Xem mẫu

  1. Sản Phẩm Dầu Mỏ Thương Phẩm Chương V SỰ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ DO KHÓI THẢI TỪ QUÁ TRÌNH ĐỐT CHÁY CÁC SẢN PHẨM DẦU MỎ VÀ CÁC BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC 5.1. Sự đốt cháy nhiên liệu, vấn đề ô nhiễm và bảo vệ môi trường 5.1.1. Sự đốt cháy nhiên liệu Quá trình đốt cháy của nhiên liệu bằng không khí được xem là lý tưởng khi trong hỗn hợp khí cháy chỉ có ra CO2, H2O và N2. Tuy nhiên, quá trình cháy thực tế trong động cơ hoặc trong các lò đốt rất đặc biệt nên sản phẩm của quá trình cháy ngoài các chất kể trên còn có nhiều hợp chất khác hay quá trình cháy ở đây không phải quá trình cháy lý tưởng. Phương trình cháy của nhiên liệu trong điều kiện lý tưởng yz y yz - )(O2 +3.78N2) → CO2 + H2O + 3.78(1 + CHyOz + (1+ - )N2 42 2 42 Quá trình cháy trong thực tế ở trong các động cơ hay các lò đốt thường là quá trình không lý tưởng nên ngoài các hợp chất kể trên thì trong khí thải còn có một số hợp chất khác như oxyt nitơ (NO, N2O, NO2 gọi chung là NOx ), monoxyt cacbon (CO), các hydrocacbon chưa cháy (HC), hạt rắn, bồ hống . . . Nồng độ các chất ô nhiễm này phụ thuộc vào loại thiết bị đốt cháy và các chế độ vận hành. Ngoài ra trong nhiên liệu ban đầu thường chứa thêm lưu huỳnh nên trong khói thải còn có thêm khí SO2. Tất cả các hợp chất vừa kể trên đều là chất độc hại đối với còn người và môi trường sinh thái. Vì vậy cần thiết phải hạn chế hay giảm thiểu nồng độ của chúng. 5.1.2. Ô nhiễm và bảo vệ môi trường Như phần trên ta đã thấy việc đốt cháy nhiên liệu luôn kèm theo sự phát thải ra môi trường một lượng chất độc hại gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ con người và môi trường sinh thái. Vì vậy ngày nay loài người đã nhận ra rằng : không thể có một xã hội hay một nền kinh tế lành mạnh trong một thế giới có quá nhiều sự nghèo đói và suy ThS. Trương Hữu Trì Trang 91
  2. Sản Phẩm Dầu Mỏ Thương Phẩm thoái môi trường. Sự phát triển kinh tế không thể dừng lại, nhưng nó phải định hướng để việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên có hiệu quả nhất và hạn chế các tác động xấu đến môi trường. Công nghiệp phát triển càng mạnh, dân sống ở đô thị càng đông, mức thu nhập càng cao thì chất thải gây ô nhiễm môi trường càng nhiều, tài nguyên thiên nhiên càng bị cạn kiệt. Càng ngày con người càng thấy rõ sự ô nhiễm môi trường không khí do chất thải công nghiệp và giao thông vận tải gây ra làm thiệt hại rất lớn đối với nền kinh tế quốc dân và làm tăng bệnh tật đối với con người. Ô nhiễm môi trường không khí, nó được xác định bằng sự biến đổi môi trường theo hướng bất lợi đối với cuộc sống của con người, của động vật, thực vật, mà sự ô nhiễm đó chính là do hoạt động của con người gây ra với quy mô, phương thức và mức độ khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp tác động, làm thay đổi mô hình, thành phần hóa học, tính chất vật lý và sinh học của môi trường không khí. 5.2.1. Tác hại của các chất có trong khói thải 5.2.1.1. Tác hại đối với con người Cacbonmonoxyt