 thành phần sự nhiệt tình, tình cảm gắn bó, sự chú tâm, sự say mê và sự tương tác. Ngoài ra, nghiên cứu cũng kiểm định thành công ảnh hưởng tích cực của sự gắn kết khách hàng với cộng đồng thương hiệu trên mạng xã hội đến ý định trung thành thương hiệu. Sự gắn kết với cộng đồng thương hiệu là một yếu tố dự đoán quan trọng đến lòng trung thành thương hiệu (giải thích 51% lòng trung thành). Nghiên cứu bổ sung vào cơ sở lý thuyết liên quan đến sự gắn kết khách hàng bằng cách khẳng định vai trò của sự gắn kết khách hàng với cộng đồng thương hiệu đối với lòng trung thành thương hiệu, và khẳng định lòng trung thành là biến kết quả quan trọng của sự gắn kết khách hàng. Các nhà quản trị thương hiệu sử dụng nền tảng mạng xã hội có thể gia tăng sự gắn kết của khách hàng với thương hiệu và lòng trung thành của họ. Phân tích 5 thành phần của sự gắn kết sẽ giúp nhà quản trị thương hiệu có cái nhìn bao quát và cụ thể hơn về những công việc họ cần phải làm để khuyến khích khách hàng gắn kết với thương hiệu. Markerter phải hiểu được tầm quan trọng của các yếu tố của mạng xã hội như hình ảnh, video, bình luận, đánh giá, chia sẻ có thể được tạo ra bởi chính thương hiệu hoặc khách hàng nhằm thúc đẩy 5 thành phần của sự gắn kết khách hàng. Ví dụ, các thương hiệu có thể tạo ra các sản phẩm truyền thông (hình ảnh, video) với nội dung hấp dẫn nhằm gia tăng sự chú ý, và tương tác của khách hàng. Thêm vào đó, thương hiệu có thể cung cấp những đánh giá, tham gia bình luận và thể hiện sự trung thực trên các cộng đồng trực tuyến trên mạng xã hội nhằm khuyến khích khách hàng tương tác và trao đổi với thương hiệu. Nghiên cứu này mặc dù được triển khai theo một quy trình khoa học bài bản, vẫn có một số giới hạn cần đề cập. Thứ nhất, mẫu nghiên cứu chỉ được lấy tại Đà Nẵng và trên đối tượng khách hàng sử dụng và tham gia các cộng đồng mỹ phẩm (chủ yếu là nữ) nên chưa thể có tính bao quát. Các nghiên cứu tiếp theo có thể sử dụng thang đo đã được kiểm định ở nghiên cứu này để nghiên cứu trên các đối tượng khác, và các loại thương hiệu khác qua đó mẫu có thể đại diện hơn. Thứ hai, nghiên cứu khảo sát chủ yếu trên nền tảng mạng xã hội facebook, các nền tảng khác như youtube hay instagram và các diễn đàn chưa xuất hiện nhiều trong mẫu nghiên cứu, các nghiên cứu tiếp theo nên cân nhắc nghiên cứu với các đối tượng này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Anderson, J. C., & Gerbing, D. W. (1988). Structural equation modeling in practice: A review and recommended two-step approach. Psychological bulletin, 103(3), 411-423. 2. Bagozzi, R. P., & Dholakia, U. M. (2006). Antecedents and purchase consequences of customer participation in small group brand communities. International Journal of Research in Marketing, 23(1), 45- 61. doi:10.1016/j.ijresmar.2006.01.005 3. Bowden, J. L.-H. (2009). The process of customer engagement: A conceptual framework. Journal of Marketing Theory and Practice, 17(1), 63-74. doi:10.2753/MTP1069-6679170105 4. Brodie, R. J., Hollebeek, L. D., Jurić, B., & Ilić, A. (2011). Customer engagement: Conceptual domain, fundamental propositions, and implications for research. Journal of Service Research, 14(3), 252-271. doi:10.1177/1094670511411703 5. Brodie, R. J., Ilic, A., Juric, B., & Hollebeek, L. (2013). Consumer engagement in a virtual brand community: An exploratory analysis. Journal of Business Research, 66(1), 105-114. doi:10.1016/j.jbusres.2011.07.029 237
