Xem mẫu
- 1. VỊ TRÍ, MỤC TIÊU VÀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỦA
TỈNH NINH BÌNH
1.1Vị trí địa
Tỉnh Ninh Bình nằm ở cực Nam đồng bằng Bắc bộ, có toạ độ địa lý
19050' đến 20027' vĩ độ Bắc, 105032' đến 106027' kinh độ Đông, cách thủ đô Hà
Nội 93km về phía Nam. Dãy núi Tam Điệp chạy theo hướng Tây Bắc - Đông
Nam, làm ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Ninh Bình và Thanh Hoá. Phía Đông và
Đông Bắc có sông Đáy bao quanh, là ranh giới tự nhiên với hai tỉnh Hà Nam và
Nam Định, phía Bắc là tỉnh Hoà Bình, phía Nam là biển Đông.
Ninh Bình có diện tích tự nhiên 1.389,1km², với chiều dài bờ biển 18km,
dân số 936.262 người. Toàn tỉnh có 62.000ha đất sản xuất nông nghiệp, trong đó
đất canh tác 47.000ha; đất lâm nghiệp có rừng 29.000ha và trên 6.000ha diện tích
đất đồi, núi đá.
Ninh Bình có vị trí chiến lược quan trọng, là nơi tiếp nối giao lưu kinh tế
và văn hoá giữa lưu vực sông Hồng với lưu vực sông Mã, giữa vùng đồng bằng
Bắc bộ với vùng núi rừng Tây Bắc của Tổ quốc. Trên địa bàn tỉnh có Quốc lộ
1A, Quốc lộ 10; 12A; 12B và đường sắt Bắc - Nam chạy qua cùng hệ thống
sông ngòi dày đặc như: sông Đáy, sông Hoàng Long, sông Càn, sông Vạc, sông
Vân,...tạo thành mạng lưới giao thông thuỷ, bộ rất thuận tiện cho giao lưu, phát
triển kinh tế trong và ngoài tỉnh.
Tài nguyên du lịch của Ninh Bình (tự nhiên, nhân văn) tương đối phong
phú, đa dạng bao gồm cả núi, hồ, rừng, các di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng,...
Đây là một lợi thế quan trọng, tạo tiền đề phát triển nhiều loại hình du lịch, góp
phần đẩy nhanh tốc độ phát triển ngành du lịch Ninh Bình trong những năm tới.
Tài nguyên du lịch Ninh Bình được phân bố tương đối tập trung ở một số
khu vực chính như: Hoa Lư, Gia Viễn, Nho Quan, Phát Diệm, với khu du lịch
nổi tiếng Tam Cốc - Bích Động, rừng Cúc Phương, nhà thờ đá Phát Diệm,... và
mới đây nhất là khu du lịch sinh thái Tràng An. Những khu vực này có sự kết
hợp giữa tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn. Đây là đặc điểm thuận
lợi cho việc hình thành những khu du lịch trọng điểm, có sức hấp dẫn thu hút du
khách trong và ngoài nước.
- 1.2Mục tiêu và chiến lược phát triển du lịch
Trong những năm qua du lịch Ninh Bình đã và đang phát triển đúng
hướng. Cơ cấu kinh tế đang dịch chuyển từ nông nghiệp sang dịch vụ, du lịch
theo định hướng phát triển du lịch bền vững. Thu nhập từ các hoạt động du lịch
mang lại đã phần nào nâng cao đời sống nhân dân, góp phần xoá đói giảm nghèo
tại một số địa phương. Để có kết quả như trên Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, Sở Văn
hoá, Thể thao và Du lịch đã tiến hành từng bước cụ thể, theo lộ trình đã được
hoạch định và đã đạt được một số thành tựu đáng kể, cụ thể:
Năm 2009 Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã tham mưu cho Ban chấp
hành Đảng bộ tỉnh ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TU ngày 13/7/2009 về phát
triển du lịch đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. UBND tỉnh ban hành kế
hoạch số 07/KH-UBND ngày 17/7/2009 về thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TU.