CO: Tác hại của khí CO đối với con người xảy ra khi nó tác dụng đối với hồng cầu trong máu tạo thành một hợp chất bền vững do đó nó làm giảm hồng cầu trong máu từ đó làm giảm khả năng hấp thụ oxi của hồng cầu để nuôi dưỡng tế bào cơ thể. HbO2 + CO → HbCO + O2 Nạn nhân sẻ bị tử vong khi 70% số hồng cầu bị khống chế (khi nồng độ CO trong không khí >1000 ppm). Ở nồng độ thấp hơn, CO cũng có thể gây nguy hiểm đối với con người: khi 20% hồng cầu bị khống chế, nạn nhân bị nhức dầu, chóng mặt, buồn nôn và khi nồng độ này lên đến 50% thì não bộ con người bắt đầu bị ảnh hưởng nặng. ThS. Trương Hữu Trì Trang 92
  3. Sản Phẩm Dầu Mỏ Thương Phẩm Các oxyt nitơ (NOx) NOx là hỗn hợp của các oxit nitơ. Trong quá trình cháy chủ yếu sinh ra NO sau đó một phần khí này chuyển thành NO2 tuỳ thuộc và điều kiện. NO là chất khí không màu, không mùi, không tan trong nước, NO có thể gây nguy hiểm cho cơ thể do tác dụng với hồng cầu trong máu làm giảm khả năng vận chuyển oxi gây thiếu máu. NO2 là chất khí màu nâu nhạt, mùi của nó có thể bắt đầu được phát hiện ở nồng độ 0.12ppm. NO2 dễ hấp thụ bức xạ tử ngoại, dễ hoà tan trong nước và tham gia phản ứng quang hoá. NO2 là loại khí có tính kích thích, khi tiếp xúc với niêm mạc tạo thành axit qua đường hô hấp hoặc hoà tan vào nước bọt rồi vào đường tiêu hoá, sau đó vào máu. Ở hàm lượng 15 ÷ 50ppm NO2 gây nguy hiểm cho tim phổi và gan. Hydrocacbon Hydrocacbon trong khói thải là một hỗn hợp bao gồm nhiều chất khác nhau như benzen, metan, etan, etylen . . . các khí chứa oxy như rượu, axit, xeton . . . trong các chất này thì người ta quan tâm nhiều nhất đến benzen vì nó là chất gây ra bệnh ung thư. Từ lâu người ta đã xác định được tác hại của benzen trong căn bệnh ung thư máu khi nồng độ của nó lớn hơn 40ppm hoặc gây rối loạn hệ thần kinh khi nồng độ lớn hơn 1 g/ m3, đôi khi nó là nguyên nhân gây các bệnh về gan. Các oxyt lưu huỳnh (SOx ) Trong nhiên liệu có chứa lưu huỳnh thì khi bị đốt cháy chúng sinh ra khí SO2, khí này có thể chuyển thành SO3 trong một số điều kiện nhất định. Các oxit lưu huỳnh là những chất háo nước, vì vậy khi nhiệt độ hạ thấp xuống thì nó kết hợp với nước để tạo thành axit tượng ứng, các axit này có thể theo đường hô hấp để vào sâu trong phổi gây ảnh hưởng đến sức khoẻ con người. Bồ hóng Bồ hóng tồn tại dưới dạng các hạt rắn có đường kính trung bình khoảng 0.3 µm nên rất dễ xâm nhập sâu vào phổi, bị giữ lại ở đó, phản ứng với màng nhầy gây hại đến sức khoẻ. ThS. Trương Hữu Trì Trang 93
  4. Sản Phẩm Dầu Mỏ Thương Phẩm Mặt khác thì do bề mặt riêng của hạt bồ hóng rất lớn, nó có khả năng hấp phụ các hydrocacbon thơm và các oxit kim loại gây ra bệnh ung thư. HAP (hydrocacbon polyaromactic) Thành phần HAP có trong khí quyển với nồng độ 20 µg/m3. Chúng được tạo thành khi ngưng tụ các hydrocacbon trong nhiên liệu. HAP hấp phụ trong các hạt hữu cơ như bụi, bồ hóng đi vào cơ thể gây ung thư. 5.2.1.2. Tác hại đối với môi trường. Thay đổi nhiệt độ khí quyển. Sự hiện diện của các chất ô nhiễm, đặc biệt là các chất