- Trang Chủ
- Luật học
- Những điều cơ bản về Luật Di sản thừa kế từ lý luận và thực tiễn luật dân sự Việt Nam: Phần 1
Xem mẫu
- MÃ SỐ: TPC -11 - 1 0
52-2011/CXB/10-04/TP
- TS. TRẦN THỊ HUỆ
«1 ■
DI SẢN THỪA KẾ
THEO PHÁP LUẬT
DÂN Sự VIỆT NAM
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
■
VÀ THỰC TIỄN
■
NHÀ XUẤT BẢN Tư PHÁP
HÀ NỘI - 2011
- LỜ I G IỚ I TH IỆU
Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế của công dân cho phép
công cân được để lại thừa kế tài sản của mình cho người
khác theo di chúc hoặc theo pháp luật. Điều 58 Hiến pháp
năm 1992 quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp
pháp ĩà quyền thừa k ế của công dân”.
Thừa kê và di sản thừa kê là vấn đề mang tính kinh tế,
mang :ính xã hội truyền thống nhưng cũng là vấn đề phức
tạp vế mặt pháp lý. Có thể nói, di sản thừa kế là yếu tố
quan trọng hàng đầu trong việc làm phát sinh và thực hiện
quan hệ dân sự về thừa kế.
Trong thực tế, các vụ tranh chấp về thừa kế ngày càng
gia tăng, phức tạp, tình hình kinh tế - xã hội có nhiều thay
đổi, nén việc giải quyết các án kiện thừa kế trong đó việc
xác định di sản thừa kế gặp nhiều khó khăn; có nhiều vụ
kéo dài nhiều năm hoặc qua nhiều cấp xét xử. Hàng năm,
Toà áa nhân dân (TAND) các cấp đã thụ lý và xét xử sơ
thẩm irên dưới 3.000 vụ án về thừa kế. Qua công tác xét xử
phúc thẩm, g^.ám đốic thẩm, tái thẩm cho thấy số vụ xét xử
sai bị ỉiuỷ án, sửa án còn khá cao. Nguyên nhân có nhiều,
trong ió phải kể đến một sô' quy định của pháp luật liên
quan dến di sản thừa kế mới chỉ dừng lại ở tính chất khung
hoặc nang tính nguyên tắc chung, chưa chi tiết, chưa cụ
thể, clưa theo kịp với sự phát triển kinh tế - xã hội trong
điều Idện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
5
- nghĩa (XHCN). Đặc biệt là các văn bản hướng dẫn áp dụng
cho từng chương và từng vấn đề cụ thể chưa có. Vì vậy, về
phương tiện khoa học còn nhiều quan điểm chưa thống
nhất; thực tiễn áp dụng Bộ luật Dân sự (BLDS) khi giải
quyết tranh chấp còn nhiều vướng mắc, đặc biệt là các
tranh chấp về thừa kế. Trong đó, việc xác định di sản thừa
kế - yếu tố quan trọng hàng đầu đối với việc giải quyết các
án kiện về thừa kê còn nhiều nan giải cả về mặt lý luận và
trong thực tiễn áp dụng.
Đích cuối cùng của tranh chấp thừa kế là xác định đúng
khối di sản thừa kế và phân chia di sản thừa kê theo kỷ
phần mà người thừa kê có quyền được hưởng. Có thể nói
rằng việc xác định đúng di sản thừa kê có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc giải quyết các án kiện về thừa kế.
Hơn 10 năm qua, kể từ khi BLDS năm 1995 có hiệu lực
pháp luật (ngày 01/7/1996) thì hàng loạt các văn bản pháp
luật khác cũng được ban hành như Luật Đất đai, Luật
Doanh nghiệp, Luật Hôn nhân và Gia đình (HN&GĐ),
Luật Thương mại... làm cho tài sản thuộc sở hữu cá nhân
có sự thay đổi về loại, thành phần và giá trị, kéo theo là sự
thay đổi vê' di sản thừa kế.
