Xem mẫu
- Tài chính công
(Bản thảo, chưa hoàn chỉnh
- Trong này có thể có một số lỗi chính tả, vì chưa sửa hết)
( Dùng cho Sinh viên tham khảo cùng với bài giản của giảng viên
Đại học Thăng long-2010)
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ TÀI CHÍNH CÔNG.
Nội dung:
1. Khái quát về Nhà nước
1.1. Sự hình thành và bản chất của Nhà nước
1.2. Vai trò của Nhà nước
1.2.1. Sơ lược về vai trò của Nhà nước
1.2.2. Vai trò của Nhà nước Việt Nam
1.2.3. Hoạt động của Nhà nước và chi tiêu công
2. Tài chính công.
2.1. Khái niệm về Tài chính công
2.2. Đặc điểm của TCC.
2.2.1. Nhà nước là chủ thể của tài chính công.
2.2.2. Đặc điểm về nguồn gốc tạo lập quỹ TCC.
2.2.3. Tính phức tạp trong việc đánh giá hiệu quả chi tiêu Nhà nước.
2.2.4. Phạm vi hoạt động và ảnh hưởng rộng rãi của TCC.
2.2.5. Tài chính công có vai trò dẫn dắt và tài chính tư.
2.3. Chức năng tài chính công
2.3.1. Chức năng phân bổ
2.3.2. Chức năng phân phối lại thu nhập giữa các chủ thể.
2.3.3. Chức năng giám đốc thu chi.
2.4. Vai trò tài chính công
2.4.1. Bảo đảm cho hoạt động của bộ máy Nhà nước.
2.4.2.Vai trò trong việc thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội.
2.5. Chủ thể và hệ thống Tài chính công
2.5.1. Hệ thống tài chính công.
2.5.2. Phân loại hệ thống Tài chính công.
2.5.2.1. Phân theo chủ thể quản lý.
2.5.2.2. Phân theo nội dung quản lý.
1. Khái quát về Nhà nước.
1.1. Sự hình thành và bản chất của Nhà nước.
Theo lịch sử xã hội loài người phát triển từ thấp lên cao. Trên con đường tiến hóa
của loài người đã có thời kỳ chưa có nhà nước. Vậy Nhà nước đã xuất hiện như thế nào,
lúc nào? V.I. Lênin trong bài phát biểu đăng trên báo Sự thật số 5, ngày ngày 18.1.1929
đã giải thích rõ quá trình hình thành Nhà nước.
Trước khi xuất hiện hình thức người bóc lột người, xã hội loài người thiết chế
theo chế độ thị tộc, gia tộc. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, trong xã hội nguyên thuỷ,
khi người ta sống thành từng thị tộc nhỏ. Còn ở vào trình độ phát triển thấp nhất thì
người ta chưa thấy dấu vết sự tồn tại của nhà nước. Trong quá trình phát triển khi xã hội
xuất hiện chế độ người bóc lột thì có một nhóm người tách ra và thực hiện nhiệm vụ cai
trị bằng bộ máy cưỡng bức đặc biệt (nhà tù, các đội ngũ đặc biệt quân đội.v.v…) để bắt
buộc người khác phải phục tùng. Khi đó Nhà nước mới xuất hiện.
1
- Trong thời kỳ không có nhà nước các quan hệ xã hội, kỷ luật, tổ chức lao động
duy trì được nhờ có sức mạnh của phong tục và tập quán, nhờ có uy tín và lòng tôn trọng
mà những bô lão của thị tộc hoặc phụ nữ - địa vị của phụ nữ.
Sự tiến hoá của xã hội loài người đã chỉ cho chúng ta thấy tính quy luật chung.
Đó là: ban đầu tồn tại một xã hội không có giai cấp, sau đến là một xã hội dựa trên chế
độ nô lệ. tiếp theo là một chế độ nông nô. Trong tuyệt đại đa số các nước chế độ nô lệ,
khi phát triển đã trở thành chế độ nông nô. Địa chủ - chủ nô và nông nô. Đó là sự phân
chia căn bản của xã hội, trong chế độ chủ nô nô lệ được coi như vật sở hữu của mình.
Thế nhưng, trong thời kỳ địa chủ thì địa chủ - lãnh chúa không có quyền sở hữu nông
dân như sở hữu một đồ vật nữa, nó chỉ có quyền chiếm đoạt kết quả lao động của nông
dân và cưỡng bức nông dân phải làm tròn một số nghĩa vụ nào đó thôi. Người nông nô
có thể lao động một số ngày nhất định cho chính mình trên miếng đất mà địa chủ giao
cho họ. còn những ngày khác, họ làm việc cho chủ họ. Đây là điều kiện giải phóng của
nông dân, hình thành quan hệ trao đổi và thương mại làm cho chế độ phong kiến có nguy
cơ phá vỡ để nhường chỗ cho một chế độ mới ra đời.
Đến khi, nền kinh tế hàng hóa - tiền tệ hình thành giai cấp tư bản xuất hiện. Bắt
đầu từ cuối thế kỷ XVIII và trong thế kỷ XIX, nhiều cuộc cách mạng đã nổ ra trên toàn
thế giới. Kết quả là chế độ nông nô bị xoá bỏ ở nhiều nước khu vực Tây Âu. Song song
với sự sụp đổ nhanh chóng chế độ phong kiến ở nhiều nước giai cấp tư bản hình thành
với tốc độ tương ứng.
Trong mỗi nước. tùy thuộc vào giai đoạn lịch sử phát triển, các hình thái xã hội
hình thành dưới các mức độ khác nhau. Thế nhưng trong quá trình phát triển xã hội với
các bước chuyển biến hình thái xã hội bao giờ cũng thấy nhà nước xuất hiện.
Bản chất của Nhà nước là một bộ máy để cho giai cấp này áp bức giai cấp khác
một bộ máy dùng để duy trì dưới sự thống trị của một giai cấp tất cả các giai cấp bị lệ
thuộc khác. Có ba lý do cần kể đến phản ảnh bản chất này của nhà nước:
Thứ nhất. chỉ có Nhà nước mới đủ quyền lực về kinh tế, đủ sức mạnh để duy trì
quan hệ bóc lột.
Thứ hai, chỉ thông qua Nhà nước, giai cấp thống trị mới tổ chức, thực hiện quyền
lực chính trị của mình.
Thứ ba, chỉ thông qua nhà nước giai cấp thông trị mới xây dựng được hệ tư tưởng
của mình trở thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội.
1.2. Vai trò của Nhà nước
12.1. Sơ lược về vai trò của Nhà nước.
Nói đến vai trò của Nhà nước, trước hết chúng ta không thể bỏ qua bản chất của
Nhà nước. Đó là sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác. Tùy thuộc vào quá
trình phát triển xã hội và các hình thái của Nhà nước, bản chất thống trị của nhà nước có
sự thay đổi.
Tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, lịch sử và tự nhiên Nhà nước của các
nước về thể chế. Cơ cấu khác nhau về hình thức và vì vậy, vai trò của Nhà nước cũng
được thể hiện dưới các hình thức khác nhau. Tuy nhiên, thông qua việc thực hiện các
chức năng chủ yếu của mình vai trò của Nhà nước của các nước khác nhau có những
điểm giống nhau, tập trung trên các mặt sau:
- Đảm bảo an ninh. quốc phòng và cung cấp các dịch vụ công cộng.
- Thúc đẩy phát triển kinh tế.
- Tạo ra công bằng xã hội. đảm bảo an sinh dân chúng.
Sự hình thành và tồn tại của các Nhà nước trong lịch sử nhân loại đã chứng minh
rằng Nhà nước luôn phát triển theo hướng ngày càng hoàn thiện để phù hợp với vai trò
quản lý của mình. Là bộ phận cấu thành kiên trúc thượng tầng, nhà nước chịu sự chi phối
của đời sống kinh tế - xã hội. Khi đời sống kinh tế xã hội phát triển sẽ dẫn đến những
biến đổi trong kiến trúc thượng tầng. Đặc điểm nổi bật trong sự chuyển hướng đó là
2
- phương pháp hoạt động của Nhà nước. Vào những năm của thế kỷ XIX Nhà nước đã bắt
đầu hạn chế tham gia một cách trực tiếp và thường xuyên vào nền kinh tế - xã hội.
Sau thế chiến thứ II một số phương Tây, việc can thiệp của nhà nước vào nền
kinh tế đã trở thành nguyên tắc. Tuy nhiên, phương thức can thiệp đã được chuyển từ
trực tiếp sang gián tiếp bằng các công cụ của nền kinh tế thị trường như: thuế, lãi suất,
kích cầu bằng tăng chi tiêu của Chính phủ...
1.2.2. Vai trò của Nhà nước Việt Nam
Hiến pháp nước CHXHCN Việt nam nêu rõ: Nhà nước CHXHCN VN là Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực Nhà nước
thuộc về nhân dân.
- Nhà nước dùng quyền lực của mình để quản lý xã hội.
- Nhà nước thực hiện phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phát triển một nền kinh tế theo nguyên
tắc cơ cấu nhiều thành phần với các hình thức sàn xuất kinh doanh đa dạng dựa trên chế
độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Trong đó sở hữu toàn dân là nền
tảng.
- Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của
nhân dân xây dựng đất nước giàu mạnh, công bằng, dân chú và văn minh. Nhà nước Việt
nam xã hội chủ nghĩa có trách nhiệm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ an
ninh và cuộc sống an lành của nhân dân.
- Trong thời kỳ hội nhập kinh tê quốc tế Nhà nước đứng trước những yêu cầu mới
tác động đến hoạt động của Nhà nước làm thay đổi nội dung vai trò của Nhà nước trong
quản lý. Trước hết:
* Nhà nước phải tổ chức quản lý nền kinh tế, đảm bảo phát triển mạnh mẽ và hiệu
quả trong điều kiện cạnh tranh toàn cầu; chống nguy cơ tụt hậu trong quá trình phát triển
nhanh chóng của thời đại;
* Để phát triển nhanh chóng tránh tụt hậu Nhà nước phải có chính sách, chủ
trương phát triển mạnh, nhanh thông qua các chính sách đầu tư. Tuy nhiên việc phát triển
nhanh chóng đất nước sẽ kéo theo sự nhanh chóng xã hội là yếu tố bất an cho quốc gia.
