Xem mẫu

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
HƯỚNG TỚI TĂNG TRƯỞNG BỀN VỮNG
TSKH. Võ Đại Lược
Trung tâm Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương

Đối với mọi quốc gia nguồn nhân lực luôn có vai trò hết sức quan
trọng, nhưng đối với những quốc gia tài nguyên thiên nhiên không dồi
dào, thì nguồn nhân lực càng có tầm quan trọng hơn. Việt Nam thuộc
những nước không có nhiều tài nguyên, do vậy nguồn nhân lực càng có
vị thế vượt trội đối với sự tăng trưởng và phát triển bền vững. Báo cáo
này sẽ đề cập tới một số vấn đề chung về nguồn nhân lực, một số kinh
nghiệm quốc tế và những vấn đề về phát triển nguồn nhân lực ở Việt
Nam hiện nay.
1. Những vấn đề chung về phát triển nguồn nhân lực
Trước hết phải xác định nguồn nhân lực là gì?
Ngân hàng Thế giới cho rằng: “Nguồn nhân lực là toàn bộ vốn
con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp … của mỗi
cá nhân”. Theo tổ chức Lao động quốc tế: “Nguồn nhân lực của một
quốc gia là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia
lao động”. Hai định nghĩa này gắn nguồn nhân lực với lực lượng tham
gia lao động, nghĩa là theo nghĩa hẹp. Nhưng nguồn nhân lực có thể
hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm toàn bộ dân cư của một quốc gia, không
những là người lao động, mà cả học sinh, sinh viên, trẻ em, người già,
nghĩa là những người sẽ đang lao động, sẽ tham gia lao động và đã hết
tuổi lao động. Đây là một loại “tài nguyên đặc biệt”, giữ vị trí trung tâm
trong hệ thống các nguồn lực phát triển của mọi quốc gia, là cơ sở cơ
bản nhất cho sự phát triển bền vững. Nguồn nhân lực hiểu theo nghĩa
rộng không chỉ là lực lượng lao động mà còn là lực lượng tiêu dùng
những của cải do lao động làm ra.
557

Nguồn nhân lực có thể xét về mặt cơ cấu, theo tuổi tác, theo giới
tính, theo nghề nghiệp, theo trình độ, theo tài năng. Một quốc gia có
tỷ trọng người trẻ tuổi cao, tỷ trọng tri thức lớn, số người tài hội tụ về
nhiều - đó là một quốc gia có tiềm năng phát triển lớn.
Phát triển nguồn nhân lực, theo quan điểm của Liên hiệp quốc bao
gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. Cũng có
quan điểm cho rằng phát triển nguồn nhân lực phải nhằm gia tăng giá trị
vật chất, tinh thần, cả trí tuệ và tâm hồn, kỹ năng nghề nghiệp, đạo đức,
phẩm chất và nhân cách, kể cả cơ chế chính sách của nhà nước đảm bảo
sử dụng khai thác, phân bổ, phát huy hiệu quả cao nhất nguồn nhân lực
của đất nước.
Phát triển nguồn nhân lực không chỉ hướng vào thị trường trong
nước, mà còn phải hướng ra thị trường quốc tế, phải nâng cao khả năng
cạnh tranh của nguồn nhân lực đất nước. Một thế giới toàn cầu hóa như
hiện nay, nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là các nhân tài đang
được tự do di chuyển.
Như vậy phát triển nguồn nhân lực phụ thuộc vào ba nhân tố chủ
yếu: người lao động phải tự rèn luyện phấn đấu gia tăng giá trị tổng
thể của bản thân mình; nhà nước phải có chính sách giáo dục đào tạo
tốt, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực; thị trường giữ vai trò phân
bố nguồn lực hợp lý; các doanh nghiệp đào tạo, sử dụng các nguồn lực
có hiệu quả.
Trong ba yếu tố đó, nhà nước luôn có vai trò chủ đạo. Nếu nhà
nước có chính sách giáo dục tốt, có các trường học đẳng cấp cao, có
thể đào tạo được những nhân lực có chất lượng cao; nhà nước có chính
sách trọng dụng nhân tài, thu hút nhân tài hội tụ về đất nước và sử dụng
họ có hiệu quả, thì đó là cơ hội lớn cho đất nước. Nhà nước có chính
sách lương bổng hợp lý, chính sách bảo vệ sức khỏe tốt, sẽ có tác dụng
bồi dưỡng các nguồn lực cho phát triển, v.v… Trong các chính sách của
nhà nước, chính sách nhân tài là quan trọng nhất - “Hiền tài là nguyên
khí quốc gia”. Nếu nhà nước trọng dụng được các nhân tài thì chính
558