Từ đó để triển khai thực hiện chủ trương, định hướng phát triển du lịch, ngành
Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã xây dựng kế hoạch chi tiết thực hiện Nghị
quyết số 15 của Tỉnh uỷ theo từng năm và qua từng thời kỳ phù hợp với tình
hình phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh.
Thực hiện Luật Du lịch, Ninh Bình là tỉnh đầu tiên trong cả nước đã
mạnh dạn tiến hành nghiên cứu áp dụng xây dựng mô hình ban quản lý khu du
lịch để quản lý khu du lịch.
Công tác đầu tư cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kinh doanh du lịch được
quan tâm, chú trọng. Hiện nay, có 5 dự án đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch bằng
nguồn vốn ngân sách, với tổng số vốn đầu tư là 2.842,3 tỷ đồng. Các công trình
đã bước đầu hoàn thiện và đưa vào khai thác sử dụng có hiệu quả như dự án:
xây dựng cơ sở hạ tầng khu du lịch sinh thái Tràng An, khu du lịch sinh thái Vân
Long, khu du lịch Tam Cốc – Bích Động... Nhờ có cơ sở hạ tầng du lịch tốt nên
đã thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến đầu tư phát triển du lịch trong
- tỉnh. Nối liền các tuyến điểm du lịch trong tỉnh cũng như trong vùng tạo nên tính
đa dạng và liên vùng cao.
Cơ sở lưu trú du lịch trên địa bàn tỉnh ngày một hoàn thiện. Nếu năm 2000
toàn tỉnh chỉ có 25 cơ sở kinh doanh lưu trú du lịch với 240 phòng ngủ thì đến
nay (tính đến 31/5/2010) toàn tỉnh đã có 126 cơ sở lưu trú du lịch với 2.377
phòng ngủ. Ngành đã tiến hành phân loại hạng cơ sở lưu trú du lịch trên địa bàn
toàn tỉnh, trong đó có 19 khách sạn 2 sao, 3 khách sạn 1 sao, 104 nhà nghỉ đạt tiêu
chuẩn phục vụ khách du lịch. Riêng các dự án của các tổ chức, cá nhân đầu tư
phát triển kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh tính đến nay đã có 47 dự án, với
tổng số vốn là 9267,714 tỷ đồng. Tiêu biểu như dự án khu sân gôn 54 lỗ hồ Yên
Thắng, các dự án khu du lịch sinh thái Vân Long, khu khách sạn trung tâm thành
phố Ninh Bình
Để phát triển du lịch hơn nữa, trong thời gian tới ngành du lịch Ninh Bình
đã định hướng phát triển các loại hình du lịch mang tính đặc thù, tập trung phát
triển các loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch văn hoá, lịch sử gắn với
tâm linh. Trong đó chú ý các giải pháp:
Tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch tốt đến các khu điểm du lịch
trên
toàn tỉnh, chú ý xây dựng các công trình phục vụ cho các hoạt động kinh doanh
du lịch với lối kiến trúc gắn liền với văn hoá vùng miền đặc trưng.
Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ du lịch cho cán bộ công
nhân viên trong ngành, người dân tham gia làm du lịch để đáp ứng nhu cầu
ngày một cao của khách du lịch.
Phát triển làng nghề, cung cấp sản phẩm phục vụ dịch vụ bán hàng lưu
niệm cho khách du lịch.
Khai thác hợp lý những sản vật địa phương để thông qua đó giới thiệu về
văn hoá, truyền thống lâu đời của Ninh Bình một miền quê ngàn năm văn hiến.
Tập trung công tác quảng bá xúc tiến du lịch thông qua báo đài, truyền
hình trung ương, địa phương; sách, tập gấp đến với du khách trong và ngoài
nước để khai thác khách du lịch tiềm năng đến du lịch tại Ninh Bình.