gây hiệu ứng nhà kính như CO2, CH4, N2O trong không khí trước hết ảnh hưởng đến quá trình cân bằng nhiệt của bầu khí quyển, làm cho các điều kiện tự nhiên bị xáo trộn theo chiều hướng bất lợi, đe doạ đến sự sinh tồn trên quả đất. Trong số những chất gây hiệu ứng nhà kính người ta quan tâm đến khí cacbonic (CO2) vì đây là thành phần chính trong sản phẩm cháy có chứa cacbon. Cacbonic (CO2) gây hiệu ứng nhà kính làm tăng nhiệt độ của quả đất. Sự tăng nhiệt độ này được giải thích như sau: Bức xạ từ mặt trời (sóng ngắn) Bức xạ từ mặt đất Bức xạ từ mặt đất (sóng dài) (sóng dài) Khí quyển Khi trong khí quyển có nồng độ Khi trong khí quyển có CO2 bình thường nồng độ CO2 lớn ThS. Trương Hữu Trì Trang 94
  5. Sản Phẩm Dầu Mỏ Thương Phẩm Nhiệt độ bề mặt trung bình của trái đất quyết định bởi sự cân bằng giữa năng lượng mặt trời chiếu xuống Trái đất và năng lượng bức xạ nhiệt của mặt đất vào vũ trụ. Bức xạ mặt trời đạt cực đại trong vùng ánh sáng thấy được (có bước sóng khoảng 0.4÷0.73µm) còn bức xạ cực đại của vỏ trái đất nằm trong vùng hồng ngoại (7÷15µm). Các chất khí khác nhau thì có giải hấp thụ bức xạ khác nhau. Do đó, thành phần của chất khí có mặt trong khí quyển có ảnh hưởng đến sự trao đổi nhiệt giữa mặt trời, quả đất và không gian. Cacbonic là chất có giải hấp thụ bức xạ cực đại với bước sóng nằm trong vùng hồng ngoại, vì vậy nó được xem là trong suốt đối với bức xạ mặt trời nhưng là chất hấp phụ quan trọng đối với tia bức xạ hồng ngoại phát ra từ mặt đất. Một phần nhiệt lượng do CO2 giữ lại bức xạ ngược về trái đất, kết quả làm bầu khí quyển nóng lên. Lớp khí CO2 có tác dụng như một lớp “kính giữ nhiệt” của trái đất ở qui mô toàn cầu. Nếu lượng CO2 sinh ra càng nhiều thì lớp “kính giữ nhiệt” càng dày, nhiệt độ trái đất càng tăng. Với mức độ thải CO2 ra môi trường như hiện nay, theo dự đoán của các nhà khí tượng đến giữa thế kỷ 22 thì nồng độ khí CO2 sẽ tăng lên gấp đôi. Như vậy sẽ dẫn đến nhiều tác hại: Nhiệt độ bầu khí quyển tăng từ 2 ÷30C. Một lượng lớn băng ở Bắc Cực và Nam Cực sẽ tan ra làm tăng mực nước biển. Nhiệt độ trái đất tăng làm tăng các quá trình chuyển hoá sinh học và hoá học gây nên sự mất cân bằng về lượng và chất trong cơ thể. Nhiệt độ trái đất tăng làm giảm khả năng hoà tan CO2 trong nước biển. Lượng CO2 trong khí quyển tăng làm mất cân bằng CO2 giữa khí quyển và đaị dương Làm thay đổi lượng mưa gió và sa mạc hoá thêm bề mặt quả đất. Mưa axit. Các chất khí có tính axit như SOx, NOx có mặt trong thành phần không khí do sự phát thải từ việc đốt cháy nhiên liệu phần lớn sẻ được thải ra ngoài cùng với khói thải, khi ở trong môi trương thì nhiệt độ của nó sẻ xuống thấp do đó nó kết hợp với hơi nước trong không khí để tạo ra các axit tương ứng và khi hàm lượng lớn sẻ gây ra mưa axit. ThS. Trương Hữu Trì Trang 95