Trong bốỉ cảnh hội nhập, với thực trạng của nền kinh
tế thị trường và xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nưởc ta
hiện nay thì vấn đề tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân
ngày càng phức tạp và trở nên đa dạng. Vì thế, di sản thừa
kê và việc xác định di sản thừa kế, thanh toán và phân chia
di sản thừa kế cũng đặt ra nhiều hơn những vân đê' lý luận
và thực tiễn cần giải quyết.
6
- Trưcìc thực trạng đó, việc nghiên cứu, phân tích, làm rõ
cơ sở lý uận và thực tiễn, những quy định của pháp luật về
di sản tiừa kê là một trong những nhu cầu cấp bách đối với
khoa học pháp lý dân sự ở Việt Nam hiện nay.
Để giúp bạn đọc trong việc nghiên cứu, tìm hiểu và nhận
thức về li sản thừa kế, về cách xác định cũng như việc thanh
toán và phân chia di sản thừa kế, Nhà xuất bản Tư pháp
xuất bải cuốn sách: “Di sản thừa k ế theo pháp luật dân sự
Việt Nan - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của TS. Trần
Thị Hué - Giảng viên chính Trưòng Đại học Luật Hà Nội.
Xin Lrân trọng giới thiệu.
Hà Nội, tháng 3 năm 2011
NHÀ XUẤT BẢN TƯ PHÁP
7
- Phân J. Cơ sở lý luận về di sản thừa kế
Phổn I
CO SỎ LÝ LUẬN VỂ DI SẢN THỪA KẾ
■
I. 3UAN NIỆM VỂ DI SẢN VÀ DI SẢN THỪA KẾ
m
I.Quan niệm về di sản
Tiong bất kỳ xã hội nào cũng luôn tồn tại vô vàn các sự
vật V i các hiện tượng xã hội. Các sự vật và các hiện tượng
ấy nằm trong quá trình tác động của các hoạt động chính
trị, vin hoá xã hội, kinh tế, khoa học, kỹ thuật, tôn giáo...
Các hoạt động này diễn ra hết sức đa dạng và phong phú,
phản ánh quá trình nhận thức và chinh phục thế giới tự
nhiêr, phản ánh quá trình nhận thức xã hội của loài người.
Các toạt động này dù có phong phú, đa dạng và phức tạp
đến dâu thì mục đích CUỐI cùng của chúng là nhằm hướng
tới tl»ả mãn các nhu cầu vật chất (lợi ích vật châ't) và tinh
thần (lợi ích tinh thần) của con người.
Tiê giới vật chất tồn tại vô hạn và vô tận trong sự vận
động và biến đổi không ngừng, nó không phải chỉ là sự
chuy
- Di sản thừa kế theo pháp luật dàn sự Việt Nam...
nhất - tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật
chất, là một thuộc tính c ố hữu của vật chất, thì bao gồm tất
cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ,
k ể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy"'.
Như vậy, bất cứ sự vật, hiện tượng nào dù trong tự nhiên
hay trong xã hội đều tồn tại trong trạng thái vận động biến
đổi không ngừng. Tuy nhiên, sự tồn tại vô hạn và vô tận của
thê giới vật chất lại được cấu thành từ các vật thể, các bộ
phận vật chất hữu hạn (có ranh giới) tồn tại đa dạng, muôn
hình muôn vẻ và cũng hết sức phức tạp. Con ngưòi, xuất
phát từ thê giới, làm căn cứ cho hoạt động có mục đích của
mình là cải tạo thê giới có hiệu quả theo nhu cầu và lợi ích
nhất định. Để có thể biến đổi sự vật, cải tạo thế giới khách
quan, con người phải hiểu biết sự vật, phải có những tri thức
về thê giỏi, mà tri thức lại không có sẵn trong con người,
không được đem lại cho con người dưối dạng “bẩm sinh”.