Vì vậy Nhà nước phải thực thi mạnh hơn các chủ trương, chính sách an sinh, công bằng
xã hội.
* Thực tiễn đòi hỏi Nhà nước phải thay đổi cung cách quản lý đã ăn sâu vào tiềm
thức của bộ máy công quyền. Đó là phải từ bỏ chế độ quản lý theo phương pháp hành
chính thông qua các quy định hạn chế những gì mà Nhà nước không muốn, mặc dầu điều
cấm đoán đó không phù hợp với cuộc sống - để chuyển sang cơ chế quản lý bằng các
công cụ của thị trường, phối hợp với xu thế của thời đại.
* Toàn cầu hóa sẽ làm phát sinh những vấn đề phút tạp hơn như văn hóa và bản
sắc dân tộc; sự phụ thuộc lẫn nhau trong việc xử lý các vấn đề trong nội bộ của một quốc
gia; trách nhiệm của mỗi quốc gia với cộng đồng quốc tế...
Với đòi hỏi mới, nhà nước xã hội Việt Nam thực hiện vai trò của mình với những
chức năng vốn có với đòi hỏi cao hơn. Đó là:
- Vai trò điều tiết kinh tế bằng các công cụ của thị trường trong điều kiện toàn
cầu hóa, thị trường liên thông; trong điều kiện một quốc gia đang còn trong phạm vi các
nước nghèo.
- Nhà nước không những tiếp tục bảo đảm an sinh xã hội mà còn phải làm tốt
hơn vai trò của mình trong lĩnh vực an sinh xã hội thông qua việc phân phối một cách
hợp lý nguồn lực tài chính của quốc gia, Nhà nước phải hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ
thuật, môi trường, giáo dục, y tế, nhằm tạo ra nguồn nội lực để tận dụng cơ hội của thời
kỳ hội nhập và đối phó với những thách thách do toàn cầu hóa mang lại.
Vai trò mới của Nhà nước đòi hỏi phải có những điều kiện về mặt tài chính, làm
thay đổi mối tương quan giữa Tài chính công và Nhà nước.
3
- 1.2.3.Hoạt động của Nhà nước và chi tiêu công.
a. Bộ máy quản lý Nhà nước.
Nhằm thực hiện các nhiệm vụ của mình, Nhà nước tổ chức bộ máy quản lý. Cơ
cấu tổ chức bộ máy này ở các quốc gia khác nhau thường không giống nhau. Điều đó tùy
thuộc vào thể chế chính trị, chế độ và lịch sử của từng quốc gia.
Ở Việt Nam, Bộ máy quân lý của Nhà nước có cấu trúc phù hợp với thể chế xã
hội chủ nghĩa, bao gồm: Quốc hội. Bộ máy chủ tịch nước, chính phủ. Đảng lãnh đạo, các
Bộ... Bộ máy này tổ chức theo hệ thống dọc từ Trung ương đến địa phương; các đoàn thể
chính trị - xã hội.
b. Chi tiêu của Nhà nước
Dù tổ chức theo mô hình thế nào đi nữa, nhưng Nhà nước nào cũng cần phải có
nguồn tài chính để tồn tại và hoạt động.
Mục đích chi tiêu của Nhà nước là nhằm đảm bảo:
- Duy trì hoạt động của bộ máy của Nhà nước, khoản chi này gọi là chi thường
xuyên;
- Chi cho đầu tư phát triển nền kinh tế. hay còn gọi là chi vốn;
- Chi chuyển kinh phí.
Để có nguồn tài chính đảm bảo cho các mục tiêu chi nói trên, Nhà nước phải khai
thác các nguồn thu.
Các khoản thu của Nhà nước, thông thường, bao gồm:
- Thuế. Đây là khoản thu chủ yếu, có vai trò quan trọng đối với việc đảm bảo chi
tiêu cho nhà nước. Thuế là hình thức bắt buộc đối với mọi chủ thể nền kinh tế. Nhà nước
ban hành các đạo luật liên quan và dùng quyền lực chính trị của mình để tổ chức thực
hiện các đạo luật đó.
- Các khoản thu có tính chất đối giá như thu phí, lệ phí thông qua việc cung cấp
các dịch vụ công cho công chúng.
- Vay nợ trong và ngoài nước. Khi nhà nước thực hiện các biện pháp để thu qua
hình thức thuế vụ phí, lệ phí không đủ cho nhu cầu chi tiêu Nhà nước sẽ vay vốn để bổ
sung cho mục tiêu đầu tư phát triển. Nhà nước có thể vay vốn trên thị trường trong và /
hoặc ngoài nước. Viện trợ không hoàn lại cũng là nguồn thu của NN.
2. Tài chính công..
2.1. Khái niệm về Tài chính công.
Tài chính công là gì? Đây là câu hỏi. mà trong thực tiễn khoa học kinh tế đã nhận
được nhiều câu trả lời khác nhau.
Trên thế giới, Tài chính công bắt đầu xây dựng cho mình một lĩnh vực riêng biệt
từ nửa thế kỷ thứ XIX. Ở Việt Nam, môn học Tài chính công đã bắt đầu vào những năm
chuyển đổi mô hình quản lý kinh tế từ thể chế kế hoạch hóa, tập trung sang cơ chế thị
trường. Hiện nay Tài chính công trở thành môn học bắt buộc đối với hầu hết các cơ sở
đào tạo và giáo dục bậc Đại học ở Việt nam.
Một số chuyên gia đã nhìn Tài chính công từ bên ngoài quan sát các hiện tượng
của nó và cho rằng Tài chính công là hoạt động thu chi tài chính của Nhà nước. Điều này
không sai. Tuy nhiên, qua đó chúng ta chỉ nhìn nhận Tài chính công như tổng thể các
hành vi của nhà nước về khai thác nguồn tài chính và sử dụng nguồn Tài chính đó cho
mục tiêu công của Nhà nước. Thế nhưng, dưới giác độ khoa học Tài chính công còn có
nội dung sâu xa hơn mà xuất phát điểm của nó là các chi tiêu của Nhà nước, cũng như
các nguồn thu của Nhà nước. Hoạt động thu chi của NN có tác động mạnh mẽ đến đời
sống kinh tế xã hội của Quốc gia. Hơn nữa, trong thời kỳ đương đại Nhà nước, không
đơn thuần là tìm cách thu để thỏa mãn một cách cơ học nhu cầu chi tiêu của mình. Như
đã nói ở trên, Nhà nước thông qua thu, chi có thể tác động đến nền kinh tế và cuộc sống
của người dân. Về khía cạnh này thì tài chính công là một khoa học, nó có các mối quan
hệ hữu cơ với nhiều môn khoa học kinh tế - xã hội khác.
4
- Theo Giáo sư Duverger Trường đại học Paris. Pháp thì tài chính công là khoa
học nghiên cứu các công cụ, phương tiện mà Chính phủ của một nước sử dụng để khai
thác các nguồn tài chính cần thiết nhằm hỗ trợ cho các chi tiêu của Chính phủ, bằng
cách phân bổ cho các chủ thể nền kinh tế toàn bộ các khoản chi tiêu của nhà nước.
Cũng theo Giáo sư Duverger, khi khái niệm Tài chính công với ý nghĩa hiện đại
thì ông cho rằng: Tài chính công là các hoạt động gắn liền với vai trò của Chính phủ
trong việc sử dụng các nguồn lực của Quốc gia để tác động vào nền kinh tế, nhằm đạt
được những mục tiêu mà Chính phủ đề ra.
Từ những luận giải trên chúng ta có thể khái niệm tài chính công dưới hai giác
độ:
- Về khoa học. Tài chính công là một môn khoa học nghiên cứu các đối tượng
liên quan đến hoạt động và cơ sở kinh tế thu chi của Nhà nước nhằm tạo lập và sử dụng
nguồn tài chính công cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
- Về nội dung kinh tế. xã hội. Tài chính công là phạm trù kinh tế, phản ảnh quan
hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể trong nền kinh tế trong việc tạo lập và sử dụng
các quỹ tài chính cho mục tiêu quản lý phát triền kinh tế - xã hội của Nhà nước.
2.2. Đặc điểm của TCC.
Từ luận giải và khái niệm trên đây về Tài chính công chúng ta thấy rằng Tài
chính công là một phạm trù kinh tế có mối quan hệ đa chiều, đa dạng với các lĩnh vực
khoa học khác, với các hoạt động khác trong đời sống như:chính trị. kinh tế, xã hội, đối
ngoại... Chính vì vậy, Tài chính công có nhiều đặc điểm phản ảnh các yếu tố về mặt hình
thức, cũng như những quan hệ thuộc nội dung của chính nó.
Khi xem xét Tài chính công ở giác độ là các quỹ tiền tệ của Nhà nước thì Tà
chính công có các đặc điểm sau đây:
2.2.1. Nhà nước là chủ thể của tài chính công.
Nói đến chủ thể của Tài chính công, có nghĩa là nói đến sở hữu chủ của Nhà nước
đối với các quỹ tiền tệ hình thành trong quá trình hoạt động thu của Nhà nước.
Nhà nước là chủ sở hữu các quỹ tài chính đó trong cả phương diện thu - chi. Lý
do:
Như đã phân tích ở trên, Nhà nước là cơ quan tổ chức hoạt động để khai thác và
tạo lập các nguồn tài chính để đàm bảo thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước của
mình. Các biện pháp Nhà nước sử dụng để hình thành các quỹ là khác nhau. Nguồn thu
điển hình nhất là thuế. Thuế là loại thu bắt buộc bằng các quyền lực chính trị của Nhà
nước. Kết quả là một phần của cải thuộc các định chế khác đã chuyển vào tay Nhà nước.
