Xem mẫu

  1. PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP
  2. I. Vai trò của pháp luật về phá sản trong nền kinh tế thị trường: 1. Khái quát về phá sản: Theo ngôn ngữ chung ở nhiều quốc gia, thuật ngữ “phá sản” đều được sử dụng để diễn tả tình trạng khó khăn về tài chính của một chủ doanh nghiệp mà biểu hiện cụ thể của tình trạng đó là sự mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Ở Việt Nam, cùng với thuật ngữ “phá sản” thì người ta còn dùng các từ: “khuynh gia, bại sản”, “khánh kiệt”, “ vỡ nợ” hay “ sập tiệm” để chỉ tình trạng tài chính trầm trọng của người mắc nợ.
  3. Nói cụ thể hơn, dù có thể được sử dụng ở các ngữ cảnh khác nhau song những từ đồng nghĩa này đều diễn tả tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn của người mắc nợ khi có yêu cầu. Dưới góc độ pháp lý, phá sản được đề cập như là một thủ tục xử lý tình trạng mất khả năng thanh toán nợ của một chủ thể do Toà án tiến hành. TỔNG GIÁ TRỊ TỔNG NỢ ĐẾN TÀI SẢN HẠN
  4. Thông qua thủ tục này tất cả các chủ nợ đều có cơ hội tham gia vào việc thanh toán nợ và đều được nhận một phần nợ theo tỷ lệ tương ứng trong khối nợ chung. Như vậy, trong thủ tục phá sản thì tất cả các chủ nợ đều bình đẳng về quyền đòi nợ nhưng chỉ một phần yêu cầu thanh toán nợ của họ được thoả mãn.
  5. Trong nền KTTT phá sản DN là một hiện tượng kinh tế khách quan. Bởi vì: - DN về thực chất cũng là một thực thể xã hội. Cho nên, cũng có việc sinh ra, có phát triển và có diệt vong. - Nền KTTT với đa hình thức sở hữu, đa thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh theo sự tác động của các qui luật của KTTT, trong đó có qui luật cạnh tranh. Tất yếu sẽ có DN chiếm lĩnh thị trường và cũng có DN kinh doanh đình đốn, nợ nần, mất khả năng chi trả và lâm vào tình trạng phá sản.
  6. - Trong hoạt động kinh doanh cái mà DN thu được cũng là lợi nhuận nhưng đồng thời DN cũng phải chịu rủi ro. Theo thông kê của Ngân hàng thế giới thì tỷ lệ rủi ro là ¼. Lý do có thể do năng lực quản lý, thiếu khả năng thích ứng… Phá sản bao giờ cũng kéo theo những hậu quả kinh tế xã hội nhất định. Nhưng xét về mặt kinh tế Phá sản cũng là một giải pháp hữu hiệu trong việc “cơ cấu lại” nền kinh tế, góp phần duy trì sự tồn tại của những DN đủ sức đứng vững trong điều kiện cạnh tranh.
  7. 2. Phân loại phá sản. */ Phá sản trung thực và phá sản gian trá Sự phân biệt hành vi trung thực hay gian trá được xác định dựa vào sự phân tích nguyên nhân dẫn đến tình trạng phá sản doanh nghiệp. Trong phá sản trung thực, tình trạng mất khả năng thanh toán nợ nằm ngoài mong muốn của chủ doanh nghiệp mắc nợ.
  8. Trái lại, tình trạng mất khả năng thanh toán nợ bị coi là giả tạo và gian trá, khi tình trạng đó được chủ doanh nghiệp mắc nợ sắp đặt trước và tạo ra nhằm lợi dụng việc tuyên bố phá sản để trốn tránh nghĩa vụ tài sản hoặc chiếm đoạt tài sản của chủ thể khác. Chẳng hạn, doanh nghiệp mắc nợ tạo ra vụ cháy kho chứa hàng rồi tuyên bố mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Việc phân loại này có ý nghĩa khi xác định thái độ đối xử của PL đối với con nợ.
  9. */ Phá sản tự nguyện và phá sản bắt buộc. Căn cứ vào cơ sở phát sinh quan hệ pháp luật: Phá sản tự nguyện: là pháp luật cho phép chủ doanh nghiệp mắc nợ được đệ đơn yêu cầu Toà án tuyên bố phá sản, khi thấy doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Tuy nhiên, trong trường hợp này, pháp luật phải có các điều khoản qui định chặt chẽ để tránh việc doanh nghiệp mắc nợ lợi dụng để chiếm đoạt tài sản của chủ nợ.