Vì thế, muốn có tri thức, con người phải tiến hành một
loạt hoạt động, đặc biệt là hoạt động nhận thức và chính
thông qua hoạt động nhận thức mà con người có tri thức.
Triết học Mác - Lênin đã chia toàn bộ hoạt động của con
người ra làm hai loại: đó là hoạt động thực tiễn và hoạt
động tinh thần (hoạt động nhận thức). Hoạt động thực tiễn
là hoạt động vật chất của con người mang tính lịch sử và
Fh.Ảngghen, (1971), Biện chứng của tự nhiên, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
tr 92.
10
- Phần I. Cơ sở lý luận về di sản thừa kế
xã hội nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Hoạt động tinh
thần lí hoạt động nhận thức phản ánh sáng tạo về thế giới.
Nhưng hoạt động sáng tạo này sẽ không thể có được ở bên
ngoài }uá trình con người biến đổi thê giới xung quanh.
Chính thực tiễn hoạt động lao động đã đưa lại cho bộ óc
người lăng lực sáng tạo phản ánh thế giới, đem lại cho con
người khả năng và điều kiện nhận biết, khám phá các
thuộc inh khác nhau của sự vật cũng như các quy luật chi
phối ciúng. Nhò lao động mà con người đã tạo ra những
thứ khác vối dạng tồn tại sẵn có trong giới tự nhiên11'.
Nhí vậy, cùng với các dạng vật chất sẵn có trong giới
tự nhiàn, con người đã bằng lao động tạo ra những “thứ
khác", những thứ đó có thể tồn tại dưới dạng hữu hình hoặc
vô hìni. Các dạng vật chất sẵn có trong giới tự nhiên, các
sản pìẩm do con người cải biến thế giới vật chất theo
những thuộc tính, những quy luật vốn có của nó có thể
được xác định là của nhân loại (thế giới); của quốc gia riêng
biệt hiy là của một công dân, của một quốc gia cụ thể nào
đó trêi trái đất.
Trịn phương diện triết học, trong thế giới không ở đâu
có tận cùng cả bề rộng lẫn bề sâu, cũng như không ở đâu
lại nglng trệ, không biến đổi và không có sự tiếp nôi, kế
thừa (ủa các quá trình, của các sự vật và hiện tượng, trong
u> Khoa Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1995).
Triết h(C Mác - Lênin, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.43.
11
- Di sẩn thừa k ế theo pháp luật dân sự Việt Nctm...
đó có kế thừa tự nhiên và kế thừa chủ động. Kế thừa chủ
động phụ thuộc vào nhận thức của con người, dựa vào
những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của một giai đoạn
lịch sử nhất định. Sự kê thừa, tiếp nối là biểu hiện của “cói”
có trước, và “cái” có sau; cái để lại từ thời trước, của xã hội
trước, của người trước... cho thòi sau; cho đòi sau và cho
người sau đang tồn tại. Để chỉ những gì mà thòi trước hay
người trước để lại, người ta thường dùng hai từ "di sản”.
Thuật ngữ “di sản” là một từ ghép Hán Việt được tách
ra làm hai từ để hiểu. Trưổc hết “di” trong Từ điển tiếng
V iệ t
- Phần /. Cơ sở lý luận về di sản thừa k ế
“Di” vố nghĩa đê lại lời dạy, lòi dặn lại của một người trước
khi chít, đó là “di huấn, di chúc '\ Còn “di thần" là để chỉ bầy
tôi còn lại của triều vua trước đã bị lật đổ trong quan hệ với
triểu Via mới, như di thần triều Lê dưới triều Nguyễn...