Từ các hoạt động này du lịch Ninh Bình đã và sẽ được đánh giá đúng mức
đối với sự phát triển chung trong nền kinh tế của tỉnh cũng như của cả nước.
Sẽ đánh dấu trên bàn đồ Việt Nam và bản đồ thế giới là điểm đến hấp dẫn,
an toàn và thân thiện đối với du khách trong và ngoài nước.
2. KIỂM KÊ, ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH.
- 2.1Tài nguyên du lịch:
2.1.1 Cố đô Hoa Lư:
Hoa Lư là cố đô của nước Đại Việt từ thế kỷ X, nằm trên địa phận của
xã Trường Yên Thượng và Trường Yên Hạ, thuộc thị trấn Hoa Lư – Ninh Bình
cách Hà Nội theo quốc lộ 1A đi khoảng 90 km đến thị trấn Hoa Lư rẽ phải
4km là tới. Cố đó nằm ở phía Nam của đồng bằng Bắc Bộ, rộng khoảng 300
ha được bao quanh bởi hàng loạt núi đá vòng cung, cảnh quan hùng vĩ. Khoảng
trống giữa các sườn núi được xây kín bằng đất ken gạch, chân thành có gạch
bó, đắp cao từ 8-10 mét. Kinh đô Hoa Lư bao gồm Thành Ngoại, Thành Nội và
Thành Nam.
Thành Ngoại rộng khoảng 140 ha thuộc địa phận thôn Yên Thành xã
Trường Yên. Ðây là cung điện chính mà khu vực đền Ðinh, đền Lê là Trung
tâm và cũng chính là nơi vua Ðinh Tiên Hoàng cắm cờ nước. Trước cung điện
có núi Mã Yên tương truyền vua Ðinh lấy núi làm án.
Thành Nội thuộc thôn Chi Phong, xã Trường Yên có tên là Thư Nhi xã,
nơi nuôi trẻ em và những người giúp việc trong cung đình.
Thành Nam (thành ở phía Nam, từ hang luồn trở vào trong, nằm đối diện
và nối liền với khu Thành Ngoại). ở đây xung quanh có núi cao bao bọc, án ngữ
phía Nam kinh thành, bảo vệ mặt sau, từ đây bằng đường thuỷ có thể nhanh
chóng rút ra ngoài.
Phía Ðông kinh thành có núi Cột cờ, nơi có lá quốc kỳ Ðại Cồ Việt, có
ghềnh tháp-nơi vua Ðinh duyệt thuỷ quân, hang Tiền nơi lưu giữ tài sản quốc
gia, động Thiên Tôn- tiền đồn của Hoa Lư và là hang nhốt hổ, báo để xử kẻ có
tội.
Ðến đời Lê Hoàn đã cho xây thêm nhiều cung điện lộng lẫy: điện Bách Thảo
Thiên Tuế, điện Phong Lưu ở phía Ðông, điện Vinh Hoa ở phía Tây, điện Bồng
Lai bên tả, điện Cực Lạc bên hữu, lầu Hoả Vân và điện Trường Xuân, điện
Long Lộc được lợp ngói làm bằng bạc
Năm 1010 vua Lý Thái Tổ dời kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng
Long( Hà Nội). Hoa Lư trở thành cố đô.
"Hoa Lư là nơi núi non trùng điệp. Núi trong sông, sông trong núi. Căn cứ thủy
bộ rất thuận tiện. Sau lưng là rừng, trước mặt là đồng bằng, xa nữa là biển
cả... Nơi đây non sông tráng lệ, phong thủy hài hòa, xứng đáng chọn để dựng đô
được."
2.1.2 Đền vua Đinh, vua Lê:
Đền vua Đinh
Tương truyền đền được xây dựng vào đầu thời Lý. Lúc đầu đền quay về
phía Bắc trông ra núi Thời, núi Chẽ nằm trong khu vực kinh đô xưa. Đền đã
được tu sữa nhiều lần. Đầu thế kỷ XVII, Phong quận công Bùi Thời Trung đã
- xây dựn lại ngôi đền như cũ nhưng quay về phía Đông. Đến năm 1676 nhân dân
lại hưng công trùng tu. Năm 1898 cụ Bá kiến Dương Đức Vĩnh đã cho trùng với
quy mô lớn.
