Xem mẫu
- PHÁP LUẬT VỀ
PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP
- I. Vai trò của pháp luật về phá sản trong
nền kinh tế thị trường:
1. Khái quát về phá sản:
Theo ngôn ngữ chung ở nhiều quốc gia,
thuật ngữ “phá sản” đều được sử dụng để diễn
tả tình trạng khó khăn về tài chính của một chủ
doanh nghiệp mà biểu hiện cụ thể của tình trạng
đó là sự mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.
Ở Việt Nam, cùng với thuật ngữ “phá sản”
thì người ta còn dùng các từ: “khuynh gia, bại
sản”, “khánh kiệt”, “ vỡ nợ” hay “ sập tiệm” để
chỉ tình trạng tài chính trầm trọng của người mắc
nợ.
- Nói cụ thể hơn, dù có thể được sử dụng ở
các ngữ cảnh khác nhau song những từ đồng
nghĩa này đều diễn tả tình trạng mất khả năng
thanh toán nợ đến hạn của người mắc nợ khi có
yêu cầu.
Dưới góc độ pháp lý, phá sản được đề cập
như là một thủ tục xử lý tình trạng mất khả năng
thanh toán nợ của một chủ thể do Toà án tiến
hành.
TỔNG GIÁ TRỊ TỔNG NỢ ĐẾN
TÀI SẢN HẠN
- Thông qua thủ tục này tất cả các chủ nợ
đều có cơ hội tham gia vào việc thanh toán nợ và
đều được nhận một phần nợ theo tỷ lệ tương
ứng trong khối nợ chung.
Như vậy, trong thủ tục phá sản thì tất cả
các chủ nợ đều bình đẳng về quyền đòi nợ
nhưng chỉ một phần yêu cầu thanh toán nợ của
họ được thoả mãn.
- Trong nền KTTT phá sản DN là một hiện
tượng kinh tế khách quan. Bởi vì:
- DN về thực chất cũng là một thực thể xã
hội. Cho nên, cũng có việc sinh ra, có phát triển
và có diệt vong.
- Nền KTTT với đa hình thức sở hữu, đa
thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh theo sự
tác động của các qui luật của KTTT, trong đó có
qui luật cạnh tranh. Tất yếu sẽ có DN chiếm lĩnh
thị trường và cũng có DN kinh doanh đình đốn, nợ
nần, mất khả năng chi trả và lâm vào tình trạng
phá sản.
- - Trong hoạt động kinh doanh cái mà DN thu
được cũng là lợi nhuận nhưng đồng thời DN
cũng phải chịu rủi ro. Theo thông kê của Ngân
hàng thế giới thì tỷ lệ rủi ro là ¼. Lý do có thể
do năng lực quản lý, thiếu khả năng thích ứng…
Phá sản bao giờ cũng kéo theo những hậu
quả kinh tế xã hội nhất định. Nhưng xét về mặt
kinh tế Phá sản cũng là một giải pháp hữu
hiệu trong việc “cơ cấu lại” nền kinh tế, góp
phần duy trì sự tồn tại của những DN đủ sức
đứng vững trong điều kiện cạnh tranh.
- 2. Phân loại phá sản.
*/ Phá sản trung thực và phá sản gian trá
Sự phân biệt hành vi trung thực hay gian trá
được xác định dựa vào sự phân tích nguyên nhân
dẫn đến tình trạng phá sản doanh nghiệp.
Trong phá sản trung thực, tình trạng mất
khả năng thanh toán nợ nằm ngoài mong muốn
của chủ doanh nghiệp mắc nợ.
- Trái lại, tình trạng mất khả năng thanh toán
nợ bị coi là giả tạo và gian trá, khi tình trạng đó
được chủ doanh nghiệp mắc nợ sắp đặt trước và
tạo ra nhằm lợi dụng việc tuyên bố phá sản để
trốn tránh nghĩa vụ tài sản hoặc chiếm đoạt tài
sản của chủ thể khác.
Chẳng hạn, doanh nghiệp mắc nợ tạo ra vụ
cháy kho chứa hàng rồi tuyên bố mất khả năng
thanh toán nợ đến hạn.
Việc phân loại này có ý nghĩa khi xác định
thái độ đối xử của PL đối với con nợ.
- */ Phá sản tự nguyện và phá sản bắt
buộc.
Căn cứ vào cơ sở phát sinh quan hệ pháp
luật:
Phá sản tự nguyện: là pháp luật cho phép
chủ doanh nghiệp mắc nợ được đệ đơn yêu cầu
Toà án tuyên bố phá sản, khi thấy doanh nghiệp
lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ
đến hạn.