  10. Khác với phá sản tự nguyện, sự phá sản bắt buộc nằm ngoài ý muốn chủ quan của doanh nghiệp mắc nợ, bởi tuyên bố phá sản được Toà án đưa ra trên cơ sở yêu cầu của các chủ nợ. Việc phân loại này có ý nghĩa khi xây dựng hồ sơ vụ phá sản cũng như lựa chọn thủ tục phá sản thích hợp (phục hồi hay xử lý tài sản).
  11. */ Phá sản doanh nghiệp và phá sản cá nhân Phụ thuộc vào hoàn cảnh thực tế của từng quốc gia mà luật phá sản ở nước đó xác định phạm vi điều chỉnh riêng biệt. Ở một số nước (Úc) chỉ điều chỉnh hoạt động phá sản cá nhân; còn phá sản của các doanh nghiệp tuân theo qui định về phá sản trong Luật công ty. Ngược lại, Luật phá sản của nước ta chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp. Còn cá nhân nếu lâm vào phá sản thì giải quyết theo TTDS.
  12. 3. Pháp luật về phá sản: Pháp luật về phá sản là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh những quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản DN, HTX. Từ khái niệm trên cho chúng ta thấy được tính đặc thù của pháp luật phá sản thể hiện ở chỗ: Các qui định của pháp luật phá sản vừa chứa đựng qui phạm PL về nội dung vừa chứa đựng qui phạm PL về hình thức.
  13. - Qui phạm PL về nội dung: điều chỉnh quan hệ về tài sản giữa chủ nợ và con nợ, quyền và nghĩa vụ của chủ thể tham gia quan hệ đó. Khách thể của quan hệ này: là tài sản của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản. - Qui phạm PL về hình thức: điều chỉnh quan hệ tố tụng giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với chủ nợ, con nợ và những người có liên quan, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể này. Khách thể của quan hệ này: chính là quá trình giải quyết yêu cầu phá sản DN, HTX.
  14. a. Những yếu tố ảnh hưởng đến nội dung luật phá sản: - Nội dung của luật phá sản bị quyết định bởi tính chất của nền kinh tế. (nó chỉ tồn tãi trong nền KTTT). - Nội dung của luật phá sản chỉu ảnh hưởng của trình độ phát triển kinh tế. Điều này lý giải vì sao pháp luật phá sản của các quốc gia lại khác nhau.
  15. - Nội dung của luật phá sản phụ thuộc vào khả năng làm chủ của các DN trong việc giải quyết công việc phá sản. Ở VN thì Tòa án vẫn đòng vai trò quan trọng trong giải quyết phá sản. - Nội dung của luật phá sản chịu sự tác động của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
  16. */ Đặc điểm của phá sản. - Phá sản là một thủ tục thanh toán nợ đặc biệt. Khi con nợ lâm vào tình trạng phá sản. - Thanh toán theo danh sách chủ nợ. Tất cả các chủ nợ (đến hạn và chưa đến hạn). - Thanh toàn nợ trong phá sản là thanh toán trên cơ sở giá trị tài sản còn lại của DN.
  17. - Thanh toán nợ không chỉ bình đẳng mà còn dân chủ. - Chấm dứt hoạt động của DN và thường áp dụng chế tài đối với chủ DN (cấm KD 1- 3 năm).
  18. b. Nội dung cơ bản của luật phá sản 2004. Chương I: Những qui định chung. Chương này bao gồm những qui định xác định đối tượng và phạm vi áp dụng của Luật phá sản; xác định tình trạng phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã; xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
  19. Chương II: Nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Chương này qui định những đối tượng nào có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã và khi nào thì được nộp đơn cũng như việc thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã của Tòa án có thẩm quyền.
  20. Chương III: Nghĩa vụ về tài sản. Chương này xác định nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản; thứ tự phân chia tài sản và việc xử lý các tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã trong các trường hợp cầm cố, thế chấp, nghĩa vụ liên đới hoặc bảo lãnh,v.v…
nguon tai.lieu . vn