Tính sở hữu đã chuyền từ một pháp nhân khác sang một pháp nhân khác - Đó là Nhà
nước. Các nguồn thu khác cũng vậy.
Về chi, không ai khác là Nhà nước quyết định việc sử dụng và phân bổ các nguồn
tài chính thuộc sở hữu của mình đã được tạo lập trong quá trình hoạt động thu của Nhà
nước. Việc phân bổ đó được thực hiện vì mục tiêu công.
Nhà nước là chủ thể của Tài chính công nên các quỹ Tài chính của Nhà nước trở
thành công cụ nhạy bén đề Nhà nước xử lý các vấn đề về phát triển kinh tế - xã hội.
Tùy là thuộc sở hữu của mình nhưng Nhà nước thực hiện thu chi các quỹ tài
chính công theo các luật định do cơ quan Quốc hội ban hành và giám sát.
2.2.2. Đặc điểm về nguồn gốc tạo lập quỹ TCC
Về bản chất các quỹ TCC của Nhà nước là một phần vật chất của cải do xã hội
làm ra được thể hiện dưới dạng giá trị.
Như đã phân tích trên đây. Nhà nước tạo lập các quỹ tài chính bằng các phương
thức khác nhau như:
- Thuế;
- Phí;
- Các nguồn khác.
5
- Dù cách nào chăng nữa: thuế, phí thì nguồn gốc sâu xa của chúng vẫn là ở nền
kinh tế. Khẳng định này có cơ sở thực tiễn và khoa học và có ý nghĩa quan trọng trong
quá trình hoạt động của Nhà nước liên quan đến thu chi các khoản tiền tệ đó. Bởi lẽ việc
tạo nguồn hay sử dụng các nguồn đó có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống
kinh tế xã hội của đất nước. Ví dụ vay nợ, nhìn bề ngoài thì đó là nguồn thu tách rời khỏi
quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên nợ của nhà nước về phương diện vật chất là
một khoản ứng trước thuế của Nhà nước. Vì nguồn trả nợ sau này chính là thuế ...
Về thuế và các khoản phí, lệ phí... Khi các khoản này chuyển vào tay Nhà nước
thì một sự đồng nghĩa xảy ra trong các chủ thể của nền kinh tế là chi. Có nghĩa là Nhà
nước thì thu; Các chủ thể khác trong nền kinh tế là chi.
Mối quan hệ này có thể biểu diễn bằng mô hình sau:
Nhà nước Doanh nghiệp, cá thể
Tăng thu Giảm thu, tăng chi
Tất cả các khoản chi này của các chủ thể nền kinh tế đều đi vào giá thành sản
phẩm xã hội là một trong những cấu thành của GDP. Như vậy, về bản chất, thì các khoản
thu đó không gì khác hơn là một phần của cải của xã hội được chuyển giao cho nhà nước
dưới hình thức bắt buộc hoặc tự nguyện. Nhìn thấy đặc điểm này trong Tài chính công là
một thành công của khoa học. Bởi lẽ nó sẽ giúp cho Nhà nước khi sử dụng các quỹ tài
chính công phải:
- Cân nhắc về tính hiệu quả liên quan đến nền kinh tế.
- Ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến đời sống kinh tế xã hội nếu sử dụng có
hoặc không hiệu quả các quỹ tiền tệ đó.
2.2.3.Tính phức tạp trong việc đánh giá hiệu quả chi tiêu Nhà nước.
Để luận giải rõ ràng đặc điểm này chúng ta cần phải hiểu thế nào là hiệu quả?
Khái niệm về hiệu quả: Hiệu quả là kết quả như yên cầu của công việc mang lại.
Đây là khái niệm có tính chung nhất, nó cũng chưa phản ảnh đầy đủ ý nghĩa trong việc
đánh giá kết quả công việc.
Trong khoa học cũng như thực tiễn hiệu quả của công việc được đo lường băng
hai nhóm tiêu chí. Đó là các tiêu chí thuộc nhóm định lượng và các tiêu chí thuộc nhóm
định tính.
Về định lượng. Hiệu quả chi.tiêu công có thể đánh giá được bằng các tiêu chí
như:
- Tốc độ tăng chi tiêu công / tốc độ tăng trưởng GDP.
- Hệ số đầu tư cho các dự án cụ thể: hệ số ICOR.
- Tỷ trọng chi thường xuyên/ Tổng chi của Nhà nước.
- Tỷ trọng chi tiêu cho một ngành/ Tổng chi so sánh qua thời gian.
- Tốc độ tăng nhân sụt Tốc độ tăng quỹ lương...
Về định tính. Hiệu quả về phương diện định tính không thể đo lường được bằng
các con số, bởi lẽ nó mang yếu tố xã hội và trừu tượng.
Trong khi đó chi các quỹ tài chính công của Nhà nước liên quan đến mọi khía
cạnh trong đời sống chính trị - kinh tế - xã hội, bao trùm mọi khía cạnh trong cuộc sống
của đất nước liên quan đến nhiều ngành nghề, nhiều chủ trương đường lối chủ trương
của Nhà nước, liên quan đến đối nội, đối ngoại...
Ví dụ như, chi cho giáo dục. Chúng ta có thể tính toán Nhà nước phải chi bao
nhiêu tiền cho một học sinh. Nhưng không thể biết rằng sau này học sinh đó sẽ đóng góp
được bao nhiêu cho GDP. Tương tự như vậy, chi để hỗ trợ xã hội cũng không đong đếm
được cụ thể, hoặc chi cho quốc phòng để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ thì không thể xác định
được bằng cái giá cụ thể. Hiệu quả là vô giá.
6
- Vì vậy, mặc dầu có thể đánh giá hiện quả chi tiêu công bằng một số tiêu chí định
lượng, nhưng về tổng thể, sẽ không chính xác và khó khăn khi bóc tách từng khoản chi
ra để đánh giá hiệu quả chi tiết cả phương diện định tính và định lượng và dựa vào đó
đánh giá hiệu quả chi tiêu Tài chính công. Vì vậy hiệu chỉ chi tiêu công được xác định có
thể bằng trạng thái định lượng, nhưng cũng có thể xác định bằng trạng thái định tính,
mang tính cảm nhận bằng cảm quan.
Để minh chứng cho nhận định nói trên. Chúng ta có thể lấy ví dụ về gói kích cầu
mà Chính phủ chi trong năm 2008. Đến nay, Chính phủ và nhiều chuyên gia công nhận
rằng gói kích cầu đó đã mang lại hiệu quả là chống suy giảm kinh tế. Tuy nhiên. mức độ
như thế nào thì chưa có tiêu chí xác định chính xác được, đặc biệt là trong dài hạn. Bởi lẽ
bằng gói kích cầu đó: chúng ta mới chỉ đạt mục tiêu tổng thể là chống được suy giảm
kinh tế, nhưng sẽ đầy đủ và khoa học hơn nêu chúng ta phân tích chi tiết mức độ can
thiệp của Nhà nước. Ví dụ, cần 1000 tỷ đồng hay 15.000 tỷ để có những kết quả như đã
nêu.
2.2.4. Phạm vi hoạt động và ảnh hưởng rộng rải của Tài chính công
Tài chính công có phạm vi hoạt động rộng và chính vì vậy có mức độ ảnh hưởng
sâu rộng đến mọi ngóc ngách của đời sống kinh tế xã hội của quốc gia.
Đặc điểm trên bắt nguồn từ bản chất về nguồn gốc của Tài chính công. Mức độ
ảnh hưởng vi phạm vi hoạt động gắn liền với hoạt động thu chi của Nhà nước. Chúng ta
xem xét từng khía cạnh.
- Trước hết về hoạt động thu của Nhà nước để tạo lập các quỹ tiền tệ:
Nguồn thu nội địa chủ yếu của Nhà nước là thuế. Việc thu thuế, mức thuế...
hưởng đến toàn bộ các hoạt động trong nền kinh tế như: tích lũy, đầu tư, lạm phát, tăng
trường, tỷ giá đồng bản tệ, nguồn thu của nhà nước... Ví dụ, Nhà nước tăng thuế sẽ làm
giảm nguồn tích lũy của tư nhân và hậu quả là giảm khả năng đầu tư cuối cùng là giảm
khả năng phát triển; Hoặc Nhà nước tăng thuế sẽ giảm khả năng tiêu dùng trong nước và
sẽ gây ra hiệu ứng giảm cung...
- Về tín dụng:
Trong trường hợp nguồn thu từ nền kinh tế không đủ, Nhà nước có thể huy động
vốn trên thị trường trong và ngoài nước để bảo đâm cân bằng với nhu cầu chi. Tín dụng
Nhà nước có thể sẽ là nguồn bổ sung để Nhà nước thực hiện chi cho đầu tư, tạo ra cơ sở
vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế - kết quả có tính lan tỏa ra các lĩnh vực khác cho đời
sống kinh tế, xã hội. Tuy nhiên nợ nần của Nhà nước cuối cùng cũng là gánh nặng trên
vai dân chúng trong tương lai... Khi đó dân chúng phải đóng thuế để trả nợ. Điều đó sẽ
có hiệu ứng như đã phân tích trên.