  6. Sản Phẩm Dầu Mỏ Thương Phẩm Mưa axit làm tăng độ axit của đất, huỷ diệt rừng, mùa màng, gây nguy hại đối với sinh vật dưới nước, nguy hại đối với người và động vật, làm hỏng nhà cửa, cầu cống và các công trình. Tầng ozone và lỗ thủng tầng ozone. Do quá trình hình thành và phân huỷ ozone luôn diễn ra nên ozone có chu kì tồn tại trong khí quyển rất ngắn. Lượng ôzone tập trung nhiều nhất trong tầng bình lưu (ở độ cao 25km) tạo thành tầng ozone với nồng độ 5÷10ppm. Tầng ozone được xem là cái ô bảo vệ loài người và thế giới động vật tránh khỏi tai hoạ do bức xạ tia tử ngoại của mặt trời gây ra, nó giữ vai trò quan trọng đối với khí hậu và sinh thái trái đất. Khi tia bức xạ mặt trời chiếu qua tầng ozone, phần lớn lượng bức xạ tử ngoại đã bị hấp thụ trước khi chiếu xuống trái đất. Nếu các hoạt động của con người làm suy yếu tầng zone trong khí quyển sẽ gây thảm hoạ đối với hệ sinh thái trên trái đất. Trong những năm gần đây, các nhà khoa học đã phát hiện nồng độ ozone trong khí quyển của trái đất ở một số nơi đã suy giảm (ví dụ ở Nam cực). Ngoài ra khí sinh ra do khói thải động cơ như CH4, NOx và các chất hữu cơ cũng là nguyên nhân gây suy giảm tầng ozone. Các chất này tham gia phản ứng với các gốc tồn tại ở tầng bình lưu trở thành chất hoạt hoá và tham gia quá trình phân huỷ ozone. 5.1.3. Nguồn gây ô nhiễm không khí Một cách tông quát thì người ta chia các nguồn ô nhiễm trong môi trường không khí thành 2 nhóm chính: Nguồn ô nhiễm tự nhiên (thiên nhiên) Nguồn ô nhiễm này xãy ra do cháy rừng, do hoạt động của núi lửa, do đại dương, do thực vật… Nguồn ô nhiễm nhân tạo (do sự tác động của con người) Nguồn ô nhiễm nhân tạo này sinh ra do sự đốt nhiên liệu để phục vụ cho quá trình sản xuất hay sinh hoạt của con người. Quá trình này xảy ra khắp mọi nơi, mọi lúc. ThS. Trương Hữu Trì Trang 96
  7. Sản Phẩm Dầu Mỏ Thương Phẩm Trong sản phẩm cháy do nhiên liệu sản sinh ra khi cháy có chứa nhiều loại khí độc hại cho sức khỏe con người, nhất là quá trình cháy không hoàn toàn. Các chất độc hại: SO2, CO, CO2, NOx, hydrocacbon, hạt rắn, bổ hóng, tro bụi. Người ta phân biệt các nguồn gây ô nhiễm do đốt nhiên liệu thành các nhóm: Do phương tiện giao thông (nguồn ô nhiễm di động): bao gồm giao thông đường bộ, giao thông đường sắt, giao thông đường thuỷ, hàng không. Các cơ sở công nghiệp đốt nhiên liệu: than, dầu, khí. Các quá trình sản xuất công nghiệp đặc biệt là quá trình sản xuất hoá chất, sản xuất vật liệu, luyện kim, và khai thác mỏ, . . . Do đốt các loại phế thải đô thị, sinh hoạt, xây dựng công trình, cháy rừng . . . Ở nước ta đang diễn ra quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá tương đối nhanh, đặc biệt là ở ba vùng trọng điểm phát triển kinh tế : Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh, TP Hồ Chí Minh-Biên Hoà-Vũng Tàu, Đà Nẵng-Nha Trang-Quãng Ngãi. Vì vậy hiện trạng chất lượng môi trường đô thị và khu công nghiệp nước ta biến đổi hàng năm, theo chiều hướng không có lợi, vì chất thải ô nhiễm từ sản xuất công nghiệp, giao thông vận tải và sinh hoạt đô thị ngày càng tăng về số lượng, chủng loại và tính độc hại. 5.1.3.1. Nguồn thải ô nhiễm do công nghiệp Sản xuất công nghiệp và sinh hoạt đô thị hàng ngày thải ra các chất thải độc hại ở dạng khí (khí độc và bụi), dạng lỏng (nước thải) và dạng rắn ( rác, bùn, phân). Các chất thải này là nguồn gốc gây ô nhiễm môi trường không khí, môi trường nước, và môi trường đất. Những năm gần đây ở nước ta đang phát triển một số ngành công nghiệp mới như công nghiệp điện tử, công nghiệp hoá chất, công nghiệp dầu khí, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp vật liệu . . . Do vậy đã làm cho chất thải công nghiệp ở nước ta ngày càng đa dạng và độc hại hơn. Xử lý chất thải sản xuất công nghiệp ở nước ta hiện nay là một vấn đề cấp bách và nóng bỏng, đòi hỏi sự đầu tư lớn về công nghệ xử lý chất thải nước, chất thải khí và rác thải thì mới có thể giảm được hiện trạng ô nhiễm môi trường đô thị và công nghiệp ở nước ta. ThS. Trương Hữu Trì Trang 97
  8. Sản Phẩm Dầu Mỏ Thương Phẩm Lượng thải các chất ô nhiễm môi trường không khí toàn cầu năm 1982 (đơn vị là triệu tấn) Nguồn gây ô nhiễm Các chất ô nhiễm chính CO Bụ i SOx HC NOx Giao thông vận tải: -Xe ôtô chạy xăng 53,5 0,5 0,2 13,8 5,0 -Xe ôtô chạy dầu diezen 0,2 0,3 0,1 0,4 0,5 -Máy bay 2,4 0,0 0,0 0,3 0,0 -Tàu hoả và các loại khác 2,0 0,4 0,5 0,6 0,8 Cộng 58,1 1,2 0,8 15,1 7,3 Đốt nhiên liệu: -Than 0,7 7,4 18,3 0,2 3,6 -Dầu 0,1 0,3 3,9 0,1 0,9 -Khí đốt tự nhiên 0,0 0,2 0,0 0,0 4,1 -Gỗ, củi 0,9 0,2 0,0 0,4 0,2 Cộng 1,7 8,1 22,2 0,7 8,8 3. Quá trình sản xuất công nghiệp 8,8 6,8 6,6 4,2 0,2 4. Xử lý chất thải rắn 7,1 1,0 0,1 1,5 0,5 5. Hoạt động khác: -Cháy rừng 6,5 6,1 0,0 2,0 1,1 -Đốt các chất nông nghiệp 7,5 2,2 0,0 1,5 0,3 -Đốt rác thải bằng than 1,1 0,4 0,5 0,2 0,2 -Hàn đốt xây dựng 0,2 0,1 0,0 0,1 0,0 Cộng 15,3 8,7 0,5 7,7 1,5 Tổng cộng toàn bộ 91,0 25,7 30,2 29,1 18,7 ThS. Trương Hữu Trì Trang 98
  9. Sản Phẩm Dầu Mỏ Thương Phẩm 5.1.3.2. Nguồn ô nhiễm giao thông vận tải Theo số liệu ở bảng trên cho thấy, chúng đã sản sinh ra gần 2/3 khí CO và 1/2 khí hydrocacbon và khí NO. Ôtô gây ô nhiễm rất độc hại qua ống xả là bụi và tàn khói. Tàu hoả, tàu thuỷ chạy bằng nhiên liệu xăng dầu cũng gây ra ô nhiễm môi trường tương tự như ôtô. Máy bay cũng là nguồn gây ô nhiễm bụi, hơi độc hại và tiếng ồn. Bụi và hơi độc hại do máy bay thải ra nói chung là nhỏ. Tổng số chất thải do máy bay gây ra chỉ chiếm khoảng 2,5% tổng chất thải CO và 1% chất thải hydrocacbon. 5.1.3.3. Ô nhiễm không khí do hoạt động xây dựng Ở nước ta hiện nay đang trong quá trình đô thị hoá nhanh chống do đó hoạt động xây dựng nhà cửa, đường sá, cầu, cống... rất nhộn nhịp và diễn ra khắp nơi, đặc biệt là ở các đô thị. Các hoạt động xây dựng như đào, lấp đất, đập phá công trình cũ, vật liệu xây dựng bị rơi vãi trong quá trình vận chuyển, thường gây ô nhiễm bụi rất trầm trọng đối với môi trường không khí xung quanh, đặc biệt là ô nhiễm bụi ở các nơi có hoạt động xây dựng vượt trị số tiêu chuẩn cho phép tới 10-20 lần. 5.1.3.4. Nguồn ô nhiễm do sinh hoạt của con người gây ra Nguồn ô nhiễm do sinh hoạt của con người chủ yếu là bếp đun và lò sưởi, nhiên liệu sử dụng là than đá, củi, dầu hoả và khí đốt. Nhìn chung nguồn ô nhiễm này là nhỏ, nhưng