các nhân tài đó sẽ có cách sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động của
đất nước. Trong nguồn lực lao động - những người nắm quyền quản trị
quốc gia là lực lượng quan trọng nhất, quyết định nhất đến vận mệnh
của quốc gia. Đây là lực lượng có vai trò chế định, thực thi, giám sát
việc thực thi thể chế. Do vậy, cơ chế tuyển dụng chọn những người có
tài vào bộ máy quản trị quốc gia từ Trung ương đến địa phương là một
cơ chế quan trọng nhất. Nếu bộ máy quản trị của một quốc gia không
có người tài, không có nguyên khí quốc gia ở đó, thì quốc gia đó khó có
thể phát triển. Trong điều kiện hiện nay đời sống của dân chúng ngày
càng được cải thiện và nâng cao, do vậy tuổi thọ của các nước đều tăng,
ở nhiều nước phát triển tuổi thọ trung bình đã tới trên 80 tuổi – một làn
sóng “tóc bạc” đang đe dọa các nền kinh tế này, vì số người không làm
việc ngày càng tăng cao so với số người làm việc. Do vậy, chính sách
dân số phải thích ứng với tình hình mới. Không chỉ hạn chế sinh đẻ, mà
phải khuyến khích thích hợp, để đảm bảo số người lao động cần thiết
không được giảm.
Kinh nghiệm quốc tế về phát triển nguồn lực rất đa dạng, nhưng
nói chung các nước đều xem đây là quốc sách hàng đầu theo hướng:
luôn luôn đổi mới, chính sách giáo dục và đào tạo, chính sách thu dụng
nhân tài cả trong và ngoài nước, chính sách thị trường lao động tự do,
chính sách an sinh xã hội…
Mỹ là nước có chính sách giáo dục đại học được đánh giá cao như:
đa dạng hóa các nguồn kinh phí giáo dục đại học, các trường đại học đã
huy động kinh phí từ nhiều nguồn: từ Nhà nước, các tổ chức phi chính
phủ, các tập đoàn kinh tế tư nhân, các tổ chức tôn giáo, v.v… Với nguồn
kinh phí khá dồi dào, các trường đại học Mỹ có thể xây dựng các cơ
sở trường lớp hiện đại, thuê được các thầy giáo giỏi, lập các quỹ hỗ trợ
sinh viên. Lĩnh vực giáo dục đại học ở Mỹ thực sự là một thị trường
cạnh tranh cao. Chất lượng các trường cao thì khả năng thu hút được
các sinh viên giỏi càng lớn. Do vậy thương hiệu nhà trường ở Mỹ là
một vấn đề mà không trường nào có thể lơ là. Các trường đại học ở Mỹ
là các trường đại học nghiên cứu đẳng cấp cao. Các phát minh sáng chế
559