- Tương tự như vậy đối với chi các quỹ tài chính của Nhà nước
Nói đến chi là phải nói đến thu. Nếu không có nguồn Nhà nước không thể thực
hiện chi phí. Tác động đầu tiên đến nền kinh tế - xã hội trong chi tiêu Nhà nước nằm
ngay trong hoạt động thu, như đã đề cập ở phân trên. Nếu xét riêng về chi phí thì chi tiêu
của Nhà nước "đụng chạm" đến "cây kim, sợi chỉ" của người dân. Chi phí của Nhà nước
sẽ tạo ra cơ sở vật chất xã hội, liên quan đến an ninh Quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, cũng
cố và phát triển quan hệ đối ngoại; tạo ra năng lực nội tại của nền kinh tế…
Tóm lại, TTC có phạm vi hoạt động rộng, bao quát tất cả các lĩnh lực trong nền
kinh tế về cả phương diện thu và chi. Vì vậy, việc thu đúng và chi đúng có tác động trực
tiếp và gián tiếp đến hiệu quả kinh tế xã hội của Quốc gia. Nếu thu và chi sai có tác động
nược lại. Đặc điểm này đặt ra cho Nhà nước các bài toán không đơn giản và buộc Nhà
nước phải có đáp số đúng trong quá trình thực hiện vai trò và chức năng quản lý của
mình. Đặc điểm này cũng cho chúng ta hiểu rằng Tài chính công là một công cụ mà Nhà
nước có thể sử dụng để điều tiết kinh tế vĩ mô.
2.2.5. Tài chính công có vai trò dẫn dắt tài chính tư.
7
- Tài chính công có vai trò định hướng, dẫn dắt tài chính tư trong hệ thống tài
chính quốc gia
Hệ thống tài chính trong một quốc gia gồm Tài chính vĩ mô do Nhà nước quản lý
và sử dụng; Tài chính vi mô gồm tài chính doanh nghiệp và tài chính gia đình. Theo mục
đích và ý nghĩa hoạt động, tài chính doanh nghiệp và gia đình được xếp vào
Tài chính công là một phần của Tài chính vĩ mô. Giữa Tài chính công và Tài
chính tư có mối liên hệ lẫn nhau, trong đó Tài chính công cỏ vai trò dẫn dắt: định hướng
hoạt động cho tài chính tư.
Nội dung vai trò định hướng có thể lý giải như sau:
Kết qủa đầu tư của Nhà nước bằng nguồn Tài chính công sẽ tạo ra điều kiện môi
trường thuận lợi cho đầu tư tư nhân như hạ tầng giao thông, trình độ dân trí… Với ý
nghĩa như vậy ta có thể nói rằng Tài chính công là người dẫn đường cho tài chính tư. Đó
là ý thứ nhất
Thứ hai, tính chất dẫn dắt của Tài chính công còn thể hiện ở các chủ trương,
chính sách của Nhà nước có liên quan đến việc sử dụng các quỹ Tài chính công. Ví dụ,
Nhà nước có động thái đầu tư hoặc hỗ trợ một ngành nào đó, giá trị các cổ phiếu của các
doanh nghiệp hoạt động trong ngành đó sẽ tăng, kéo theo luồng tiền tư nhân đầu tư vào
lĩnh vực đó..
Nhận diện được đặc điểm này là rất quan trọng đối với việc quản lý của Nhà
nước về phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Vấn đề là ở chỗ, trong nền kinh tế quốc
gia tồn tại nhiều nguồn lực khác nhau. Nếu biết khai thác thì nguồn lực đó có thể tham
gia vào quá trình chi tiêu của Nhà nước. Nhà nước có thể tiết kiệm được nguồn lực, nếu
chỉ dùng nguồn vốn công của mình như vốn "mồi" phần còn lại sẽ huy động nguồn lực
của kinh tế tư nhân.
2.3. Chức năng tài chính công.
Như chúng ta đã biết Tài chính là một phạm trù kinh tế, giá trị. Trong quá trình
vận hành, các phạm trù giá trị có những chức năng bẩm sinh là phân phối lại các giá trị
vật chất trong nền kinh tế. Khi thực hiện chức năng phân phối, TCC có chức năng đi
kèm là giám đốc, có nghĩa là kiểm tra, giám sát và điều chỉnh quá trình phân phối đó.
2.3.1. Chức năng phân bổ.
Chức năng phân bổ là khả năng khách quan của Tài chính, nhờ đó nguồn lực của
xã hội được tổ chức, sắp xếp, phân phối một cách hợp lý để hoạt động của nền kinh tế
phát triển cân đối, ổn định và hiệu quả.
Thông qua chức năng nói trên, nguồn lực tài chính được phân bổ lại ở hai cấp
bậc.
- Trước hết, việc phân bổ được thực hiện trong giai đoạn đầu - có nghĩa là phân
nguồn lực tài chính và kết quả là một phần của cải của xã hội dưới dạng giá trị được
chuyển giao cho Nhà nước; phần còn lại là tích lũy trong khu vực kinh tế, và dân chúng.
Có thể tạm gọi đây là sự phân bổ giữa nhà nước và thị trường.
- Giai đoạn thứ hai là phân bổ nguồn lực được tạo thành các quỹ tiền tệ: trong giai
đoạn này các chủ thể sở hữu nguồn tài chính được tạo lập, xem xét, cân nhắc, tổ chức và
phân bổ giữa các khoản mục chi tiêu. đáp ứng yêu cầu phát triển cân đối, hài hòa giữa
các vùng, lãnh thổ, giữa các mục tiêu phát triển nền kinh tế.
Thực hiện chức năng này hết sức quan trọng đối với kinh tế, xã hội của Quốc gia.
Nếu nguồn tài lực của xã hội được phân bổ đúng sẽ hướng nền kinh tế phát triển đúng
mục tiêu: nên sai sẽ ngược lại. Ví dụ: Trong quá trình hoạt động thu để tạo lập các quỹ
tiền tệ, các chủ thể Tài chính công phải phân tích: xác định mức động viên nguồn thu
nhập là nền kinh tế bao nhiên là phải. Thông thường, tiêu chí độ đo lường sự hợp lý là tỷ
lệ thu nội địa, chủ yếu là thuế trên GDP. Một sự lạm dụng quá mức sẽ đem lại hậu quả
tiêu cực, có thể lâu dài đối với nền kinh tế Quốc gia.
2.3.2. Chức năng phân phối lại thu nhập giữa các chủ thể.
8
- Chức năng phân phối lại là khả năng khách quan của Tài chính công, nhờ đó Nhà
nước có thể sử dụng Tài chính công như là công cụ phân phối lại thu nhập trong xã hội.
Công cụ hiệu quả nhất để thực hiện việc phân phối lại thu nhập giữa các chủ thể
nền kinh tế, đặc biệt giữa các tầng lợp dân cư là thuế. Thuế là khoản đóng góp bắt buộc.
Nhà nước có thể điều tiết thu nhập dưới nhiều hình thức khác nhau như thông qua việc
đánh thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, đặc biệt là thuế tiêu dùng.
Khi thực hiện thu thuế thu nhập, người có thu thập cao phải chịu mức đóng góp
cao hơn người có thu nhập thấp. Thuế tiêu thụ đặc biệt hoặc thuế gia trị gia tăng cũng là
cơ chế góp phần phân phối lại thu nhập. Người có cuộc sống khá giả sẽ tiêu thụ hàng hóa
và sử dụng hàng hóa xa xỉ nhiều hơn. Vì vậy, các loại thuế đó gián tiếp phân phối lại thu
nhập.
Trong một xã hội, mặc dầu đó là thể chế Xã hội chủ nghĩa hay Tư bản. việc thu
nhập không đồng đều giữa người lao động là điều tất yếu. Nguyên nhân chênh lệch trong
thu nhập có nhiều: có thể là do khách quan cũng có thể là do chủ quan. Nhưng dù chênh
lệch do bất cứ nguyên nhân nào đi nữa, thì việc Nhà nước phân phối lại thu nhập để phục
vụ cho mục đích công bằng xã hội là điều không thể không, bởi lẽ an sinh xã hội. giảm
thấp sự cách biệt về mức sống là trách nhiệm của Nhà nước.
Vấn đề đặt ra là với chức năng phân phối lại như vậy, Tài chỉnh công sẽ được sử
dụng như thế nào là hợp lý. Mặc dù khả năng phân phối lại có tính khách quan nhưng
lạm dụng quá mức sự phân phối lại sẽ làm phát sinh những bất cập trên thị trường lao
động; cuối cùng là ảnh hưởng đến quốc gia. Nói đến điều này là có nguyên do của nó.
Bởi lẽ, thuế tạo ra đồng thời hai hiệu ứng: nó hướng thị trường đến xu hướng hoạt động
có chi phí rẻ hơn. Đó là hiệu ứng thứ nhất, có thể gọi là hiệu ứng thay thế. Hiệu ứng thứ
hai là làm giảm mức thu nhập thực tế của người lao động - tạm gọi là hiệu ứng thu nhập.
Nếu bị điều tiết quá cao, người lao động sẽ không tích cực làm việc để tăng thu
nhập, một đối tượng bị đánh thuế. Trong trường hợp này hiệu ứng thay thế chiếm ưu thế
và làm cho thị trường lao động kém năng động và hiệu quả.
Trong trường hợp hiệu ứng thu nhập trội hơn, có nghĩa là khi bị điều tiết thu nhập
quá lớn, tiêu dùng của họ bị giảm sút, nên họ phải tăng cường làm việc để bù đắp vào
khoản thu nhập đã mất, nhằm duy trì được mức sống…
Nắm được bản chất của chức năng phân phối lại Tài chính công là rất quan trọng,
nó giúp cho việc quản lý một cách khoa học, đúng đắn và hiệu quả.
2.3.3. Chức năng giám đốc thu chi.
Chức năng giám đốc thu chi là khả năng khách quan của Tài chính công nhờ đó
việc tạo lập các quỹ tiền tệ và sử dụng các quỹ đó được kiểm tra, giám sát, đảm bảo việc
thu chi phù hợp với chủ trương, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhờ chức năng nói trên, các cơ quan quản lý Tài chính công có thể thực hiện
kiếm tra việc thu chi phù hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế. Nội dung kiểm tra của
tài chính công là kiểm tra tính hợp lý của việc thu, chi; trong đó cơ cấu thu, chi cần phải
đảm bảo tính hợp lý và cân đối với nhu cầu và chủ trương của Chính phủ về phát triển.