  8. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018 6. Dessart, L., Veloutsou, C., & Morgan-Thomas, A. (2015). Consumer engagement in online brand communities: a social media perspective. Journal of Product & Brand Management, 24(1), 28-42. doi:10.1108/JPBM-06-2014-0635 7. Hennig-Thurau, T., Malthouse, E. C., Friege, C., Gensler, S., Lobschat, L., Rangaswamy, A., & Skiera, B. (2010). The impact of new media on customer relationships. Journal of Service Research, 13(3), 311-330. doi:10.1177/1094670510375460 8. Hollebeek, L. D. (2011a). Demystifying customer brand engagement: Exploring the loyalty nexus. Journal of Marketing Management, 27(7-8), 785-807. doi:10.1080/0267257X.2010.500132 9. Hollebeek, L. D. (2011b). Exploring customer brand engagement: definition and themes. Journal of Strategic Marketing, 19(7), 555-573. doi:10.1080/0965254X.2011.599493 10. Hollebeek, L. D., Glynn, M. S., & Brodie, R. J. (2014). Consumer brand engagement in social media: Conceptualization, scale development and validation. Journal of Interactive Marketing, 28(2), 149-165. doi:10.1016/j.intmar.2013.12.002 11. Kang, I., Lee, K. C., Lee, S., & Choi, J. (2007). Investigation of online community voluntary behavior using cognitive map. Computers in Human Behavior, 23(1), 111-126. doi:10.1016/j.chb.2004.03.039 12. Kaplan, A. M., & Haenlein, M. (2010). Users of the world, unite! The challenges and opportunities of Social Media. Business Horizons, 53(1), 59-68. doi:10.1016/j.bushor.2009.09.003 13. Kuvykaitė, R., & Tarutė, A. (2015). A critical analysis of consumer engagement dimensionality. Procedia- Social and Behavioral Sciences, 213(2015), 654-658. doi: 10.1016/j.sbspro.2015.11.468 14. Laroche, M., Habibi, M. R., & Richard, M.-O. (2013). To be or not to be in social media: How brand loyalty is affected by social media? International Journal of Information Management, 33(1), 76-82. doi:10.1016/j.ijinfomgt.2012.07.003 15. Muniz, A. M., & O'guinn, T. C. (2001). Brand community. Journal of Consumer Research, 27(4), 412-432. doi:10.1086/319618 16. Patterson, E. A., Campbell, P. B., Busch-Vishniac, I., & Guillaume, D. W. (2011). The effect of context on student engagement in engineering. European Journal of Engineering Education, 36(3), 211-224. doi:10.1080/03043797.2011.575218 17. Schaufeli, W. B., Salanova, M., González-Romá, V., & Bakker, A. B. (2002). The measurement of engagement and burnout: A two sample confirmatory factor analytic approach. Journal of Happiness studies, 3(1), 71-92. doi:10.1023/A:1015630930326 18. Scholer, A. A., & Higgins, E. T. (2009). Exploring the complexities of value creation: The role of engagement strength. Journal of Consumer Psychology, 19(2), 137-143. doi:10.1016/j.jcps.2009.02.007 19. So, K. K. F., King, C., & Sparks, B. (2014). Customer engagement with tourism brands: Scale development and validation. Journal of Hospitality & Tourism Research, 38(3), 304-329. doi:10.1177/1096348012451456 20. Van Doorn, J., Lemon, K. N., Mittal, V., Nass, S., Pick, D., Pirner, P., & Verhoef, P. C. (2010). Customer engagement behavior: Theoretical foundations and research directions. Journal of Service Research, 13(3), 253-266. doi:10.1177/1094670510375599 21. Vivek, S. D., Beatty, S. E., Dalela, V., & Morgan, R. M. (2014). A generalized multidimensional scale for measuring customer engagement. Journal of Marketing Theory and Practice, 22(4), 401-420. doi:10.2753/MTP1069-6679220404 22. Vivek, S. D., Beatty, S. E., & Morgan, R. M. (2012). Customer engagement: Exploring customer relationships beyond purchase. Journal of Marketing Theory and Practice, 20(2), 122-146. doi:10.2753/MTP1069-6679200201 23. Zeithaml, V. A., Berry, L. L., & Parasuraman, A. (1996). The behavioral consequences of service quality. Journal of Marketing, 60(2), 31-46. doi:10.2307/1251929 238
nguon tai.lieu . vn