chủ yếu là ở các trường đại học. Thời gian cho nghiên cứu khoa học của
các thầy giáo luôn được các trường đại học Mỹ xem trọng. Môi trường
làm việc ở Mỹ được đánh giá cao, do vậy đã có sức thu hút các nhân tài
trên thế giới về Mỹ làm việc. Hầu hết các học giả được giải Nobel đều
tập trung ở Mỹ. Các trường đại học ở Mỹ có sức thu hút mạnh mẽ các
sinh viên trên khắp thế giới.
Nhật Bản là một trong những nước đi đầu ở châu Á trong việc phát
triển nguồn nhân lực. Nhật Bản hầu như rất nghèo về tài nguyên, do vậy
để phát triển chỉ có thể trông chờ vào nguồn nhân lực. Chính phủ Nhật
đã thực hiện chính sách giáo dục bắt buộc đối với cấp tiểu học và trung
học cơ sở, tất cả học sinh trong độ tuổi từ 6-15 tuổi được miễn phí học
tập. Kết quả là tỷ lệ thi đỗ vào các trường đại học và cao đẳng ở nước
này ngày càng nhiều. Ngay từ bậc trung học cơ sở các học sinh đã được
dậy nghề đủ mức để họ ra trường có thể vào làm công nhân trong các
nhà máy. Chế độ đào tạo và quản lý nhân lực trong các xí nghiệp Nhật
Bản cũng rất nổi bật, hướng người lao động hợp tác với nhau và với giới
chủ, bằng các chế độ lương thưởng theo thâm niên, trọng dụng những
người làm việc lâu năm có kinh nghiệm.
Hàn Quốc là một quốc gia rất xem trọng phát triển nguồn nhân
lực. Tháng 12/2001, Chính phủ đã công bố chiến lược phát triển nguồn
nhân lực lần thứ nhất giai đoạn 2001-2005, tiếp đó chiến lược quốc gia
phát triển nguồn nhân lực thời kỳ 2006-2010 lại được xây dựng và đã
được thực hiện có hiệu quả. Các chiến lược này đều nhắm tới mục tiêu
tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp, trường đại học và các cơ sở
nghiên cứu, nâng cao trình độ sử dụng và quản lý nguồn nhân lực; nâng
cao tính chuyên nghiệp của nguồn nhân lực trong khu vực công; xây
dựng hệ thống đánh giá và quản lý kiến thức, kỹ năng và công việc; xây
dựng kết cấu hạ tầng thông tin cho phát triển nguồn nhân lực; xây dựng
và phát triển thị trường tri thức; phát triển giáo dục hướng nghiệp cho
các trường trung học, các trường dạy nghề kỹ thuật, đẩy mạnh nghiên
cứu khoa học cơ bản và ứng dụng.
560

Cộng hòa Séc đã rất chú trọng tới việc hoạch định chiến lược phát
triển nguồn nhân lực. Séc đã hoạch định và thực hiện chiến lược phát
triển nguồn nhân lực (2000) với các định hướng phổ cập tiếng Anh, cải
thiện nguồn nhân lực hành chính công, phát triển giáo dục đại học - cao
đẳng liên kết với hoạt động nghiên cứu, phát triển đội ngũ giáo viên,
phát triển hệ thống học tập suốt đời.
Trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực Trung Quốc đặc biệt chú
trọng chiến lược bồi dưỡng, đào tạo nhân tài. Nội dung của chiến lược
này là “lấy nhân tài chấn hưng đất nước; xây dựng đội ngũ nhân tài
đông đảo và có chất lượng cao; tôn trọng lao động tri thức, tôn trọng
nhân tài và sự sáng tạo, lấy thúc đẩy phát triển làm xuất phát điểm cơ
bản của công tác nhân tài, điều chỉnh nhân tài một cách hợp lý, lấy xây
dựng năng lực làm điều cốt lõi, ra sức đẩy mạnh công tác bồi dưỡng
nhân tài, kiên trì đổi mới sáng tạo, nỗ lực xây dựng cơ chế đánh giá, sử
dụng nhân tài một cách khoa học”.
Singapore được xem là một quốc gia có chính sách phát triển nguồn
lực rất nổi bật, với hệ thống các trường phổ thông, đại học, cao đẳng
cấp cao, hướng tới phát huy khả năng sở thích năng khiếu của từng học
sinh, giúp phát huy cao nhất tiềm năng của mỗi học sinh. Chương trình
đào tạo hiện đại, chú trọng giáo dục đạo đức, nhân cách, truyền thống,
văn hóa. Có chính sách thu hút học sinh nước ngoài, không chỉ nhằm
mục tiêu kiếm lời, mà chủ yếu nhằm thu hút nhân tài với chính sách tín
dụng cho sinh viên, khuyến khích các trường liên thông, liên kết với bên
ngoài, mời gọi các đại học danh tiếng đến Singapore đặt chi nhánh.
Một chính sách rất đáng chú ý của các nước là chính sách lương
bổng đối với các nhân tài, nói chung hầu hết các nước phát triển đều
có mức lương tương đương nhau đối với các nhân tài. Trung Quốc đã
thực hiện chính sách giữ nguyên lương cho các chuyên gia cao cấp nếu
từ nước ngoài về Trung Quốc làm việc. Singapore còn tăng lương cao
hơn, cạnh tranh hơn. Lương của các bộ trưởng Singapore còn cao hơn
lương của Tổng thống Mỹ, để không chỉ khuyến khích họ làm việc tốt,
mà còn là một rào cản chống tham nhũng.
561

nguon tai.lieu . vn