Mục tiêu của việc kiếm tra là hoàn thiện hoặc điều chỉnh những bất hợp lý được
phát hiện trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của Tài chính công.
2.4. Vai trò tài chính công.
Khái niệm về vai trò: Vai trò của Tài chính công là tác động của quá trình hoạt
động tạo lập và sử dụng các quỹ Tài chính công lên các đối tượng khác thông qua việc
thực hiện các chức năng của mình.
Như vậy chúng ta có thể thấy rằng vai trò bao trùm của Tài chính công là bảo
đảm về mặt tài chính cho Nhà nước thực hiện đầy đủ chức năng xã hội của quyền lực
Nhà nước. Vai trò đó được biểu hiện dưới các hình thức sau:
2.4.1. Bảo đảm cho hoạt động của hộ máy Nhà nước.
9
- Bản thân Tài chính công hình thành trong quá trình ra đời và phát triển của Nhà
nước. Hoạt động của Tài chính công do nhà nước tổ chức và thực hiện với mục tiêu là
huy động các nguồn với từ xã hội để tạo lập các quỹ đáp ứng cho các nhu cầu công,
trong đó có chi tiêu của bộ máy Nhà nước.,
2.4.2.Vai trò trong việc thực hiện mục tiêu kinh tế, xã hội.
Tài chính có vai trò quyết định trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội.
Thứ nhất: Nhà nước tạo lập các quỹ tài chính công và phân bổ nguồn tài chính đó
cho các mục tiêu khác nhau, trong đó phần lớn là tập trung cho việc phát triển kinh tế
quốc gia như xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, bao gồm đường sá, cầu cống; môi
trường;...
Thứ hai: Một phần các quỹ tiền tệ được phân bô cho mục tiêu xã hội như xóa đói
giảm nghèo, trợ cấp thất nghiệp, thiệt hại do thiên tai...
2.5. Chủ thể và hệ thống Tài chính công.
2.5.1. Hệ thống tài chính công.
Nhà nước là cơ quan quyền lực của Nhân dân. Để thực hiện quyền lực chính trị
của mình Nhà nước tổ chức thành hệ thống gồm các cơ quan với những chức năng thích
hợp nhằm thực hiện các quyền lực của nhà nước.
Bộ máy Nhà nước của các nước có thể chế chính trị kinh tế khác nhau thường
không giống nhau. Có Nhà nước tổ chức theo thể chế lưỡng viện. Có Nhà nước không
phân chia quyền lực giữa Tổng thống và Chủ tịch nước như Mỹ. Ở Việt Nam bộ máy
Nhà nước được tố chức theo mô hình: Lập pháp - Tư pháp - Hành pháp. Hoạt động của
mỗi khâu trong bộ máy Nhà nước có liên quan đến Tài chính Nhà nước. Tuy nhiên chỉ
những hoạt động có liên quan đến hoạt động của Tài chính công - có nghĩa liên quan đến
tạo lập và sử dụng các quỹ của Tài chính công mới nằm trong hệ thống các chủ thể của
Tài chính công.
Như vậy các yếu tố được xem là câu thành hệ thống Tài chính công nếu chúng
thỏa mãn hệ điều kiện:
Đó là nhà nước hoặc là đại diện của cơ quan Nhà nước.
Hoạt động của các chủ thể đó gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các quỹ Tài
chính công.
Tóm lại: Hệ thống Tài chính công là tổng thể các hoạt động trong lĩnh vực tài
chính của các cơ quan công quyền Nhà nước nhằm tạo lập và sử dụng nguồn Tài chính
công cho việc thực hiện các quyền lực chính trị của Nhà nước.
Như vậy trong hệ thống tài chính công không có cấu thành là các doanh nghiệp
hoặc cá nhân được Nhà nước cấp vốn hoạt động, thậm chí hoạt động bằng 100% vốn của
Nhà nước.
Ở Việt Nam tài chính các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước không thuộc hệ
thống Tài chính công. Vì các chủ thể này không tham gia vào việc tạo lập quỹ công và
sử dụng các quỹ công để phục vụ các mục tiêu công. Tương tự như vậy, các tổ chức, cá
nhân cung ứng dịch vụ công với tư cách là đối tác của Nhà nước cũng không thuộc chủ
thể tài chính công.
Như vậy tài chính công bao gồm:
- Ngân sách Nhà nước
- Tín dụng Nhà nước
- Các quỹ tài chính ngoài Ngân sách Nhà nước.
- Tài chính của các cơ quan hành chính Nhà nước
- Tài chính của các đơn vị sự nghiệp Nhà nước
2.5.2. Phân loại hệ thống Tài chính công.
Các cấu thành trong hệ thống Tài chính công có thể phân loại theo các tiêu chí
khác nhau:
2.5.2.1. Phân theo chủ thể quản lý:
10
- Theo chủ thể quản lý TCC có thể phân chia thành ba bộ phận
a/ Tài chính tổng họp hay còn gọi là tài chính chung của Nhà nước:
Tài chính tổng hợp là các quan hệ thu chi tài chính nhằm đảm bảo cho hoạt động
và và thực hiện chức năng quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước.
Tài chính tổng hợp bao gồm:
- Ngân sách Nhà nước: Ngân sách Nhà nước và là quỹ tiền tệ lớn nhất trong các
Quỹ Tài chính công do các cơ quan chức năng của Nhà nước như Bộ tài chính và Kho
bạc Nhà nước trực tiếp quản lý theo hệ thống dọc từ Trung ương đến địa phương.
- Các Quỹ tài chính ngoài ngân sách Nhà nước, nguồn hình thành các quỹ tài
chính ngoài ngân sách Nhà nước là từ Ngân sách và Nhà nước không trực tiếp quản lý
bàn giao nhiệm vụ cho các chủ thể khác quản lý.
b/ Tài chính của các cơ quan hành chính Nhà nước.
Bộ máy của Nhà nước Việt Nam gồm các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Bộ máy này được tổ chức từ trung ương đến địa phương. Trong quá trình hoạt
động, các cơ quan này có nguồn thu, song so với nhu cầu chi, chiếm một tỷ lệ nhỏ. Vì
vậy, nguồn chi chủ yếu đảm bảo cho hoạt động của 3 cơ quan đó là các quỹ tài chính
công của Nhà nước.
c/ Tài chính của các đơn vị sự nghiệp Nhà nước
Các đơn vị sự nghiệp Nhà nước có nhiệm vụ cung cấp một số dịch vụ công trong
lĩnh vực y tế, văn hóa, nghiên cứu, khoa học… Hoạt động của các đơn vị này không vì
mục tiêu lợi nhuận, vì vậy các nguồn chi chủ yếu của họ cũng lấy từ ngân sách.
Tổ chức sự nghiệp Nhà nước là chủ thể quản lý trực tiếp tài chính của họ.
2.5.2.2. Phân theo nội dung quản lý
Theo nội dung quản lý Tài chính công được phân loại thành:
- Ngân sách NN
- Tín dụng Nhà nước.
- Các quỹ ngoài NSNN.
Ngân sách Nhà nước.
NSNN là quỹ bằng tiền chiếm tỉ trọng lớn nhất trong TCC, được thiết chế theo
ngành dọc từ trung ương đến các xã, phường, nguồn thu chủ yếu của NSNN là thuế;
Tín dụng Nhà nước.
Hoạt động tín dụng Nhàn nước bao gồm đi vay và cho vay. Khi cần vốn bổ sung
cho nguồn TCC, Nhà nước đi vay nước ngoài vay trong nước như bán trái phiếu kho bạc
trái phiếu công trình, trái phiếu giáo dục, công trái quốc gia.
Đặc trưng cơ bản trong hoạt động tín dụng nhà nước là tính hoàn trả.
Các quỹ ngoài NSNN
Các quỹ ngoài NSNN do Nhà nước thành lập nhằm mục tiêu hỗ trợ thêm nguồn
tài chính đế Nhà nước đáp ứng được nhu cầu quản lý và phát triển ngày càng tăng của
quốc gia nhằm giải quyết các vấn đề bất thường trong nền kinh tế do môi trường và các
vấn đề phát sinh trong nền kinh tế thị trường.
Nguồn hình thành các quỹ có 2 nguồn chính. đó là:
- Trích từ NSNN
- Huy động vốn nhàn rỗi từ nền kinh tế và dân cư.
Đặc điểm của việc hình thành và hoạt đọng của quỹ là: quỹ chỉ thành lập khi có
tình huống phát sinh trong nền kinh tế. Ví dụ, thiên tai dẫn đến mất mùa thất nghiệp do
chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Khi sự kiện được giải quyết dứt điểm thì hoạt động của quỹ
TCC ngoài NS cũng chấm dứt.
Hiện nay, ở Việt Nam có các quỹ:
- Qũy dự trữ quốc gia như lúa, gạo, thịt, xăng dầu
- Qũy dự trữ tài chính
- Qũy dự trữ ngoại hối
11
- - Qũy tích lũy trà nợ nước ngoài
- Qũy quốc gia giải quyết vịêc làm và quỹ đào tạo (hiện nay sáp nhập vào Ngân
hàng CSXH).
- Qũy phòng chống ma túy
- Qũy bảo vệ môi trường
- Qũy đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở một số tỉnh, thành phố (7 tỉnh)
- Quỹ bảo hiểm xã hội
12
- Ôn tập chương I
1. Người ta bảo rằng. TCC là thu chi của NN để đảm bảo cho hoạt động của bộ
máy NN?
2. Nội dung các mối quan hệ kinh tế phát sinh giữa NN trong quan hệ thu thuế?
3. Nội dung các quan hệ kinh tế phát sinh giữa NN trong quá trình sử dụng các
quỹ TCC đế phục vụ cho mục tiêu kinh tế xã hội
4. Thu tài chính công của NN năm 2007 chiếm 60% trên GDP: năm 2008 chiếm
70% trên GDP. Đánh giá về mức tăng trưởng đó có 2 ý kiến khác nhau:
a/ Nhờ tăng trưởng kinh tế.
b/ Do NN tăng thu nội địa.