Đền vua Đinh mang kiến trúc mỹ thuật thười Lê và thời Nguyễn theo
kiến trúc “nội Công, ngoại Quốc”, đường đi lát chữ “Vương”, phỏng theo cung
điện xưa
Ngườiọ môn quan: mặt trong có 4 chữ “Tiền triều phượng khuyết”, phía
ngoài “Bắc môn tỏa thuộc”
Nghi môn quan, long sàng và có hai con nghê tạc bằng đá xanh, bên trái có
nhà vọng là nơi các cụ bàn việc tế l, bên phải có nhà Khải Thánh thờ cha mẹ
vua Đinh, giữa vườn hoa có chữ “Quốc”.
Qua nghi môn nội là sân tế, đặt long sàng bằng đá có kích thước dài 1,8m
rộng 1,4m, cao 0,95m. Long sàng được chạm khác rồng, mây tinh xảo, mang
phong cách nghệ thuật điêu khắc thười Lê.
Đền có 3 tòa nhà là bái đường, thiêu hương, thượng điện làm theo kiểu
chồng rường hạ kẻ. Tất cả các đầu dư, kẻ bẩy, cốn đều được chạm khắc tinh
xảo.
Bái đườn có bức đại tự ”Chính thống thủy”
Ở chính cung có câu đối ca ngườiợi sự thống nhất đất nước của vua
Đinh Tiên Hoàng:
“Ngã Nam Đế Thống Đệ nhất ký
Trường Yên Miếu mạo vạn thiên niên”
Đền vua Lê
Về lịch sử kiến trúc gần giống đền vua Đinh. Tuy nhiên không được
trùng tu vào cuối thể kỷ XIX như đên vua Đinh nên về hình thức và trang trí có
nhiều hạn chế.
Đền bao gồm bộ phận kiến trúc và điêu khác như sập đá, nghi môn
ngoại, tiếp đến là Từ Vũ – nơi thờ Khổng Tử, hòn non bộ dáng “phượng vũ”, ao
sen.
Nghi môn nội, hai bên có “nhà vọng” đẻ các cụ bàn việc tế lễ. Giữa có
hòn non bộ dáng “phượng vũ” và “phượng ấp”. Giáp nhà vọng là nhà vọng là
nha bia
Qua cột đồng trụ là sân rồng, giữa sân có sập “Long sàng” bằng đá tượng
trưng nơi vua ngự triều, xung quanh có hàng cột để cắm bát bửu, cờ, khí trong
các ngày hội, tượng trưng thứ bậc các quan.
Đền có ba tòa là bái đường, thiêu hương và chính cung. Đền vua Lê tuy
không được trùng tu bằng đền vua Đinh nhưng còn giữ được nhiều mảng điêu
khắc thời hậu Lê.
2.2 Quy hoạch du lịch:
- Lượng khách đến Ninh Bình năm 2009 là 2.390.905 lượt khách, trong đó
khách quốc tế: 601.785 lượt khách, khách nội địa: 1.789.120 lượt khách. Tính
riêng 6 tháng đầu năm 2010, toàn ngành đón 2.304.357 lượt khách, đạt 145,55%
so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó khách quốc tế: 45.987 lượt, khách nội địa:
138.155 lượt, đạt 155,59 % so với cùng kỳ năm 2009. Cơ sở lưu trú du lịch đến
nay toàn tỉnh đã có 126 cơ sở lưu trú du lịch với 2.377 phòng ngủ.
Chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm
2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã xác định Hoa Lư – đền vua Đinh,
vua Lê, một bộ phận quan trọng của Di sản Cố đô Hoa Lư – đền vua Đinh, vua
Lê, là điểm đến quan trọng trong hệ thống các khu du lịch quốc gia. Điều này là
minh chứng khẳng định về những giá trị đặc biệt ở tầm quốc gia của quần thể
Cố đô Hoa Lư – Tràng An từ góc độ du lịch. Phát triển du lịch Cố đô Hoa Lư –
đền vua Đinh, vua Lê có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với du lịch Ninh Bình
mà còn đối với hoạt động phát triển du lịch của Trung tâm du lịch Hà Nội và
phụ cận – một trong bảy khu vực trọng điểm du lịch của cả nước, đã được xác
định trong quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam. Đặc biệt du lịch Hoa
Lư – đền vua Đinh, vua Lê có mối liên hệ mật thiết với du lịch Thủ đô thông
qua hoạt động phát triển du lịch “trục” lịch sử Cố đô Hoa Lư – Thăng Long – Hà
Nội. Điều này còn có ý nghĩa hơn khi phát triển văn hoá - lịch sử được xác định
là định hướng ưu tiên trong chiến lược phát triển du lịch Việt Nam, đặc biệt
trong bối cảnh du lịch Việt Nam hội nhập tích cực với du lịch khu vực và quốc
tế.
Với các giá trị tài nguyên du lịch đã được khẳng định của mình, Cố đô
Hoa lư – đền vua Đinh, vua Lê, nhìn nhận trong mối quan hệ phát triển với khu
tâm linh – thắng cảnh chùa Bái Đính và khu bảo tồn đất ngập nước Vân long, có
thể phát triển được những sản phẩm du lịch đặc thù, hấp dẫn tầm cơ quốc gia
và khu vực. Những sản phẩm du lịch này có thể bao gồm:
Tham quan công viên văn hoá lịch sử nơi du khách được tìm hiểu về
những giá trị lịch sử và cảm nhận những giá trị văn hoá của một thời kỳ “vàng
son” trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam.
Tham quan công viên địa chất để tìm hiểu lịch sử phát triển khu vực,
thưởng ngoạn những giá trị cảnh quan của “Hạ Long trên cạn”, khám phá những
bí hiểm và vẻ đẹp của hệ thống hang động
Tham quan cảnh quan, tìm hiểu các giá trị của các hệ sinh thái đất ngập
nước, hệ sinh thái rừng nhiệt đới trên núi đá vôi với những cơ hội quan sát các
loài sinh vật quý hiếm, đặc biệt là loài Voọc quần đùi trắng, trong tự nhiên;
tham gia các hoạt động lễ hội, tâm linh tại khu chùa Bái Đính, chùa Địch Lộng,
chùa Bích Động, điện Thái Vi, đền vua Đinh – Lê, v.v.
- Tham quan và trải nghiệm cuộc sống đời thường của người dân ở vùng
làng quê điển hình vùng đồng bằng sông Hồng và tham quan các làng nghề
truyền thống...v.v...
Việc phát triển những sản phẩm du lịch đặc sắc này sẽ góp phần thực
hiện mục tiêu đa dạng hoá và nâng cao tính hấp dẫn, cạnh tranh của du lịch Việt
Nam, tương xứng với vai trò của du lịch Hoa Lư – đền vua Đinh, vua Lê đã
được xác định trong chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển du lịchViệt
Nam.
Quan trọng hơn, những sản phẩm du lịch này sẽ đáp ứng được nhu cầu
của du khách quanh năm, góp phần hạn chế “tính mùa” – một trong những hạn
chế điển hình trong hoạt động du lịch ở khu vực phía Bắc; hấp dẫn nhiều hơn
khách du lịch đến với Việt Nam nói chung và Ninh Bình nói riêng, qua đó góp
phần tăng trưởng kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao thu nhập cho cộng
đồng, đồng thời phát huy có hiệu quả những giá trị văn hoá, lịch sử mà các thế
hệ ông cha đã gây dựng nên và truyền lại cho thế hệ con cháu ngày nay.