đặc điểm của nó là gây ô nhiễm cục bộ trong nhà. Hiện nay việc dùng than để đun nấu lan tràn trong đô thị, nồng độ khí CO tại bếp đun thường là lớn sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ của con người. Đun bếp than tổ ong sẽ thải ra nhiều chất khí độc hại như SO2, CO, CO2, bụi. Cống rãnh, môi trường nước như ao, hồ, kênh rạch, sông ngòi bị ô nhiễm cũng bốc hơi, thoát khí độc hại và gây ô nhiễm môi trường không khí. Ở các đô thị chưa thu gom và xử lý rác tốt thì sự thối rữa, phân huỷ rác hữu cơ cũng là nguồn gây ô nhiễm môi trường không khí. ThS. Trương Hữu Trì Trang 99
  10. Sản Phẩm Dầu Mỏ Thương Phẩm Lượng phát thải các chất ô nhiễm chủ yếu từ các nguồn thiên nhiên và nhân tạo Tải lượng chất ô Chất ô nhiễm Nguồn gây ô nhiễm nhiễm 106 t/ năm chủ yếu Nguồn nhân tạo chủ Nguồn thiên Nhân Thiên yếu nhiên tạo nhiên Đốt nhiên liệu than đá và dầu mỏ Núi lửa 146 6 -12 S O2 Chế biến quặng có chứa S Núi lửa Các quá Công nghiệp hóa chất hóa 3 300 -100 trình sinh H 2S Xử lý nước thải trong đầm lầy Cháy rừng Đốt nhiên liệu Các phản ứng hóa 300 >3000 CO Khí thải của ôtô học âm ỉ Hoạt động sinh Đốt nhiên liệu học của vi sinh vật 50 60- 270 NO2 trong đất Chế biến phế thải Phân hủy sinh hóa 4 100 – 200 NH3 Gián tiếp, khi sử dụng Quá trình sinh hóa >17 100 – 450 N 2O phân bón gốc nitơ trong đất CH: 300- Đốt cháy nhiên liệu, Các quá trình sinh 1600 88 Hydrocacbon khí thải, các quá trình hóa hóa học Terpen:200 1,5. 104 15.104 Đốt nhiên liệu Phân hủy sinh học CO2 ThS. Trương Hữu Trì Trang 100
  11. Sản Phẩm Dầu Mỏ Thương Phẩm Ngày nay với sự gia tăng nhanh chống các máy móc trang bị động cơ thì vấn đề ô nhiễm do khói thải động cơ cần phải được quan tâm đúng mức. Sự gia tăng các chất gây ô nhiễm do khói thải động cơ được thấy qua số liệu sau: Chất ô nhiễm Thời kỳ tiền công Hiện nay Tốc độ tăng nghiệp (ppm) (ppm) (%/năm) CO2 270 340 0,4 N 2O 0,28 0,30 0,25 CO 0,05 0,13 3 SO2 0,001 0,002 2 5.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành chất độc hại trong khói thải động cơ và các giải pháp khắc phục Trong phần trên ta vừa thấy có rất nhiều nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường không khí. Tuy nhiên trong giới hạn của giáo trình này chỉ đề cập một cách sơ lược về các giải pháp nhằm giảm thiểu ô nhiễm do quá trình đốt cháy nhiên liệu từ dầu mỏ, hay cụ thể hơn là các giải pháp nhằm giảm thiểu nồng độ các chất độc hại trong khói thải của động cơ và các lò đốt công nghiệp. 5.1.4.1. Yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành. Ở phần trước chúng ta đã thấy trong khói thải từ động cơ luôn chứa một hàm lượng các chất độc hại, thành phần và hàm lượng của các chất này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Ở động cơ diesel, nồng độ CO rất bé, chiếm tỷ lệ không đáng kể, nồng độ HC chỉ bằng khoảng 20% nồng độ HC của động cơ xăng còn nồng độ NOx của hai loại động cơ này có giá trị tương đương nhau. Trái lại, bồ hóng là chất ô nhiễm quan trọng trong khí xả động cơ Diesel, nhưng hàm lượng của nó không đáng kể trong động cơ xăng. ThS. Trương Hữu Trì Trang 101