Ý kiến ai là đúng nhất
5. Chủ thể TCC:
a/ Tài chính tống hợp; tài chính của các đơn vị hành chính NN, Tài chính của các
đơn vị sự nghiệp NN.
b/ NSNN; các quỹ ngoài NSNN. tài chính của các đơn vị sự nghiệp NN.
c/ NSNN Tín dụng NN; các quỹ ngoài NSNN.
d/ Tài chính chung của NN; tài chính của các đơn vị sự nghiệp NN; Tài chính của
các đơn vị hàm chính NN; tài chính của các doanh nghiệp NN.
c/ NSNN, các quỹ ngoài NSNN, Tài chính của xã: phường, tài chính của đơn vị
sự nghiệp NN.
13
- CHƯƠNG II
THU TÀI CHÍNH CÔNG
Nội dung.
1. Khái niệm.
2. Phân loại các nguồn thu.
2.1. Theo tính chất
2.2. Phân theo phạm vi lãnh thổ.
3. Cơ cấu thu công:
3.1. Cơ cấp thu và nguyên nhân tác động đến thay đổi cơ cấu.
3.2. Ảnh hưởng của thu công đối với nền kinh tế.
4. Đặc điểm thu công.
4.1. Thu công có tính chất bắt buộc đối với mọi chủ thể trong nền kinh tế.
4.2. Dựa trên cơ sở trao đổi.
4.3. Dựa trên tinh thần thỏa thuận.
4.4. Các khoản thu không mang tính hồi hoàn trực tiếp.
4.5. Thu công để chi công.
5. Các yếu tố ảnh hưởng đến quy mô, tốc độ thu công.
6. Đánh giá thu nhập công
7. Thuế.
7.1. Khái quát về thuế.
7.1.1. Sơ lược về lịch sử của Thuế:
7.1.2. Khái niệm về thuế.
7.2. Đặc điểm của thuế.
7.2.1. Không hoàn trả trực tiếp.
7. 2.2. Tính bắt buộc
7.2.3. Quan hệ hữu cơ với hoạt động kinh tế
7.3. Phân loại thuế
7.4. Độ nổi và độ co giãn của thuế
7.5. Các yếu tố cẩu thành sắc thuế
7.6. Hệ thống thuế hiện hành của Việt nam
8. Phí, lệ phí, thu khác (P, LP)
8.1. Khái niệm về P, LP.
8.2. Đặc điểm.
8.2.1. P, LP có tính chất trao đổi, bồi hoàn trực tiếp.
8.2.2. Sự trao đổi không ngang giá.
8.2.3. Việc thu phí, lệ phí phải thực hiện theo quy định của cơ quan có thẩm
quyền.
8.3. Phân loại phí, lệ phí
8.3.1. Theo chủ thể đầu tư
8.3.2. Theo lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội.
8.3.3. Theo phân cấp quản ty.
8.3.4. Phân theo tính chất của lệ phí.
8.4. Vai trò của phí và lệ phí:
8.4.1. Là nguồn bổ sung thêm cho NSNN
8.4.2. Công bằng xã hội.
8.5. Các loại phí và lệ phí hiện hành ở Việt Nam.
1. Khái niệm:
14
- Để đảm bảo cho nhu cầu chi tiêu của mình, NN dùng quyền lực chính trị để tập
trung một bộ phận của tổng sản phẩm quốc dân vào tay NN, hình thành các quỹ tiền tệ
tập trung quốc gia làm nguồn cho chi tiêu, đảm bảo thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội.
Như vậy: Thu tài chính công là hoạt động của của Nhà nước nhằm tạo lập các
quỹ liền lệ đáp ứng nhu cầu phục vụ cho mục tiêu quản lý và phát triển kinh tế, xã hội
của Nhà nước.
2. Phân loại các nguồn thu.
Tùy thuộc vào mức độ phát triển nền kinh tế, vị trí địa lý và lịch sử nguồn thu
công của các nước khác nhau có thể không giống nhau. Ở Việt Nam chúng ta, các quỹ
tiền tệ được hình thành từ các nguồn như: Thu từ khu vực công, nông, thương ngoài
quốc doanh, thu từ doanh nghiệp Nhà nước; thu từ doanh nghiệp có vốn ĐTNN; thuế sử
dụng đất nông nghiệp; thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; lệ phí trước bạ; thu
xổ số kiến thiết; thu phí xăng dầu; thu phí, lệ phí, các khoản thu về nhà đất; thuế xuất,
nhập khẩu; thuế tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu; Thu chênh lệch giá hàng nhập khẩu;
Thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu; Thu từ dầu thô; Thu từ vay nợ và viện trợ không
hoàn lại...
Dựa vào tính chất, nội dung thu, các nguồn thu nói trên có thể phân loại theo các
tiêu chí như sau:
2.1. Theo tính chất.
- Thuế.
- Phí, lệ phí các loại.
- Thu về tài sản.
2.2. Phân theo phạm vi lãnh thổ.
- Thu trong nước như thuế, cho thuê tài sản, bán tài sản...
- Thu từ ngoài nước như vay nợ và viện trợ ...
3. Cơ cấu thu công:
3.1. Cơ cấu thu và nguyên nhân tác động đến thay đổi cơ cấu.
Thông thường , trong cơ cấu thu công ở các quốc gia và các khu vực khác nhau
không giống nhau. Ví dụ: các nước kinh tế phát triển, thuế chiếm 90% trên tổng thu
công; các nước đang phát triển khoản 80%; riêng Việt Nam - khoảng 40%.
Nghiên cứu cho thấy rằng, các con số nói trên không phải là bất biến mà có sự
thay đổi qua các năm.
Cơ cấu thu công của Việt Nam qua các năm 2003 - 2006:
(Bảng)
Nhìn vào cơ cấu thu của VN chúng ta thấy có hai vấn đề đáng quan tâm.
Ngân sách của chúng ta hiện nay chưa ổn định, thiếu tính bền vững. Thứ nhất là
thu nội địa chỉ chiếm trên 50% tổng số thu, còn lại là thu từ xuất khẩu dầu thô, thuế nhập
khẩu. Do đó, khi kinh tế thế giới có những ảnh hưởng dù rất nhỏ cũng ảnh hưởng đến
ngân sách.
Thứ hai, tỷ trọng thu thuế gián thu (thuế giá trị gia tăng, tiêu thụ đặc biệt) quá lớn
và chủ yếu đánh vào người tiêu dùng, còn thuế trực thu (thu từ kết quả kinh doanh, thu
nhập DN, thu nhập cá nhân) chiếm tỷ trọng nhỏ. Ở các nước. nguồn thu thuế chủ yếu là
thuế thu nhập cá nhân điều tiết trực tiếp từ thu nhập của người lao động, nên ổn định hơn
rất nhiều.
3.2. Ảnh hưởng của thu công đối với nền kinh tế.
Thông thường mức độ chi - thu công có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Nguồn thu
lớn cho phép nhà nước có cơ hội thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội; hoặc để đáp ứng
nhu cầu chi công, Nhà nước phải tăng nguồn thu.
Tuy nhiên, tăng thu có thể sẽ dẫn đến những rủi ro đối với nền kinh tế. Chúng ta
biết rằng nguồn thu của Nhà nước tăng có thể do các yếu tố: Nền kinh tế phát triển, nhờ
15
- đó nguồn thu của Nhà nước tăng. Nhà nước thay đổi các chính sách như tăng thu thuế,
tăng phí xăng dầu, tăng phí và lệ phí các dịch vụ công...
Nền kinh tế thế giới thuận lợi cho tăng trưởng tạo điều kiện cho xuất khẩu của
Việt nam tăng trưởng.
Chính sách tiền tệ - tín dụng của Ngân hàng nhà nước...
- Tăng vay nợ viện trợ.
Rõ ràng, nếu thu công tăng lên do những yêu tố khách quan như nền kinh tế quốc
gia và thế giới thuận lợi cho việc thu công tăng lên thì vấn đề ít bàn cãi. Nhưng nếu Nhà
nước tăng thu công bằng các chính sách hoặc các công cụ hành chính, có thể Nhà nước
sẽ không đạt được mong muốn một cách toàn diện và đầy đủ trong hoạt động thu chi
công.
Vấn đề là ở chỗ cơ cấu thu công nói trên bị thay đổi như thế nào và dưới tác động
ngoại lực khách quan hay ỷ chí chủ quan?
Câu trả lời có thể tìm thấy ở các khía cạnh sau đây:
a/ Nếu mục tiêu thu của Nhà nước đạt được bằng cách tăng thuế thì có thể nền
kinh tế sẽ phải tra giá. Chúng ta biết rằng, thông qua hoạt động của thuế, một phần của
cải của xã hội bị phân bổ và chuyển thành sở hữu của Nhà nước. Do nộp thuế cho NN,
tiết kiệm cá nhân và doanh nghiệp sẽ giảm, kéo theo sự sụt giản sự tích tụ và hình tư bản
trong nền kinh tế, hậu quả là nền kinh tế sẽ thiếu tính năng động và rơi vào trì trệ.
b/ Nếu Nhà nước không tăng thuế và các khoản thu nội địa, nhưng không giảm
nhu cầu chi tiêu được, thì Nhà nước buộc phải vay nợ để bù đắp cho thâm hụt giữa chi
và thu. Trong trường hợp này có hai vấn đề lo lắng phát sinh:
- Thứ nhất: Nếu nhà nước vay vốn trên thị trường nội địa thì, tiết kiệm trong dân
cư giảm - giống như tăng thuế.