Với các nghĩa trên đây, “Di” có thể được hiểu một cách
chung nhất là sự dịch chuyển sự vật, hiện tượng làm thay
đổi vị trí của chúng trong không gian và thời gian. Sự thay
đổi vị trí của chúng bao giờ cũng thể hiện yếu tố “trước” và
“sau". Mó có thể diễn ra trong một thòi gian rất ngắn (như
nét vẽ đầu tiên đến nét vẽ tiếp theo trong một bức tranh)
hoặc rú được diễn ra trong một thời gian dài (như từ thời
cổ đại sang thời trung đại)...
Từ ‘sản” trong tiếng Việt được hiểu ở các khía cạnh sau:
- Snh ra, làm ra, tạo ra sản phẩm để sinh sông;
- Cải do con người tạo ra là kết quả tự nhiên của quá
trình ho động, sản xuất;
- Là từ dùng để chỉ gia tài, sản nghiệp mang tính tổng
thể củi những tài sản trong một khối.
- Vi thế, trong nhân dân, ngưòi ta thưòng dùng câu “sản
nghiệpcủa cha ông đ ể lại”, “gia tài của ông bà, cha mẹ đ ể lại”.
Vớ các nghĩa trên đây, “sản” được hiểu một cách chung
nhất lt tài sản hoặc khối tài sản nằm trong sự chiếm hữu
và sử iụng để mang lại lợi ích cho con người.
Từ ‘di” được ghép vổi từ “sản” thành “di sản ’’ nhằm để chỉ
của cải gia tài, sản nghiệp, cái mà thời trước để lại cho đòi sau.
13
- Di sản thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam...
Trong Từ điển tiếng Việt thì “di sản’’ được hiểu với nghĩa là:
- Tài sản của người chết để lại, “hưởng di sản của cha
mẹ đ ể lại".
- Cái của thời trước để lại: Kế thừa di sản văn hoá, kinh
tế; di sản pháp luật; di sản về nghiên cứu khoa học... chẳng
han như di tích lich sử, di vât lich sử, bản viết hoăc in của
• • 7 0 » 7 •
thời trước để lại, kể cả để lại những mốì hận, những tai hoạ,
những tàn dư của thòi trước, đến cả những lời dặn dò, những
lời răn dạy của một người trưóc khi chết cho con cháu...
Hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa thông thường thì “di sản ”
là tài sản của ngưòi chết để lại hoặc những cái mà đời trước
để lại cho đòi sau, bao gồm:
- Các giá trị vật chất là các tài sản đáp ứng nhu cầu nào
đó của con ngưòi.
- Các giá trị tinh thần thuộc về đời sống nội tâm,
những tư duy, ý tưởng, ý nghĩ định hướng cho hoạt động
của con người.
Thuật ngữ “di sản” được dùng trong rất nhiều lĩnh vực
hoạt động của con ngưòi. Chúng được dùng phổ biến nhất
là trong lĩnh vực văn hoá, kinh tế, pháp luật, khảo cổ học,
nghệ thuật, thẩm mỹ và nhân chủng học. Biểu hiện cụ thể
của né là các quy luật hoạt động kinh tế, các phát minh
khoa học, các văn bản pháp luật, các công trình kiến trúc,
điêu khắc, hội hoạ, các công trình xây dựng, các tác phẩm
văn học và các thắng cảnh khác.
14
- Phần Ị Cơ sở lý luận về di sản thừa kế
Thuật ngữ “di sản ” cũng được dùng để chỉ di sản của
thế giSi, di sản của quốc gia riêng biệt và di sản của cá
nhân 'công dân).
