Xem mẫu
- %
?
3.93
4
3.24
3.06
2.93 3.0
3
2.16
2.1
2 1.86
1.7
1.39
1.32 1.32
1.09 1.1
1 0.69
0.5
năm
0
36- 39
39- 43
43- 51
51- 54
54- 60
60- 65
65- 70
70- 76
89- 99
99- 02
02- 05
26- 31
31- 36
76- 79
79- 89
21-26
Hình 21.1 Biểu đồ tỉ lệ gia tăng dân số trung bình năm qua các giai đoạn
Trang 78 - SGKNC
- Hình 1.1-Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng các năm 1986-2005 (%)
600 Trang 8 – SGK chuẩn
500
400
300
200
100
?
0
1986 1988 1990 1992 1994 1996 1998 2000 2002 2004
- I./ Chỉ số giá tiêu dùng (hay được viết tắt là CPI
Consumer Price Index) là chỉ số tính theo phần trăm để
phản ánh mức thay đổi tương đối của giá hàng tiêu dùng
theo thời gian. Sở dĩ chỉ là thay đổi tương đối vì chỉ số
này chỉ dựa vào một rổ hàng hóa đại diện cho toàn bộ
hàng tiêu dùng.
m Đây là chỉ tiêu được sử dụng phổ biến nhất để đo lường
mức giá và sự thay đổi của mức giá chính là lạm phát
(một chỉ tiêu khác để phản ánh mức giá chung là
Chỉ số giảm phát tổng sản phẩm trong nước hay
Chỉ số điều chỉnh GDP).
- II./ Chỉ số giá cả tiêu dùng CPI có liên hệ gì với
lạm phát
Lạm phát thường được “ưu tiên” trong chính sách quản
lý kinh tế của các chính phủ vì những hậu quả của chúng
để lại rất xấu cho nền kinh tế, sau đó là thất nghiệp, lãi
suất, năng suất, thâm hụt ngân sách chính phủ, thâm hụt
ngoại thương… Lạm phát vừa phải thường có tác dụng
tích cực, vì nó gây ra cho tâm lý người người tiêu dùng
cần mua sớm nếu không mua thì hàng hóa sẽ còn tăng
cao nữa từ đó hàng hóa sẽ được lưu thông tốt hơn, song
tới một mức độ nào đó thì nó lại mất tác dụng và gây ra
hậu quả cho nền kinh tế. Thường thì lạm phát có nguyên
nhân bắt nguồn chủ yếu từ cung tiền, đổi tiền, thay đổi
chính sách về thuế, phúc lợi xã hội, .v.v. Song cũng có
những trường hợp ngoại lệ như trường hợp của Mỹ vào
đầu thập niên 80 của thế kỷ 20 là một ví dụ điển hình.
- Giới chuyên môn bàn cãi khá nhiều về nguyên nhân lạm phát
và chính sách chống lạm phát. Lạm phát ở Việt Nam được đo
bằng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của một rổ gồm 494 mặt
hàng thiết yếu, chia ra làm 10 nhóm hàng hóa và dịch vụ.
- Lạm phát là gì ?
Trong kinh tế học, lạm phát là hiện tượng giảm mãi
lực của đồng tiền. Điều này cũng đồng nghĩa với
“vật giá leo thang”, giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng
cao khiến với cùng một số lượng tiền, người tiêu thụ
mua được ít hàng hóa hơn hoặc phải trả một giá cao
hơn để hưởng cùng một dịch vụ.
- Một khái niệm khác về lạm phát là khối lượng tiền được lưu
hành trong dân chúng tăng lên do nhà nước in và phát hành
thêm tiền vì những nhu cầu cấp thiết (chiến tranh, nội chiến,
thâm thủng ngân sách v.v...). Trong khi đó, số lượng hàng
hoá không tăng khiến dân chúng cầm trong tay nhiều tiền
quá sẽ tranh mua khiến giá cả tăng vọt có khi đưa đến siêu
lạm phát. Những ví dụ cùng cực nhất của siêu lạm phát đã
xảy ra tại Đức trong những năm đầu thập niên 1920 khi tỉ
lệ lạm phát lên tới 3,25 x 106 mỗi tháng, có nghĩa là giá cả
tăng gấp đôi mỗi 49 tiếng đồng hồ hoặc tại Hungary sau
Thế chiến thứ hai với tỉ lệ lạm phát 4,19 x 1016 (giá cả tăng
gấp đôi mỗi 15 giờ đồng hồ).