Chúng ta biết rằng, NN vay vốn trên thị trường bằng cách phát hành trái phiếu
bán cho công chúng. Công chúng mua trái phiếu của NN đồng nghĩa với việc chuyển
giao cho NN một lượng vốn, đáng ra họ có thể để lại đầu tư các phương án, dự án kinh
doanh, góp phần tăng trưởng kinh tế, Nếu Nhà nước vay vốn nước ngoài, thì nhiều vấn
đề cần phải bàn thảo. Nói chung, các nhà kinh tế đánh giá không mấy khả quan về việc
Nhà nước phải vay vốn nước ngoài nhiều để bù đắp thiếu hụt chi tiêu. Bởi lẽ:
* Vay nợ là một hình thức ứng trước thuế.Khi đến hạn trả nợ Nhà nước cũng phải
dùng nguồn từ thu thuế đề trà nợ. Mọi việc sẽ được lặp lại như luận giải ở phần thu thuế
trên đây.
* Để trả nợ Nhà nước phải tăng trọng xuất khẩu. Điều đó sẽ giảm khả năng tiêu
dùng trong nước.
Từ luận giải trên chúng ta thấy rằng, thu tài chính công là một hoạt động của Nhà
nước nhằm tạo lập các quỹ tiền tệ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội có mối quan hệ
chặt chẽ với hiệu quả kinh tế xã hội. Vì vậy, cơ cấu thu công !à đối tương quân lý của
TCC, nhằm tạo dưng được sự họp lý để phát huy hiệu quả nguồn tài nguyên của đất
nước.
4. Đặc điểm thu công.
4.1. Thu công có tính chất bắt buộc đối với mọi chủ thể trong nền kinh tế.
Các khoản đóng góp bắt buộc này thể hiện rõ nét nhất là thuế. Nội dung tính chất
bắt buộc được lý giải như sau:
Thuế là một đạo luật. buộc mọi người dân mọi doanh nghiệp phải đóng thuế,
không một ai có quyền từ chối nghĩa vụ của mình nếu người đó có đối tượng thu nhập
hoặc đối tượng giao dịch phải chịu thuế.
Về bản chất vay nợ là khoản thuế ứng trước. Tuy nhiên, vay nợ không được liệt
kê vào khoản thu bắt buộc, vì vay nợ là để bù đắp thâm hụt ngân sách và có quan hệ đến
thuế trong dài hạn, mà không làm ảnh hưởng đến mức đóng góp bắt buộc về ngắn hạn.
4.2. Dựa trên cơ sở trao đổi.
16
- Thị trường Nhà nước và tư nhân đều tham gia cung cấp dịch vụ. Trong đó, những
dịch vụ công cộng như đường sá, cầu cống. môi trường, y tế... có chi phí đầu tư lớn, thời
gian thu hồi vốn dài hạn; có ảnh hưởng rộng lớn đến cuộc sống kinh tế, xã hội của quốc
gia đều do NN đảm nhiệm việc đầu tư và cung cấp chúng ta có thể gọi đó là thị trường
dịch vụ công, hay thị trường công.
Đặc điểm của thị trường công là ai cũng có quyền sử dụng; không ai được quyền
loại ai; mặc dầu sự đóng góp là không công bằng.
Như vậy thông qua việc cung cấp hàng hóa công, Nhà nước thực hiện để bù hoàn
một phần chi phí bỏ ra.
Khoản thu này có tính chất trao đối: "mua - bán".
4.3. Dựa trên tinh thần thỏa thuận.
Một số khoản thu công dựa vài nguyên tắc thỏa thuận. Ví dụ như: tín dụng viện
trợ... Đặc điểm các quan hệ vay mượn là có sự thỏa thuận của hai bên là giữa người vay
là NN và người cho vay về thời hạn vay, trả lãi suất và các điều kiện khác... Tương tự
như vậy, viện trợ cũng dựa vào ý tưởng thỏa thuận.Bên viện trợ và bên nhận viện trợ
cũng có thỏa thuận về mục đích, số tiền và giao nhận...
4.4. Các khoản thu không mang tính bồi hoàn trực tiếp.
Các khoản thu TCC không mang tính bồi hoàn trực tiếp.
- Mục đích của Nhà nước trong việc tạo lập các quỹ tài chính công là để phục vụ
cho cộng đồng. Việc sử dụng các dịch vụ công không phụ thuộc vào giá trị các khoản
đóng góp để thành lập các nguồn tài chính của NN. Như vậy, Khi sử dụng các quỹ tài
chính cho mục đích công không có tính chất bồi hoàn các khoản đóng góp.
- Người có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ không được đòi hỏi NN phải cung cấp
dịch vụ đổi lấy việc nộp các khoản theo luật định.
- Giá trị dịch vụ Nhà nước cung cấp trong quá trình phân phối lại các khoản thu
có thế không tương thích với giá trị nghĩa vụ người dân phải thực hiện
4.5. Thu công để chi công.
Các khoản thu đế tạo lập quỹ công, và sử dụng quỹ đó gắn chặt với việc đảm bảo
cho NN thực hiện chức năng quản lý của NN. Hoạt động của NN là hoạt động công, vì
vậy thu công chỉ đề chi công gồm các khoản chi công không còn các khoản chi cho bất
cứ mục đích nào khác.
5. Các yếu tố ảnh hưởng đến quy mô. tốc độ thu công.
Nền kinh tế phát triển , nhờ đó nguồn thu của Nhà nước tăng.
Nhà nước thay đổi các chính sách như tăng thu thuế, tăng phí xăng dầu, tăng phí
và lệ phí các dịch vụ công ...
Nền kinh tế thế giới thuận lợi cho tăng trưởng tạo điều kiện cho xuất khẩu của
Việt Nam tăng trưởng.
Chính sách tiền tệ - tín dụng của Ngân hàng nhà nước…
- Dân trí.
Trình độ dân trí cao sẽ là yếu tố nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Trình độ
người lao động cao. Ý thức lao động nghiêm túc sẽ là động lực thúc đẩy và nâng cao
năng suất lao động - là yếu tố hạ giá thành sản phẩm, tăng thu nhập cho doanh nghiệp,
dân cư; giảm chi phí tiêu dùng, tiết kiệm và tích lũy - là nguồn để đầu tư phát triển.
- Năng lực điều hành của Nhà nước.
Bộ máy NN hoạt động có hiệu quả, có năng lực điều hành nền kinh tế sẽ đề ra
được những chủ trương đúng đắn cho phát triển nền kinh tế. giải quyết kịp thời những
vấn đề kinh tế - xã hội phát sinh trong cuộc sống;
Bộ máy NN hoạt động hiệu quả được phản ảnh dưới các tiêu chí tinh gọn và tiết
kiệm chi phí công. Nguồn tiết kiệm đó sẽ là một trong những yếu tố giảm bội chi ngân
sách, hạn chế lạm phát và là yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Cơ quan thu thuế.
17
- - Cơ chế thanh toán.
Một cơ chế thanh toán hợp lý, với tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt sẽ tạo
điều kiện thuận lợi để thanh toán công nợ trong nền kinh tế. Một cơ chế thanh toán hiệu
quả sẽ thúc đẩy chu chuyển thanh toán nhanh, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất -
lưu thông hàng hóa - là yếu tố tạo nguồn thu cho NN.
Cơ chế thanh toán hiệu quản sẽ thúc đẩyr nhanh chóng vòng quay của tiền tệ, góp
phần hạn chế phát hành tiết kiệm được chi phi, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ
quốc gia.
Bên cạnh cơ chế thanh toán hạch toán kế toán trong nền kinh tế có vai trò quan
trọng đối với nguồn thu của NN. Hạch toán và phàn ảnh đầy đủ các chi phí xã hội sẽ làm
cho xã hội minh bạch, chi phí xã hội được thể hiện thực chất trong giá trị hàng hóa góp
phần chống lãng phí, thất thoát và tham nhũng - là yếu tố thúc đẩy tăng trưởng nền kinh
tế.
6. Đánh giá thu nhập công
6.1. Khái niệm đánh giá thu nhập công
Thế nào là đánh giá thu nhập công?
Đánh giá thu nhập công là dựa vào các quan điểm phương pháp và các chỉ tiêu để
phân tích tính hợp lý, hiệu quả thu nhập công trên phương diện kinh tế -xã hội và chính
trị .
6.2. Tiêu chí đánh giá thu nhập công.
- Khả năng huy động.
- Cơ cấu thu nhập công.
- Khả năng tài trợ chi tiêu công.
- Khả năng trả nợ
- Khả năng vay nợ
7. Thuế.
7.1. Khái quát về thuế.
7.1.1. Sơ lược về lịch sử của Thuế.
Thuế là nguồn thu quan trọng của NN. Sự ra đời của thuế là đòi hỏi khách quan
gắn bó hữu cơ vô sự hình thành NN. Để duy trì và thực hiện các chức năng nhiệm vụ của
mình, Nhà nước cần phải có cơ sở vật chất dưới dạng hiện vật hoặc bằng tiền. Vì vậy,
NN thi hành các chỉnh sách do NN đặt ra để tập trung một phần tài sản của xã hội vào
tay NN bằng cách dùng quyền lực bắt buộc các chủ thể trong nền kinh tế như doanh
nghiệp, công dân phải thực hiện các chính sách của mình. Một trong các chính sách đó là
thuế.
Đến nay thuế là một ngành trong nền kinh tế quốc dân, có lịch sử ra đời và phát
triển phong phú. Thuế trải qua các giai đoạn:
a- Giai đoạn thứ nhất: Bắt đầu từ thế giới cổ đại đến thế kỷ XVI. Đặc trưng giai
đoạn này là thuế mang tính thô sơ và NN chưa hình thành bộ máy thu thuế hoàn chỉnh.