Để phát triển du lịch Hoa Lư – đền vua Đinh, vua Lê tương xứng với vị
trí của mình trong chiến lược phát triển du lịch Việt Nam với những tiềm năng
du lịch đặc biệt ở khu vực này, cần lưu ý một số vấn đề sau:
Trên cơ sở Đề án “Quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy quần thể di
tích lịch sử Cố đô Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình”, cần tiến hành quy hoạch điểm đến
du lịch Hoa Lư – đền vua Đinh, vua Lê một cách khoa học, trên quan điểm bền
vững trong mối quan hệ phát triển du lịch chung với khu vực tâm linh cảnh quan
chùa Bái Đính và khu bảo tồn đất ngập nước Vân Long, vùng đồng bằng sông
Hồng, đặc biệt là trung tâm du lịch Hà Nội và phụ cận. Ngoài những nội dung
nghiên cứu quy hoạch lãnh thổ, cần hết sức lưu ý đến những nội dung quy
hoạch có tính chuyên ngành, đặc biệt là định hướng phát triển các sản phẩm du
lịch văn hoá, du lịch sinh thái đặc thù, có chất lượng cao.
Trong quá trình xác định hệ thống sản phẩm du lịch của Hoa Lư – đền
vua Đinh, vua Lê cần lưu ý tránh trùng lặp với những sản phẩm du lịch ở những
vùng phụ cận trên địa bàn tỉnh Ninh Bình nói riêng và ở vùng đồng bằng sông
Hồng nói chung vì điều này sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng thu hút khách
và qua đó ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư, phát triển du lịch bền vững ở khu
vực này.
Trong quá trình thực hiện quy hoạch, cần hết sức lưu ý về mối quan hệ
đối với hoạt động phát triển của các ngành kinh tế cũng như sự phát triển đô thị.
Cần phát hiện những tác động hiện tại và tiềm năng của các hoạt động trên, đặc
biệt là hoạt động khai thác, sản xuất vật liệu xây dựng và phát triển đô thị đối
với hoạt động du lịch để từ đó có những giải pháp, kiến nghị phù hợp nhằm hạn
chế những tác động này, đảm bảo cho phát triển du lịch bền vững ở Hoa Lư –
đền vua Đinh, vua Lê.
- Là một khu du lịch phát triển trên cơ sở khai thác các giá trị văn hoá - lịch
sử, cảnh quan – sinh thái, việc đảm bảo môi trường cho phát triển bền vững cần
được đặt ra ngay từ đầu bởi những giá trị du lịch này rất nhạy cảm, dễ biến đổi
dưới tác động của hoạt động du lịch và của hoạt động kinh tế – xã hội.
Để đảm bảo phát triển du lịch bền vững ở Hoa Lư – đền vua Đinh, vua
Lê, một yếu tố quan trọng cần được đưa vào nội dung quy hoạch là xây dựng
đề xuất chính sách và các giải pháp cụ thể để phát triển du lịch phải gắn với
bảo tồn các giá trị văn hoá - lịch sử, cảnh quan – sinh thái; tạo điều kiện cho
cộng đồng được tham gia tích cực vào hoạt động du lịch.
Ngay từ bây giờ, vấn đề đào tạo để có đội ngũ lao động du lịch đủ năng
lực đáp ứng được yêu cầu phát triển du lịch Hoa Lư – đền vua Đinh, vua Lê -
điểm đến du lịch văn hoá lịch sử và cảnh quan sinh thái tầm cỡ quốc gia và khu
vực, cần được đặt ra.
Doanh thu và lượng khách du lịch đến Ninh Bình Năm 2009
Các Chỉ tiêu
2008 2009 So sánh%
1.900.88 2.390.90
Lượt khách: 125,78
8 5
- Quốc tế: 584.400 601.785 102,97
1.316.48 1.789.12
- Nội địa: 135,90
8 0
Tổng doanh thu 162.100 250.134 154,31
- (Triệu đồng)
Nộp ngân sách
16.150 25.350 156,97
(Triệu đồng)
nguon tai.lieu . vn