* Di sản thê giới được xác định làm hai loại:
Loú thứ nhất là toàn bộ lãnh thổ (bao gồm những bộ
phận .ãnh thổ được sử dụng chung cho cả cộng đồng quốic
tẽ) như biển quốc tế, vùng trời trên vùng đặc quyền kinh
tế, vùng tròi quốc tế, vùng itáy biển quốc tế, khoảng không
vũ trụ (kể cả mặt trăng và các hành tinh), châu Nam cực
cùng vói tài nguyên của nó và giá trị sử dụng của các bộ
phận lãnh thổ ấy là tài sản chung của nhân loại (Rex com-
nunex). Các bộ phận lãnh thổ mà pháp luật quốc tê gọi là
lãnh tiổ quốíc tế đã có sẵn trên trái đất. Lúc đầu con người
chỉ chiếm hữu và sử dụng những sản vật sẵn có trong giới
tự nhièn trong các bộ phận lãnh thổ ấy để sinh tồn. Cùng
với các “nấc thang ” tiến hoá của xã hội loài người, dần dần
và từng bước họ đồng thời đã nhận thức, chinh phục và cải
biến thê giới để phục vụ cho nhu cầu cuộc sống của mình.
“Con r.gười không thể bằng ý thức mà sản sinh ra các đối
tượng vật chất được. Con người chỉ có thể cải biến thế giới
vật chít theo những thuộc tính, những quy luật vốn có của
nó đ ể táp ứng cho nhu cầu cuộc sống hiện thực” (t>.
* Trên phương diện triết học và phương diện xã hội,
những bộ phận lânh thổ trên trái đất theo năm tháng và
(1) Fh.Ảigghen, (1971), Chống Đuyrinh, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, tr.79.
15
- Di sản thừa k ế theo pháp luật dân sự Việt Nam...
cùng với sự phát triển của xã hội loài người vẫn tồn tại vĩnh
viễn, được truyền lại cho các thế hệ người sống trên trái đất.
Sự “truyền lại” này biểu hiện sự “dịch chuyển' về quyền làm
chủ và cải biến nó của các thế hệ người chứ không phải là
sự dịch chuyển cơ học của chúng trong không gian. Sự
“truyền lại” này chỉ yếu tố' “trước”, “sau” của một quá trình
nối tiếp mang tính kế thừa tự nhiên của xã hội loài người.
* Trên phương diện pháp lý, dựa trên cơ sở ghi nhận
lãnh thổ quốíc tê và các tài nguyên của nó là tài sản chung
của nhân loại, tất cả các quốc gia và các chủ thể khác của
Luật quốc tê đều có quyền bình đẳng trong việc sử dụng tài
sản thê giới Vào mục đích hoà bình và phát triển, vì lợi ích
của toàn thể loài người. 0 đây, thể hiện tính sở hữu quổc
tế, vì thế không có quốc gia nào được phép xác lập chủ
quyền hoặc quyển chủ quyền của mình đối với khôi tài sản
thuộc quyền sở hữu của cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, để
tất cả các quốc gia được bình đẳng trong việc hưởng quyền
sử dụng “khôĩ tài sản ” thuộc quyền sở hữu của cộng đồng
quốíc tế, căn cứ vào vị trí, tính chất, vai trò, tác dụng... của
từng “bộ phận tài sản” mà pháp luật quốc tế đã dựa trên
nguyên tắc chung làm cơ sỏ cho việc sử dụng các bộ phận
lãnh thổ quốc tế được quy định tại các ngành luật của hệ
thống pháp luật quốc tế. Đó là, Luật biển quốc tế quy định
nguyên tắc “tự do biển cả", nguyên tắc “đất thống trị
biển”..., Luật Hàng không quốc tế quy định nguyên tắc “tự
do bay trong vùng trời quốc tể ’, Luật Vũ trụ quốc tế quy
16
- Phần I.Cơ sở lý luận về di sẩn thừa k ế
định Iguyên tắc “tự do nghiên cứu và sử dụng khoảng
khôngvủ trụ”, nguyên tắc “vùng và di sản trên vùng là di
sản chcng của nhân loại”...
Cá: quyền sử dụng tài sản chung của cộng đồng quốc tế
ngày tàng được mở rộng cho tất cả các quốc gia thể hiện
qua CSC thời kỳ phát triển kể từ thòi kỳ cổ đại, thời kỳ
trung iại, thời kỳ cận đại cho đến nay (thòi kỳ hiện đại).