  12. Sản Phẩm Dầu Mỏ Thương Phẩm Những tạp chất, chất phụ gia của nhiên liệu và đặc biệt là lưu huỳnh có ảnh hưởng lớn đến thành phần các chất ô nhiễm trong sản phẩm cháy. Thông thường, xăng thuơng mại chứa khoảng 600 ppm lưu huỳnh. Thành phần lưu huỳnh có thể lên đến 0,5% đối với dầu Diesel. Trong quá trình cháy, lưu huỳnh bị oxy hoá thành SO2, sau đó một bộ phận SO2 bị oxy hoá tiếp thành SO3. Để có thể đưa ra được biện pháp nhằm giảm thiểu các hợp chất độc hại này thì trước hết ta cần phải biết rỏ những điều kiện nào ảnh hưởng đến sự hình thành chúng trong quá trình cháy trong động cơ. a. Sự hình thành NOx trong quá trình cháy của động cơ ôtô. NOX được hình thành chủ yếu do sự kết hợp giữa oxi và nitơ của không khí ở điều kiện nhiệt độ cao. Chất ô nhiễm này ngày nay càng được quan tâm nhiều và trong một số trường hợp, nó là chất ô nhiễm chính làm giới hạn tính năng kỹ thuật của động cơ. Oxyt nitơ hình thành trong khí cháy chủ yếu là NO, sau đó tuỳ theo điều kiện mà nó có thể chuyển sang các dạng tồn tại khác. Sự hình thành chúng phụ thuộc vào nhiệt độ cực đại trong buồng cháy và cả nồng độ của oxy, vì vậy các yếu tố ảnh hưởng đến nhiệt độ và nồng độ oxy trong buồng cháy sẻ ảnh hưởng đến hàm lượng các chất này trong khói thải. Trường hợp động cơ đánh lửa cưỡng bức. Trong động cơ này thì những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự hình thành NOx là: Độ giàu của hỗn hợp nhiên liệu Lượng khí thải hồi lưu lại buồng cháy Góc đánh lửa sớm. ThS. Trương Hữu Trì Trang 102
  13. Sản Phẩm Dầu Mỏ Thương Phẩm Mức độ phát sinh NOx phụ thuộc vào độ giàu của hỗn hợp công tác thể hiện trên đồ thị sau: Nồng độ NOx NOx 0.8 0.9 1.0 1.1 Độ giàu Nhận xét: Khi độ giàu quá lớn thì oxy trong hỗn hợp không đủ để đốt cháy nhiên liệu đồng thời nhiệt độ trong buồng cháy sẻ giảm đi do đó hàm lượng của NOx tạo thành sẻ nhỏ. Cũng tương tự như trên khi độ giàu quá nghèo, khi đó trong hỗn hợp có chưa nhiều oxy nhưng do phần không khí thừa trong hỗn hợp nhiều nên chúng hấp thụ một lượng lớn nhiệt toả ra do quá trình cháy của nhiên liệu do đó nhiệt độ chung trong buồng cháy cũng giảm làm cho hàm lượng của NOx tao ra giảm theo. Trong trường hợp độ giàu gần bằng 1 (khoảng 0.98) khi đó nhiên liệu có đủ oxy để cháy, lượng nhiệt bị hấp thụ bởi không khí thừa giảm, khi đó nhiệt độ của khí cháy đạt được cao và có mặt của oxy nên hàm lượng NOx tạo thành lớn nhất. Ảnh hưởng của lượng khí thải hồi lưu Khi cho một lượng nhất định khí thải hồi lưu trở lại trong buồng đốt thì nó sẻ làm giảm nhiệt độ cực đại đạt được ở trong buồng cháy vì khí thải này có nhiệt độ không cao nên nó hấp thụ một phần nhiệt toả ra từ quá trình cháy nhiên liệu. Như vậy ThS. Trương Hữu Trì Trang 103