Không ai nhớ rõ thuế ra đời cụ thể vào thời gian nào, nhưng nhiều nghiên cứu cho thấy
rằng, thuế ra đời đầu tiên trong thế giới La mã cố đại. Đất nước này ban đầu chỉ bao gồm
thành phố Ro Ma. Khi đó, Hội đồng thành phố làm việc không có tiền công, ngược lại
các thành viên Hội đồng thành phố còn cống hiến của cải của mình cho hoạt động của
thành phố. Chi tiêu của Nhà nước chủ yếu là trang trải cho việc đắp thành lũy, xây dựng
nhà ở. Các khoản thu này được trang trải bằng các khoản thu về thuế đất. Khi chiến tranh
xảy ra. Nhà nước bắt đầu áp dụng chế độ thu thuế, lao dịch rộng rải để đáp ứng cho nhu
cầu gia tăng của Nhà nước.
Đầu tiên NN thu thuế theo chế độ hà khắc. Tất cả các khoản thu thuế đều phải
nộp ở mức 10% trên giá trị tài sản phải nộp thuế hoặc NN trưng thu. Sau này mới hình
thành chế độ thuế đánh trên 10% giá trị tài sản. Vào thế kỹ thứ VII-VI trước công
nguyên. NN Hy Lạp cổ đại mới áp thuế có phân biệt hai mức là 10 % và 20% .
18
- Trong quá trình phát triển, các đối tượng nộp thuế được thay đổi và bổ sung, làm
cho nguồn thu của NN thời bấy giờ được tăng lên nhanh chóng.
Tuy nhiên, trong thời kỳ đó việc thu thuế được NN giao nhiệm vụ cho một số
người thực hiện. Vì vậy việc nhũng nhiễu, mua chuộc đút lót tham nhũng đã phát sinh
góp phần làm phát sinh cuộc khủng hoảng kinh tế ở La Mã vào thế kỷ thứ I trước công
nguyên.
Bước sang thời kỳ của vua Oktavian (năm 63-14 trước công nguyên) đã thành lập
cơ quan của Chính phủ để kiểm tra giám sát việc thu thuế. Tuy nhiên, việc thu thuế cũng
lại giao cho các lãnh địa thực hiện. NN chỉ thông qua quốc khố xem xét và giao mức
thuế phải nộp cho các địa phương và chỉ kiểm tra việc thu đủ. Thuế thời kỳ La Mã cũng
được phân ra nhiều loại như thuế đánh vào doanh thu ở mức 1% trên thu nhập, thuế đặc
biệt tính trên doanh thu buôn bán nô lệ là 40%; thuế trả tự do cho người nô lệ được thu ở
mức 5% trên giá thị trường.
Vừa thời kỳ vua Oktavian August ban hành loại thuế thừa kế ở mức 5% đối với
người La Mã.
b- Giai đoạn tìm thế kỷ XIV đến đầu thế kỷ XIX. Đây là giai đoạn hình thành bộ
máy và hệ thống thu thuế tương đối hoàn chỉnh.
Vào thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII NN hiện đại xuất hiện ở Châu Âu. Do chưa có
đội ngũ thu thuế đầy đủ nên Chính phủ giao cho các chủ thái ấp thực hiện. Một số quốc
gia cho đấu giá quyền thu thuế. Số thuế thu được được nhượng lại một phần cho các chủ
ấp, và số còn lại phải nộp ngay vào ngân khố NN sau đó các chủ thái ấp nhận được tiền
công khi thực hiện trọng trách quốc gia. Do vậy Ngân sách quốc gia bị nghèo nàn.
Năm 1662 Pháp đã ban hành các văn bản pháp luật, hạn chế phần hoa hồng cho
các chủ thái ấp. Chính phủ Pháp đã chuyên các tổ chức thu thuế vào hệ thống NN nên
việc thu thuế trở nên trật tự hơn. Nhờ vậy nguồn thu của NN ngày càng tăng lên...
Vào thế kỷ thứ XVIII các quốc gia Tây Âu đã thành lập cơ quan chuyên trách của
Chính phủ để kiểm soát việc thu thuế.
Trong thời gian này ở các quốc gia Châu âu đã xuất hiện nhiều loại thuế, nhưng
không có khoản thu lớn.
Nguồn thu chủ yếu của NN là thuế thân. Giới quý tộc và tăng lữ không phải nộp
thuế thân. Trong khi đó, giai cấp tư sản và nông dân phải nộp cho chính phủ 10- 15%
toàn bộ thu nhập của mình. Các quan chức NN, quân đội được thăng chức cũng phải nộp
thuế.
c- Giai đoạn từ thế kỷ XIX cho đến nay: hệ thống thu thuế hoàn chỉnh.
Thuế có lịch sử phát triển lâu đời , nhưng đến nay vẫn có nhiều khái niệm khác
nhau về thuế.
Trong giai đoạn này. hầu hết các nước đã hình thành hệ thống luật tương đối đầy
đủ về thuế và dã thành lập các cơ quan thu thuế như mọt bộ máy chuyên trách.
Tuy rằng, thuế có lịch sử lâu đời nhưng đến nay khái niệm về thuế cũng chưa có
sự thống nhất.
7.1.2. Khái niệm về thuế.
Theo C.Mac thì: "Để duy trì quyền lực công cộng đó (ý nói là NN) cần phải có sự
đóng góp của những người công dân của NN đó là thuế."
Theo Nhà kinh tế học Gaston Jeze: Thuế là một khoản trích nộp bằng tiền, có tính
chất xác định, không hoàn trả trực tiếp do các công dân đóng góp cho NN thông qua con
đường quyền lực nhằm bù đáp những chi tiêu của. Trên giác độ phân phối, người ta định
nghĩa thuế là hình thức phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm quốc dân nhằm hình
thành các quỹ tiền tệ tập trung của NN để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ của NN.
7.2. Đặc điểm của thuế
7.2.1. Không hoàn trả trực tiếp.
19
- Thuế là một sắc lệnh. Người nộp thuế có nghĩa vụ nộp thuế theo luật định, không
có quyền đòi hỏi NN phải cung cấp dịch vụ cho người nộp thuế để đổi lấy giá trị thuế đã
nộp.
Người nộp thuế không có quyền đòi hỏi NN phải hoàn trả lại số thuế đã nộp với
lý do là không nhận được các dịch trực tiếp từ NN hoặc nhận được dịch vụ nhưng giá trị
không tương xứng với số thuế đã nộp.
* Các khoản thu của NN. trong đó có thuế nhằm tạo lập quỹ tiền tệ của NN cho
mục tiêu quản lý và phát triển kinh tế xã hội; trong đó có việc cung cấp các sản phẩm,
hàng hóa công cho mọi cá nhân tổ chức. Người nộp thuế và người không nộp thuế. nộp
nhiều, nộp ít đều được hưởng một cách gián tiếp các thành quả đóng góp của mình.
7.2.2. Tính bắt buộc
Nhà nước thu thuế trên cơ sở luật định buộc mọi người phải tuân thủ, lý do:
- Hình thức chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không gắn với lợi ích cụ
thể của người nộp thuế, do đó không áp dụng phương thức tự nguyện trong việc chuyển
giao.
- Nhà nước là người cung cấp hàng hóa công cộng cho xã hội, nhưng chi phí cho
việc cung cấp hàng hóa công cộng không phải được hoàn vốn đầy đủ, trong khi đó
không phải ai cũng tự nguyện đóng góp của cải cho chi phí của NN; vì vậy để đảm bảo
duy trì việc cung cấp hàng hóa cho xã hội NN phải dùng quyền lực của mình buộc mọi
người phải đóng thuế.
Hiến pháp nước CHXHCN VN- điều 80 quy đỉnh công dân có nghĩa vụ đóng
thuế và lao động công ích. Tính bắt buộc của thuế là yểu tố phân biệt giữa hình thức bắt
buộc và hình thức tự nguyện trong việc đóng góp
7.2.3. Quan hệ hữu cơ với hoạt động kinh tế
Thuế là một phần của cải xã hội, được hình thành trong quá trình phân phối thu
nhập của cá nhân và thể nhân. NN đánh thuế chính là NN tham gia phân phối lại của của
cải xã hội, nhằm tập trung một phần thu nhập của quốc dân vào tay NN. Sản phẩm của
xã hội là do con người làm ra trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì
vậy nguồn gốc của thuế là kết quả hoạt động kinh tế xã hội; hay nói một cách khác thuế
có quan hệ hữu cơ với hoạt động kinh tế xã hội.
7.3. Phân loại thuế
7.3.1. Theo đối tượng tính thuế.
- Thuế tiêu dùng: TTD là loại thuế có đối tượng chịu thuế là phần thu nhập được
mang tiêu dùng hiện tại. Ví dụ VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt thuế doanh thu…
- Thuế thu nhập: TTN là các loại thuế có đối tương chịu thuế là thu nhập nhận
được. Ví dụ: Lương, thu nhập Doanh nghiệp…
- Thuế tài sản: TTS là các loại thuê có đối tượng chịu thuế là giá trị tài sản. Ví dụ:
chứng khoán, thương phiếu, nhà cửa đất đai, xe cộ...
7.3.2. Phân theo phương pháp định thuế
Thuế gián thu: TGT là một sắc thuế mà người nộp thuế theo luật định có khả
năng chuyển giao số thuế họ phải nộp cho người khác chịu. Nói cách khác, TGT là loại
thuế không trực tiếp đánh vào thu nhập hoặc tài sản của người nộp thuế mà đánh một
cách gián tiếp thông qua giá cả hàng hóa, dịch vụ. Ví dụ VAT, TTĐB, thuế XNK.
Thuế trực thu: TTT là sắc thuế.mà theo đó người nộp.thuế không có khả năng
chuyển giao số thuế họ phải nộp cho người khác. Nói một cách khác, TTT là loại thuế
đánh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản cửa người nộp thuế.Ví dụ: TNDN, TNCN, Tài
sản...
7.3.3. Theo mối tương quan với thu nhập.
Thuế lũy tiến: TLT là loại thuế phải nộp theo mức tăng dần với mức độ tăng của
cơ sở tính thuế Nói cách khác: thuế tăng dần theo giá trị của đối tượng nộp thuế. Ví dụ,
thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.
20
nguon tai.lieu . vn