Việc irở rộng quyền sử dụng tài sản chung của cộng đồng
quốc ti cũng chính là nội dung pháp lý của pháp luật quốc
tế ngà^ càng phong phú. Điều đó chứng tỏ rằng nhận thức
của COI người trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên
đã có íự thay đổi sâu sắc, cụ thể là:
- Thay đổi về cách nhìn nhận, đánh giá vai trò và tầm
quan trọng từng bộ phận của khối tài sản thuộc cộng đồng
quốc ú;
- Thay đổi về việc cần thiết phải bảo vệ khôi tài sản
theo ttng bộ phận của nó;
- Thay đổi nhận thức chung về các vấn đề môi trường
quốc tẽ;
- Thay đổi về việc phải mở rộng thêm quyền cho các
quốc ga khi sử dụng khối tài sản thuộc cộng đồng quốíc tế...;
- Thay đổi về việc cần thiết phải có quy chế pháp lý đối
với từig bộ phận trong khối tài sản của nhân loại (hình
thành khung pháp luật quốic tê về môi trường, về vùng và
tài ngiyên của nó...).
17
- Di sản thừa k ế theo pháp luật dân sự Việt Nam...
“Vùng” được hiểu là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển
nằm bên ngoài giới hạn thẩm quyền tài phán quốc giaa>.
Tài nguyên của vùng bao gồm các tài nguyên khoáng
sản ở thể rắn, lỏng hoặc thể khí (insitu) (ngay tại chỗ), kể
cả các khối đa kim nằm dưới đáy đại dương và trong lòng
đất dưới đáy(2).
Nghị quyết số 2749 ngày 17/12/1970 của Đại hội đồng
Liên hợp quôc và Điều 136 của Công ước Luật Biển 1982
đã bổ sung mở rộng khái niệm về vùng bằng thuật ngữ mối
xác định rõ chê độ pháp lý của vùng, khái niệm di sản
chung của loài ngưòi được chính thức hình thành. “Vùng và
tài nguyên của nó là di sản chung của loài người”. Khái
niệm này xác định khối tài sản không thể phân chia, thuộc
sở hữu của cộng đồng quốíc tế. Các quốc gia thành viên phải
đảm bảo không có sự thay đổi nào đối vối nội dung vùng và
tài nguyên của vùng là di sản chung của loài người, đồng
thời cam kết không tham gia vào bất kỳ điều ước quốc tê
nào vi phạm nguyên tắc pháp lý này. Chê độ pháp lý vùng
được xây dựng dựa trên nền tảng của nguyên tắc vùng và
tài nguyên của vùng là di sản chung của nhân loại.
Từ thập kỷ 70, 80 của thế kỷ XX đến nay, con người đã
phải nhận thức lại về mối quan hệ giữa môi trường và sự
phát triển, giữa môi trường và con ngưòi, bởi hậu quả của
Công ước về Luật Biển năm 1982, Khoản 2 Điều 01.
* Công ước về Luật Biển năm 1982, Điều 136.
18
- Phần Ị. (ơ sở lý luận về di sản thừa kế
các vụ I nhiễm làm suy giảm tầng ô - zôn, suy thoái môi
trường,thay đổi khí hậu.... Sự thay đổi nhận thức này
được thỉ hiện trong quá trình hình thành và phát triển
của mội ngành luật mới - Luật quốc tế về môi trường. Đây
là vấn ỉê tất yếu khách quan do nhu cầu phát triển của
thực tiầi đòi sông quốc tế cũng như khoa học pháp lý.
Luật qiốc tê về môi trường ra đời tạo nên “khung pháp lý"
để bảo -ệ và phát triển bền vững môi trường của mỗi quốc
gia cũn; như trên phạm vi toàn thế giới.