Tuy nhiên, trong trường hợp này, pháp luật
phải có các điều khoản qui định chặt chẽ để
tránh việc doanh nghiệp mắc nợ lợi dụng để
chiếm đoạt tài sản của chủ nợ.
- Khác với phá sản tự nguyện, sự phá sản bắt
buộc nằm ngoài ý muốn chủ quan của doanh
nghiệp mắc nợ, bởi tuyên bố phá sản được Toà
án đưa ra trên cơ sở yêu cầu của các chủ nợ.
Việc phân loại này có ý nghĩa khi xây dựng
hồ sơ vụ phá sản cũng như lựa chọn thủ tục phá
sản thích hợp (phục hồi hay xử lý tài sản).
- */ Phá sản doanh nghiệp và phá sản cá
nhân
Phụ thuộc vào hoàn cảnh thực tế của từng
quốc gia mà luật phá sản ở nước đó xác định
phạm vi điều chỉnh riêng biệt. Ở một số nước
(Úc) chỉ điều chỉnh hoạt động phá sản cá nhân;
còn phá sản của các doanh nghiệp tuân theo qui
định về phá sản trong Luật công ty.
Ngược lại, Luật phá sản của nước ta chỉ áp
dụng cho các doanh nghiệp. Còn cá nhân nếu lâm
vào phá sản thì giải quyết theo TTDS.
- 3. Pháp luật về phá sản:
Pháp luật về phá sản là tổng hợp các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều
chỉnh những quan hệ phát sinh trong quá trình
giải quyết yêu cầu phá sản DN, HTX.
Từ khái niệm trên cho chúng ta thấy được
tính đặc thù của pháp luật phá sản thể hiện ở
chỗ:
Các qui định của pháp luật phá sản vừa
chứa đựng qui phạm PL về nội dung vừa chứa
đựng qui phạm PL về hình thức.
- - Qui phạm PL về nội dung: điều chỉnh
quan hệ về tài sản giữa chủ nợ và con nợ, quyền
và nghĩa vụ của chủ thể tham gia quan hệ đó.
Khách thể của quan hệ này: là tài sản của
DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản.
- Qui phạm PL về hình thức: điều chỉnh
quan hệ tố tụng giữa cơ quan nhà nước có thẩm
quyền với chủ nợ, con nợ và những người có liên
quan, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể này.
Khách thể của quan hệ này: chính là quá
trình giải quyết yêu cầu phá sản DN, HTX.
- a. Những yếu tố ảnh hưởng đến nội
dung luật phá sản:
- Nội dung của luật phá sản bị quyết định
bởi tính chất của nền kinh tế. (nó chỉ tồn tãi
trong nền KTTT).
- Nội dung của luật phá sản chỉu ảnh
hưởng của trình độ phát triển kinh tế. Điều này
lý giải vì sao pháp luật phá sản của các quốc gia
lại khác nhau.
- - Nội dung của luật phá sản phụ thuộc vào
khả năng làm chủ của các DN trong việc giải
quyết công việc phá sản. Ở VN thì Tòa án vẫn
đòng vai trò quan trọng trong giải quyết phá sản.
- Nội dung của luật phá sản chịu sự tác
động của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
- */ Đặc điểm của phá sản.
- Phá sản là một thủ tục thanh toán nợ đặc
biệt. Khi con nợ lâm vào tình trạng phá sản.
- Thanh toán theo danh sách chủ nợ. Tất cả
các chủ nợ (đến hạn và chưa đến hạn).
- Thanh toàn nợ trong phá sản là thanh toán
trên cơ sở giá trị tài sản còn lại của DN.
- - Thanh toán nợ không chỉ bình đẳng mà còn
dân chủ.
- Chấm dứt hoạt động của DN và thường áp
dụng chế tài đối với chủ DN (cấm KD 1- 3 năm).
- b. Nội dung cơ bản của luật phá sản
2004.
Chương I: Những qui định chung.
Chương này bao gồm những qui định xác
định đối tượng và phạm vi áp dụng của Luật phá
sản; xác định tình trạng phá sản doanh nghiệp,
hợp tác xã; xác định cơ quan có thẩm quyền giải
quyết tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
- Chương II: Nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản.
Chương này qui định những đối tượng nào
có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã và khi nào thì được nộp
đơn cũng như việc thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố
phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã của Tòa án có
thẩm quyền.
- Chương III: Nghĩa vụ về tài sản.
Chương này xác định nghĩa vụ về tài sản
của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá
sản; thứ tự phân chia tài sản và việc xử lý các tài
sản của doanh nghiệp, hợp tác xã trong các
trường hợp cầm cố, thế chấp, nghĩa vụ liên đới
hoặc bảo lãnh,v.v…
nguon tai.lieu . vn