- Lạm phát
Không thể phủ nhận việc tăng giá dầu
và một số nguyên liệu sản xuất trên thị
trường thế giới cũng như thiên tai, dịch
bệnh trong nước là nguyên nhân khách
quan dẫn tới việc tăng chỉ số giá tiêu
dùng (CPI) trong năm 2007. Tuy
nhiên, lạm phát ở Việt Nam chủ yếu xuất
phát từ các nhân tố chủ quan, có tính cơ
cấu của nền kinh tế vì nếu lạm phát
chủ yếu do giá của thế giới tăng thì các
nước khác như Trung Quốc, Thái Lan,
Malaysia… cũng đều phải chịu sức ép
tương tự. Tuy nhiên, lạm phát ở các
nước này lại thấp hơn một cách đáng
kể so với Việt Nam
- Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời
gian của mức giá chung của nền kinh tế. Trong một
nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay
giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các
nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ
của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác.
Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu
là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền
kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì
người ta hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong
phạm vi thị trường toàn cầu. Phạm vi ảnh hưởng
của hai thành phần này vẫn là một chủ đề gây tranh
cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ mô. Ngược lại với
lạm phát là giảm phát. Một chỉ số lạm phát bằng 0
hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi là
sự ổn định giá cả.
-
Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của
tổng sản phẩm quốc nội: Nó là tỷ lệ của tổng giá trị
GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP
của năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo
cáo theo giá so sánh hay GDP thực). (Xem thêm
Thực và danh định trong kinh tế). Nó là phép đo mức
giá cả được sử dụng rộng rãi nhất. Các phép khử lạm
phát cũng tính toán các thành phần của GDP như
chi phí tiêu dùng cá nhân. Tại Mỹ,
Cục Dự trữ Liên bang đã chuyển sang sử dụng khử
lạm phát tiêu dùng cá nhân và các phép khử lạm phát
khác để tính toán các chính sách kiềm chế lạm phát của
mình.
- Biểu đồ tăng GDP của Việt Nam từ 1998-2005
- Lạm phát là khi đồng tiền bị mất giá trị so với
cách đó một thời gian nào đó. Giảm phát là đối
nghịch lạm phát. Khi bạn nghe lạm phát âm có
nghĩa là giảm phát. Tuy vậy, đừng nghe rằng có
giảm phát mà mừng (vì đồng tiền tăng giá), vì
thường khi giảm phát là nền kinh tế sẽ bị đình
đốn. Tóm lại, giảm phát, hay lạm phát cao đều có
hại.
- [sửa] Thiểu phát
Xem bài chính về Thiểu phát
[sửa] Lạm phát thấp
Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ 3.0 đến 7.0 phần trăm
một năm.
[sửa] Lạm phát cao (Lạm phát phi mã)
Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá hai chữ số một năm,
nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm phát.
[sửa] Siêu lạm phát
Xem bài chính về Siêu lạm phát
Siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm soát", một tình trạng giá cả tăng
nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị. Không có định nghĩa chính xác về
siêu lạm phát được chấp nhận phổ quát. Một định nghĩa đơn giản là
chỉ số lạm phát hàng tháng từ 50% trở lên (nghĩa là cứ 31 ngày thì giá
cả lại tăng gấp đôi). Theo Tiêu chuẩn Kế toán Quốc tế 29, có bốn tiêu
chí để xác định siêu lạm phát, đó là: (1) người dân không muốn giữ tài
sản của mình ở dạng tiền; (2) giá cả hàng hóa trong nước không còn
tính bằng nội tệ nữa mà bằng một ngoại tệ ổn định; (3) các khoản tín
dụng sẽ tính cả mức mất giá cho dù thời gian tín dụng là rất ngắn; và
(4) lãi suất, tiền công và giá cả được gắn với chỉ số giá và tỷ lệ lạm
phát cộng dồn trong ba năm lên tới 100 phần trăm.lhg
• Đình lạm
- Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát do cầu thay đổi
Lạm phát do chi phí đẩy
Lạm phát tiền
tệ
Lạm phát do nhập khẩu
Lạm phát do xuất khẩu
Lạm phát do cơ cấu
Lạm phát đẻ ra lạm phát
Kiềm chế lạm phát còn gọi là giảm lạm phát.