  14. Sản Phẩm Dầu Mỏ Thương Phẩm việc hồi lưu khí thải này cũng cho phép làm giảm hàm lượng NOx trong khói thải động cơ. Tuy nhiên, lượng khí thải hồi lưu tăng quá lớn thì sẻ ảnh hưởng đến hoạt động của động cơ và tăng nồng độ HC. Ảnh hưởng tỷ lệ khí xả hồi lưu (EGR) đến nồng độ NO. (EGR: Exhaust Gas Recirculation)được trình bày ở đồ thị bên Nồng độ các chất ô nhiễm giảm mạnh theo sự gia tăng của tỷ lệ khí xả hồi lưu cho đến khi tỷ lệ này đạt khoảng 15-20%, đây là tỷ lệ hồi lưu lớn nhất chấp nhận được đối với động cơ làm việc ở tải cục bộ. Ảnh hưởng của góc đánh lửa sớm Góc đánh lửa sớm có ảnh hưởng mạnh đến sự phát sinh NO. Khi tăng góc đánh lửa sớm, điểm bắt đầu cháy xuất hiện sớm hơn trong chu trình công tác, áp suất cực đại xuất hiện gần ĐCT hơn, do đó giá trị của nó cao hơn. Vì vậy tăng góc đánh lửa sớm cũng làm tăng nhiệt độ cực đại. Mặt khác, vì thời điểm cháy bắt đầu sớm hơn nên thời gian tồn tại Ảnh hưởng của góc đánh lửa sớm của khí cháy ở nhiệt độ cao cũng kéo dài. đến nồng độ NO. Hai yếu tố này đều tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành NO. Tóm lại, tăng góc đánh lửa sớm làm tăng nồng độ NO trong khí xả. Trong điều kiện vận hành bình thường cửa động cơ, giảm góc đánh lửa 10 độ có thể giảm nồng độ NO từ 20-30% ở cùng áp suất cực đại của động cơ. ThS. Trương Hữu Trì Trang 104
  15. Sản Phẩm Dầu Mỏ Thương Phẩm Trường hợp động cơ Diesel Thông thường động cơ diesel hoạt động với hỗn hợp nghèo tức là luôn có thừa oxy trong khí cháy, như vậy ở đây NOx tạo ra phụ thuộc hoàn toàn vào nhiệt độ cực đại đạt được trong buồng cháy. Trong mọi chế độ hoạt động của động cơ, thì phần nhiên liệu cháy trước trong mỗi chu kỳ đóng vai trò quan trọng nhất đối với sự hình thành NO, vì sau khi bị đốt cháy nhiệt độ của nó tăng cao, hơn nữa phần khí cháy này thường bị nén nên càng làm gia tăng nhiệt độ của nó, do đó làm tăng nồng độ NO. Mặt khác, do quá trình cháy khuếch tán, trong buồng cháy động cơ Diesel luôn tồn tại rất nhiều khu vực hay các "túi" không khí có nhiệt độ thấp, nhờ phần khí này mà NO hình thành trong buồng cháy động cơ Diesel được làm mát (gọi là sự "tôi" NO) nhanh chóng hơn trong trường hợp động cơ đánh lửa cưỡng bức và do đó NO ít có khuynh hướng bị phân giải hơn. Các quan sát thực nghiệm cho thấy hầu hết NO được hình thành trong khoảng 200 góc quay trục khuỷu từ lúc bắt đầu cháy. Do đó khi giảm góc phun sớm, điểm bắt đầu cháy lùi gần ĐCT hơn, điều kiện hình thành NO cũng bắt đầu trễ hơn và nồng độ của nó giảm do nhiệt độ cực đại thấp. Đối với động cơ Diesel cỡ lớn, giảm góc phun sớm có thể làm giảm đến 50% nồng độ NO trong khí xả (trong phạm vi gia tăng suất tiêu hao nhiên liệu chấp nhận được). Đối với động cơ Diesel nói chung, nồng độ NOx tăng theo độ giàu trung bình. Tuy nhiên khi độ giàu thấp, nồng độ NOx giảm chậm hơn so với trường hợp động cơ đánh lửa cưỡng bức do sự phân bố không đồng nhất của nhiên liệu. Trong quá trình cháy của động cơ Diesel, độ giàu trung bình phụ thuộc trực tiếp vào lượng nhiên liệu chu trình, do đo, ở chế độ tải lớn nghĩa là áp suất cực đại cao, nồng độ NO tăng. Hình bên trình bày biến thiên nồng độ NOx và NO trong khí xả theo độ giàu trung bình đối với động cơ Diesel phun trục tiếp tốc độ ThS. Trương Hữu Trì Trang 105
nguon tai.lieu . vn