Phá) luật quốic tế, bên cạnh quy định quyền bình đẳng
của các quốc gia trong việc sử dụng các bộ phận lãnh thổ
quốc tê 'à tài nguyên thiên nhiên của nó thì đồng thòi quy
định nghĩa vụ của các quốc gia khi sử dụng, khai thác,
quản lýnghiên cứu chúng và cả nghĩa vụ gánh chịu trách
nhiệm ]háp lý quốíc tế đối với hoạt động gây phương hại
đến lợi ch của cộng đồng nhân loại(l).
Loạt thứ hai là các di tích, các quần thể, các thắng
cảnh, CÍC di tích tự nhiên, các cấu trúc địa chất học, các
cảnh vậ tự nhiên... thuộc sở hữu của một quốc gia nào đó
nhưng ó giá trị quốc tế đặc biệt (có giá trị nổi bật toàn cầu)
xét thec quan điểm lịch sử, khoa học, nghệ thuật, bảo tồn
hay thẩn mỹ đã được UNESCO công nhận là di sản văn
hoá, di íản thiên nhiên thê giới. Các tiêu chí này được xem
xét theoquy định của Công ước năm 1972 của UNESCO về
10 Trưònị Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Công pháp Quốc tế.
Nxb. Côní an nhân dân, Hà Nội, tr.469,470.
19
- Di sẩn thừa k ế theo pháp luật dân sự Việt Nam...
việc bảo vệ các di sản văn hoá và thiên nhiên thê giới. Đây là
văn bản pháp lý quốc tê cao nhất làm cơ sở cho việc công nhận
và bảo vệ các di sản văn hoá và thiên nhiên thê giối được
thông qua tại khoá họp lần thứ 17 của Đại hội đồng UNESCO
họp tại Paris ngày 16/11/1972. Việt Nam đã trở thành thành
viên của Công ước này ngày 19/10/1987 theo hình thức chấp
thuận. Công ưốc này ra đời với những đòi hỏi cấp thiết tù
những nguyên nhân trầm trọng cả về khách quan và chủ
quan. Cụ thể: Tính cổ truyền (lâu đời) bị xuống cấp một cách
tự nhiên; hành vi phá hoại của con ngưồi làm cho các loại di
sản bị hư hỏng, bị tàn phá ghê gớm; sự xuống cấp và tàn phá
đã làm nghèo nàn di sản của tất cả các dân tộc trên thế giới.
Nếu từng quốc gia riêng lẻ thực hiện việc bảo vệ nó thi
không có đủ điều kiện về nguồn lực kinh tế, khoa học và kj
thuật. Bởi lẽ, việc bảo vệ các di sản này đòi hỏi rất nhiềi
phương tiện đế bảo tồn một cách hoàn chỉnh mối đạt đượ<
hiệu quả cao nhất. Lời nói đầu Công ước năm 1972 củí
UNESCO về việc bảo vệ các di sản văn hoá và thiên nhiêr
thê giới xác định rõ: Mục đích giúp đỡ, duy trí, xúc tiến vi
p h ổ biến kiến thức đ ể chăm lo tới việc bảo tồn và bảo vệ d
sản của th ế giới, khuyên nghị cho tất cả các dân tộc có liêr
quan đến Công ước quốc tế. Điều đó lại càng quan trọng đô
với việc bảo tồn các tài sản độc nhất và không th ể thay thi
được, bất luận chúng thuộc về dân tộc nào"'.
m Công ước 1972 của UNESCO về việc bảo vệ các di sản văn hoá V
thiên nhiên thế giới.
20
- Phẩn ĩ. Cơ sở lý luận về di sản thừa k ế
TheD Công ước này thì di sản bao gồm di sản văn hoá
và di ssn thiên nhiên.
Tính đến tháng 8/2003, trên toàn cầu có 890 địa danh
được công nhận di sản thế giói, nằm tại 148 nước, trong đó
có 689
nguon tai.lieu . vn