- L Khi GDP tăng trưởng 8% có nghĩa là xã hội làm thêm ra
được khối tài sản trị giá 8% khối tài sản cũ, nên nhà nước
phải phát hành thêm 8% lượng tiền để lưu thông lượng giá
trị tài sản ( hàng hoá, dịch vụ, trí tuệ,…) đó. Nhưngkhông
hiểu vì lý do gì mà nhà nước lại phát hành thêm tới 20%,
30% hoặc 50% lượng tiền nên đồng tiền bị mất giá ( lạm
phát ), giá cả hàng hóa tăng cao, xã hội bất ổn.
Bây giờ thì bớt phát hành tiền đi, tăng lãi suất tiết kiệm,
nhốt tiền vào ngân hàng để lấy lại giá trị cho đồng tiên
( giảm phát ). Giảm phát và lãi suất ngân hàng tăng cao thì
người ta không thích đầu tư sản xuất nữa, gửi tiền vào
ngân hàng sướng hơn. Vả lại, đầu tư kinh doanh với tỷ lệ
lãi phải thật cao thì mới đủ trể trả lãi vay ngân hàng. Mà
không sản xuất thì không có công ăn việc làm, thất
nghiệp , đói nghèo cũng gây bất ổn xã hội.
- III./Sức mua tương đương (hay được viết tắt là
PPP xuất phát từ purchasing power parity ) là một
kiểu tính tỷ giá hối đoái giữa đơn vị tiền tệ của hai
nước. Các nhà kinh tế học tính xem cùng một lượng
hàng của cùng một thứ hàng hóa khi bán ở hai nước
khác nhau bằng đơn vị tiền tệ của hai nước đó thì
số tiền phải bỏ ra ra sao, rồi từ đó so sánh lượng hai
đơn vị tiền tệ.
- Đo lường CPI như thế nào?
Bộ Thương mại biên soạn và công bố các số liệu
hàng quý về GNP danh nghĩa, GNP thực tế và chỉ số
ngầm giảm phát GNP, nhưng trên thực tế không
sưu tầm các giá cả cá biệt của thịt bò, trứng và các
sản phẩm khác. Cục Thống Kê Lao động (BLS) tiến
hành sưu tầm các giá cả cá biệt và công bố hai chỉ
số giá cả là Chỉ số giá cả tiêu dùng (CPI) và Chỉ số
giá cả sản xuất (PPI).
- Chỉ số giá cả tiêu dùng (CPI), được công bố hàng tháng, dựa vào
giá cả của hàng nghìn sản phẩm được xếp thành 224 nhóm. Giá
cả mà những người tiều dùng phải trả được hàng trăm người đi
thu nhập giá ghi lại, những người này hàng tháng gọi điện thoại
đến hay trực tiếp đến hàng nghìn cửa hàng tại 85 khu vực địa lý
và thu nhập được trên 100.000 giá. Sau đó, các giá cả trung bình
của từng sản phẩm cá biệt, như thịt bò và trứng chẳng hạn, được
BLS kết hợp lại thành các chỉ số nhóm như chỉ số nhóm “thực
phẩm và đồ uống” chẳng hạn. Sau đó các chỉ số nhóm được kết
hợp lại thành “tổng chỉ số giá cả tiêu dùng CPI”. Những trọng
lượng được sử dụng để kết hợp giá cả những sản phẩm cá biệt
thành những chỉ số nhóm rồi đi tới “tổng chỉ số giá cả” dựa vào
tỷ lệ các hạng mục ấy trong số chỉ tiêu tiêu dùng như đã ghi được
trong cuộc điều tra.
nguon tai.lieu . vn